Tiểu Sử Steve Jobs

Chương 41: VÒNG BA



Cuộc chiến giai đoạn cuối

Gia đình gắn bó

Jobs có mong muốn cháy bỏng là có thể sống tới lễ tốt nghiệp trung học của con trai vào tháng Sáu năm 2010. “Khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư, tôi đã có một thỏa ước với Chúa hoặc với bất kỳ ai có quyền năng, rằng tôi thực sự muốn được nhìn thấy Reed trong lễ tốt nghiệp, và rằng hãy cứu vớt tôi qua năm 2009,” Steve nói. Là học sinh cuối cấp, Reed trông kỳ quái giống Steve năm 18 tuổi, với một nụ cười đầy hiểu biết và có phần nổi loạn, ánh nhìn rất mãnh liệt cùng mái tóc đen bù xù. Nhưng Reed cũng được thừa hưởng sự ngọt ngào và khả năng thấu cảm nhạy bén sâu sắc từ mẹ cậu, những điều mà Steve không có. Reed luôn lộ rõ vẻ trìu mến và háo hức khiến người khác cảm thấy hài lòng. Bất cứ khi nào Steve ngồi ủ rũ bên bàn ăn và nhìn chằm chằm xuống sàn nhà − điều thường xuyên xảy ra từ khi ông bị ốm − thì việc duy nhất chắc chắn sẽ khiến cho đôi mắt của Steve bừng sáng lên đó là khi Reed bước vào.

Reed tôn thờ cha mình. Chẳng bao lâu sau khi tôi bắt tay vào viết cuốn sách này, Reed ghé thăm nơi ở của tôi và giống như những gì cha cậu thường làm, cậu đề nghị tôi đi dạo. Với cái nhìn mạnh mẽ và nghiêm túc, Reed nói với tôi rằng cha cậu không phải là một doanh nhân máu lạnh chỉ tìm kiếm lợi nhuận mà là một người được thôi thúc bởi tình yêu đối với những việc ông làm và niềm tự hào về những sản phẩm mà ông tạo ra.

Sau khi Jobs được phát hiện bị ung thư, Reed đã bắt đầu dành tất cả những kỳ nghỉ hè của cậu để làm việc tại phòng thí nghiệm ung thư của Stanford nghiên cứu về trình tự sắp xếp AND nhằm tìm ra những tế bào gen gây ung thư ruột kết. Trong một lần thí nghiệm, cậu đã tìm hiểu cách thức các đột biến gen di truyền giữa các thành viên trong

gia đình. “Một trong những tia hy vọng hết sức hiếm hoi khi tôi bị ốm đó là Reed đã dành rất nhiều thời gian nghiên cứu cùng với một vài vị bác sĩ rất giỏi,” Jobs nói. “Lòng nhiệt huyết của Reed với việc này chính xác là những gì tôi cảm thấy đối với những chiếc máy tính khi tôi bằng tuổi nó. Tôi cho rằng những đổi mới sáng tạo lớn nhất của thế kỷ XXI sẽ nằm ở sự kết hợp giữa sinh học và công nghệ. Một thế kỷ mới đang bắt đầu, giống như sự khởi đầu của một thế kỷ kỹ thuật số hồi tôi bằng tuổi nó bây giờ.”

Reed đã sử dụng nghiên cứu về ung thư của mình làm nền tảng cho báo cáo cuối cấp mà cậu trình bày trước lớp tại Trường Crystal Springs Uplands. Khi Reed mô tả cách thức cậu sử dụng máy ly tâm và thuốc nhuộm để sắp xếp lại những tế bào AND của khối u, Jobs ngồi phía dưới hàng ghế khán giả cùng với tất cả các thành viên khác trong gia đình. Sau đó Jobs đã chia sẻ rằng “Tôi đã tưởng tượng ra cảnh Reed có một ngôi nhà ở Palo Alto này cùng với gia đình riêng của nó và lái chiếc xe đạp đi làm với tư cách một bác sĩ tại Stanford.”

Reed đã trưởng thành rất nhanh trong năm 2009, khi có vẻ như cha cậu không còn sống được bao lâu nữa. Reed đã chăm sóc các em gái của mình trong khi cha mẹ cậu đang ở Memphis, và cậu đã trở thành trụ cột luôn che chở, bao bọc cho gia đình. Nhưng khi sức khỏe của Jobs ổn định lại vào mùa xuân 2010, cậu đã trở về với cá tính hay trêu đùa và ham vui của mình. Một buổi tối nọ, Reed thảo luận với cả nhà xem mình nên đưa bạn gái đi ăn tối ở đâu. Cha cậu gợi ý nên tới II Fornaio, nơi được coi là tiêu chuẩn của sự trang nhã ở Palo Alto, nhưng Reed nói rằng cậu không thể đặt chỗ ở đó được. Cha cậu hỏi “Con có muốn cha thử xem sao không?” Reed phản đối, cậu muốn tự mình giải quyết. Erin, đứa em gái lớn có vẻ hơi nhút nhát, đã gợi ý rằng cô bé có thể dựng một cái lều ngay trong vườn của gia đình và cùng em gái út Eve, phục vụ một bữa tối lãng mạn cho anh trai mình. Reed bèn đứng dậy và ôm chầm lấy cô bé. Reed hứa với Erin rằng cậu sẽ nhờ cô bé làm điều đó vào một dịp khác. Vào một ngày thứ Bảy, Reed là một trong bốn thí sinh trong đội Quiz Kids của trường tham gia thi đấu tại một đài truyền hình địa phương. Cả gia đình đều đến cổ vũ cho Reed – trừ Eve do cô bé đang tham dự một cuộc đua ngựa. Khi đoàn làm phim yêu cầu chuẩn bị bắt

đầu, cha cậu đã cố giữ bình tĩnh và không lộ vẻ gì so với những bậc phụ huynh đang ngồi ở những hàng ghế gấp của đài. Nhưng ông vẫn rất nổi bật trong bộ quần bò, áo đen cổ lọ đã trở thành thương hiệu của Jobs, và một người phụ nữ kéo ghế ngồi xuống cạnh ông và bắt đầu chụp ảnh ông. Không thèm đếm xỉa gì đến người phụ nữ đó, ông đứng dậy và chuyển sang phía đầu kia của dãy ghế. Khi đến lượt Reed, biển tên của cậu ghi là “Reed Powell”. Người dẫn chương trình đã hỏi các học sinh về người mà chúng muốn trở thành khi chúng lớn lên. Reed đã trả lời anh muốn trở thành “Một nhà nghiên cứu ung thư”. Jobs chở Reed trên chiếc Mercedes SL55 hai chỗ ngồi của mình, trong khi vợ ông chở Erin theo sau trên chiếc xe của bà. Trên đường về nhà, bà đã hỏi Erin là tại sao cô bé lại nghĩ rằng cha cô bé đã từ chối lắp biển số xe ô tô. Erin đáp: “Để trở thành một người nổi loạn.” Sau này tôi cũng đặt câu hỏi đó với Jobs. Ông đã trả lời rằng, “Bởi vì thỉnh thoảng cũng có những người theo dõi tôi, và nếu tôi có biển số xe ô tô, họ có thể tra ra nơi tôi sống. Nhưng cách đó đã trở nên lỗi thời từ khi có Google Maps. Cho nên tôi cho rằng, thực tế chỉ đơn giản là vì tôi không có biển số xe mà thôi.”

Trong lễ tốt nghiệp của Reed, cha cậu đã gửi cho tôi một bức thư từ chiếc iPhone thể hiện niềm hân hoan của ông, “Hôm nay là một trong những ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi. Reed sắp tốt nghiệp trung học. Ngay lúc này. Và, mặc cho rất nhiều trở ngại, tôi đang ở đây.” Đêm đó đã diễn ra một bữa tiệc ở nhà họ cùng với những bạn bè thân thiết. Reed đã khiêu vũ cùng với từng thành viên trong gia đình và cùng với cha cậu. Sau đó, Jobs đưa Reed tới một nhà kho như là một cái chuồng ngựa và tặng cho cậu một trong hai chiếc xe đạp của ông, những chiếc xe mà ông sẽ không thể lái được nữa. Reed đùa rằng chiếc của Ý có vẻ hơi sặc sỡ quá, thế là Steve bảo Reed hãy lấy chiếc xe tốc độ tám (Eight-speed) chắc chắn hơn cạnh đó. Khi Reed nói chắc mình sẽ mắc nợ, Steve đáp: “Con không cần phải cảm thấy mắc nợ, bởi vì con có ADN của cha.” Một vài ngày sau đó thì Câu chuyện đồ chơi 3 (Toy Story 3) ra mắt. Jobs đã nuôi dưỡng bộ ba tuyệt tác của Pixar này ngay từ những ngày đầu, và phần cuối cùng này là về những cảm xúc quanh việc Andy vào đại học. “Mẹ ước gì mình có thể luôn ở bên con,” mẹ của Andy nói. Andy trả lời, “Mẹ sẽ luôn ở bên con.”

Mối quan hệ giữa Jobs với hai cô con gái có phần xa cách hơn. Ông dành ít sự quan tâm hơn đối với Erin, cô bé trầm lặng, hướng nội và dường như không biết chính xác cách cư xử với ông, đặc biệt khi ông hay sử dụng những lời châm chọc dễ gây tổn thương. Erin là một cô gái trẻ hấp dẫn và điềm tĩnh, cộng với sự nhạy cảm hơn hẳn cha mình. Cô bé nghĩ rằng mình có thể sẽ trở thành một kiến trúc sư, có lẽ vì cha cô yêu thích lĩnh vực này, và cô cũng có năng khiếu về thiết kế. Nhưng khi cha cô cho Reed xem những bản vẽ một khuôn viên làm việc mới của Apple, cô đang ngồi phía bên kia của phòng bếp, và có vẻ như ông cũng không có ý định gọi cô qua xem cùng. Niềm hy vọng lớn của Erin vào mùa xuân 2010, cô hy vọng cha sẽ đưa cô tới Lễ trao giải Oscar. Erin yêu thích những bộ phim. Và cô còn tha thiết muốn được ngồi cùng với cha mình trên chiếc máy bay cá nhân của ông, bước trên thảm đỏ cùng ông. Powell đã rất sẵn lòng hủy bỏ chuyến đi và cố gắng thuyết phục chồng đưa Erin đi cùng. Nhưng ông đã bác bỏ ý kiến đó.

Một lần, khi tôi sắp hoàn thành cuốn sách này, Powell nói với tôi rằng Erin muốn tôi phỏng vấn cô bé. Tôi đã không đề nghị điều đó bởi vì cô bé chỉ vừa mới bước sang tuổi mười sáu, nhưng rồi tôi đã đồng ý. Điều mà Erin nhấn mạnh là cô bé hiểu được tại sao cha cô thường không tỏ ra ân cần, và cô chấp nhận điều đó. “Bố đã cố gắng hết mình để vừa làm một người cha và vừa làm CEO của Apple, và bố tôi đã làm cả hai việc khá tốt,” cô bé nói. “Đôi khi tôi ước giá mà bố quan tâm tới tôi nhiều hơn, nhưng tôi biết công việc mà ông đang làm rất quan trọng và tôi nghĩ rằng nó thực sự thú vị, vì thế mà tôi cảm thấy không vấn đề gì cả. Tôi thực sự không cần nhiều sự quan tâm hơn từ bố.”

Jobs đã hứa sẽ đưa từng đứa con đi chơi đến nơi mà chúng muốn khi chúng vào tuổi vị thành niên. Reed đã chọn đi Kyoto, vì cậu biết rằng cha mình vẫn bị mê hoặc bởi sự tĩnh lặng của Thiền thành phố đẹp đẽ đó. Cũng không có gì ngạc nhiên, khi Erin bước sang tuổi mười ba vào năm 2008, cô cũng đã lựa chọn Kyoto. Căn bệnh của cha đã khiến ông phải hoãn chuyến đi, do đó ông đã hứa sẽ đưa cô đi vào năm 2010, khi sức khỏe của ông khá hơn. Nhưng tháng Sáu năm đó, Steve đã quyết định là ông không muốn đi nữa. Mặc dù rất buồn nhưng Erin đã không chống lại quyết định này.

Thay vào đó, mẹ cô đã đưa cô tới Pháp cùng với những người bạn của gia đình, và họ đã lên kế hoạch lại cho chuyến đi Kyoto vào tháng Bảy.

Powell lo lắng rằng chồng bà có thể sẽ hoãn chuyến đi một lần nữa, nên bà đã cảm thấy rất hồi hộp khi cả gia đình cất cánh vào đầu tháng Bảy tới Làng Kona, Hawaii, chặng đầu tiên của cuộc hành trình. Nhưng ở Hawaii, bệnh sâu răng của Jobs đã trở nên nghiêm trọng hơn, do ông đã cố tình phớt lờ nó, đến nỗi ông muốn nhổ bỏ chiếc răng sâu đi. Chiếc răng bị vỡ và cần phải được hàn lại. Sau đó thì bộ anten của chiếc iPhone 4 gặp trục trặc lớn, và ông đã quyết định phải nhanh chóng trở về Cupertino cùng Reed. Powell và Erin ở lại Hawaii, hy vọng rằng Jobs sẽ quay trở lại và tiếp tục kế hoạch tới Kyoto.

Không phụ sự hy vọng của họ, và cũng khá ngạc nhiên, Jobs thực sự đã trở lại Hawaii sau buổi họp báo để đón họ và đưa họ tới Nhật Bản. “Đó là một điều kỳ diệu,” Powell nói với một người bạn. Trong khi Reed chăm sóc Eve ở Palo Alto, Erin cùng với cha mẹ đã ở Tawaraya Ryokan, một nhà trọ giản dị mà Jobs rất thích. “Nó thật tuyệt vời,” Erin nhớ lại.

Hai mươi năm trước đây, Jobs đã đưa chị gái cùng cha khác mẹ của Erin, Lisa Brennan-Jobs, tới Nhật Bản khi cô tầm tuổi Erin bây giờ. Một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất của Lisa đó là được thưởng thức một bữa tối tuyệt vời cùng với cha và ngắm ông, một người rất kén ăn, thưởng thức món unagi sushi và những món ăn tinh tế khác. Nhìn cách ông thích thú tận hưởng món ăn khiến Lisa lần đầu tiên cảm thấy thoải mái với ông. Erin nhớ lại một kỷ niệm tương tự: “Cha biết rõ nơi mà ông muốn đến ăn trưa mỗi ngày. Ông nói với tôi rằng ông biết một cửa hàng bán soba tuyệt vời, và ông đã đưa tôi đến đó, và món đó ngon tới nỗi sẽ không thể ăn soba ở đâu ngon như thế nữa.” Họ cũng tìm thấy một quán ăn sushi gần đó, và Jobs đã ghi chú về nơi đó trên chiếc iPhone của mình là “nơi có món sushi ngon nhất mà tôi đã từng ăn.” Erin cũng tán đồng.

Họ cùng tới thăm những ngôi đền thờ của dòng tu Thiền; nơi Erin thích nhất là Saihō-ji, còn được biết đến với tên gọi “ngôi đền rêu phong” nhất, với Chiếc ao Vàng được

bao bọc xung quanh bởi những khu vườn đặc trưng của hàng trăm loại rêu khác nhau. “Erin đã rất rất hạnh phúc, điều đó khiến con bé hết sức phấn khởi và giúp cải thiện mối quan hệ giữa hai cha con,” Powell nhớ lại. “Con bé xứng đáng được như vậy.”

Con gái út của họ, Eve, lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Cô bé rất can trường, tự tôn, và không bao giờ sợ những lời dọa nạt của cha. Niềm đam mê của cô bé là cưỡi ngựa, và cô bé đã rất quyết tâm giành giải trong kỳ thi Olympic. Khi một huấn luyện viên nói với Eve về việc cô bé sẽ phải vất vả tập luyện như thế nào, Eve đáp rằng, “Hãy nói cho cháu biết chính xác điều cần phải làm. Cháu sẽ làm điều đó.” Anh ta đã chỉ dạy cho cô bé, và cô bé đã rất cần mẫn theo sát chương trình.

Eve là chuyên gia trong một nhiệm vụ khó khăn là có bằng được câu trả lời từ cha mình; cô bé vẫn thường gọi điện trực tiếp cho trợ lý của ông tại nơi làm việc để đặt thêm một việc gì đó vào lịch của ông. Cô bé cũng là một nhà thương thuyết khá tài tình. Vào một dịp cuối tuần năm 2010, khi gia đình đang lên kế hoạch cho một chuyến đi chơi, Erin đã muốn lùi thời gian khởi hành lại nửa ngày, nhưng cô bé sợ phải yêu cầu cha mình. Eve, khi đó mười hai tuổi, đã tình nguyện thực hiện nhiệm vụ đó, và vào bữa tối Eve đã đặt vấn đề với cha như thể cô bé là một luật sư đứng trước Tòa án Tối cao vậy. Jobs ngắt lời Eve − “Không, cha không nghĩ là mình muốn vậy” – nhưng rõ ràng là ông đang muốn trêu chọc hơn là gây khó dễ cho cô bé. Tối hôm đó, Eve đã ngồi cạnh mẹ cô và cố gắng đưa ra thật nhiều cách có thể giúp giải quyết trường hợp này tốt hơn.

Jobs đánh giá cao tinh thần của Eve – và nhìn thấy ở cô bé nhiều điểm giống mình. “Con bé như là một khẩu súng lục và có một ý chí mạnh mẽ nhất trong số những đứa trẻ mà tôi đã từng gặp,” ông nói. “Điều đó giống như là sự đáp trả đối với tôi vậy.” Ông hiểu rất rõ tính cách của cô bé, có lẽ bởi vì tính cách của cô bé có nhiều điểm tương đồng với ông. “Eve nhạy cảm hơn nhiều người nghĩ,” ông giải thích. “Con bé thông minh tới nỗi đôi khi nó đi trước người khác một chút, vì thế điều đó khiến con bé cách biệt với mọi người, và tự cảm thấy mình cô đơn. Con bé đang trong quá trình học hỏi để trở thành chính mình, nhưng lại biết cách kiềm chế bản thân xung quanh

những giới hạn, vì vậy con bé vẫn tìm được những người bạn mà con bé cần.”

Mối quan hệ của Jobs với vợ đôi khi rất phức tạp nhưng luôn chung thủy. Hiểu biết và giàu lòng trắc ẩn, Laurene Powell là một nguồn ảnh hưởng đem lại sự cân bằng và là một ví dụ minh chứng rằng Jobs có khả năng bù đắp lại phần nào những động lực cá nhân ích kỷ của mình khi bên cạnh ông là những con người nhạy cảm và có ý chí kiên cường. Laurene âm thầm cân nhắc những vấn đề trong việc kinh doanh, kiên quyết trong những vấn đề gia đình, và mãnh liệt trong những vấn đề về y tế. Những năm đầu trong cuộc hôn nhân của họ, bà đồng sáng lập và khai giảng College Track, một chương trình giúp cho nhưng đứa trẻ thiệt thòi được tốt nghiệp trung học và vào đại học. Kể từ đó, bà đã trở thành lực lượng đi đầu trong công cuộc cải tổ nền giáo dục. Jobs bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với công việc của vợ mình: “Điều mà cô ấy đang làm với College Track thực sự gây ấn tượng đối với tôi.” Nhưng ông có xu hướng về cơ bản là không quan tâm đến những hoạt động từ thiện và không bao giờ tới thăm những trung tâm của bà.

Vào tháng Hai năm 2010, Jobs tổ chức sinh nhật lần thứ 55 của mình cùng với gia đình. Căn bếp được trang trí với những dải băng giấy nhiều màu và bóng bay, bọn trẻ tặng ông một chiếc vương miện đồ chơi đỏ như nhung và ông đã đeo. Hiện giờ Jobs đã hồi phục từ sau một năm kiệt sức với những vấn đề về sức khỏe, và Powell hy vọng rằng ông có thể quan tâm tới gia đình nhiều hơn. Nhưng ông lại chủ yếu tập trung vào công việc. “Tôi nghĩ rằng gia đình mình đã cảm thấy rất khó khăn, đặc biệt là những cô con gái của tôi,” bà nói. “Sau hai năm Jobs bị bệnh, cuối cùng ông ấy cũng đã khá hơn đôi chút, và những đứa trẻ hy vọng rằng ông ấy có thể quan tâm hơn tới chúng, nhưng ông ấy đã không làm vậy.” Bà muốn chắc chắn rằng cả hai khía cạnh trong con người Jobs được phản ánh trong cuốn sách này và đặt đúng vào hoàn cảnh của chúng. “Giống như rất nhiều những con người vĩ đại sở hữu những tài năng phi thường, Jobs cũng không phải là phi thường trong mọi lĩnh vực,” bà nói. “Ông ấy không có sự nhã nhặn xã giao, ví dụ như đặt mình vào địa vị của người khác để suy nghĩ, mà ông ấy quan tâm sâu sắc tới việc giao quyền cho con người, sự phát triển của con người, và đem đến cho họ những công cụ sử dụng thích hợp.”

Tổng thống Obama

Trong một chuyến thăm tới Washington vào đầu mùa thu 2010, Powell gặp một vài người bạn của bà tại Nhà Trắng và họ đã nói với bà rằng Tổng thống Obama sắp sửa tới Thung lũng Silicon vào tháng Mười năm đó. Bà gợi ý rằng có lẽ tổng thống sẽ muốn gặp chồng bà. Những phụ tá của Obama thích gợi ý này; nó phù hợp với định hướng mới tập trung vào tính cạnh tranh của Tổng thống. Bên cạnh đó, John Doerr, một nhà đầu tư mạo hiểm, một trong những người bạn thân của Jobs, đã trình bày quan điểm của Jobs với toàn thể hội nghị của Ban Cố vấn Khôi phục Kinh tế của Tổng thống Obama về việc tại sao nước Mỹ đang mất đi những điều đã từng khiến họ thành công. John đã hết lòng đề nghị Obama gặp gỡ Jobs. Vì thế mà chương trình làm việc của Tổng thống đã dành ba mươi phút cho buổi làm việc tại Sân bay Westin San Francisco.

Tuy nhiên, có một vấn đề: Khi Powell nói chuyện với Steve, ông nói là mình không muốn gặp Tổng thống. Ông rất bực bội vì bà đã bí mật sắp xếp việc này sau lưng ông. “Tôi không cố tình chen vào một buổi gặp chiếu lệ để mà sau đó Tổng thống có thể hoàn thành mục tiêu phải gặp một CEO nào đó của ông ấy,” Jobs nói với Powell như vậy. Bà khẳng định rằng Tổng thống Obama “thực sự muốn gặp ông”. Jobs đã trả lời rằng nếu đúng là như vậy, thì ngài Obama nên gọi điện thoại và tự đề nghị gặp gỡ. Sự căng thẳng kéo dài tới năm ngày. Bà đã gọi Reed, lúc đó đang ở Stanford, về nhà ăn tối và cố thuyết phục cha. Jobs cuối cùng cũng đã dịu lại.

Buổi nói chuyện thực tế đã diễn ra trong bốn mươi lăm phút, và Jobs đã rất thẳng thắn. “Ngài được giao trọng trách điều hành đất nước trong một nhiệm kỳ tổng thống,” Jobs nói với Tổng thống Obama khi bắt đầu cuộc nói chuyện. Jobs nói, công tác quản lý đất nước cần phải hướng tới kinh doanh hơn. Ông mô tả về việc xây dựng một nhà máy ở Trung Quốc dễ dàng như thế nào, và nói rằng bây giờ hầu như là không thể làm như vậy ở Mỹ, phần lớn là do những luật lệ và chi phí không cần thiết.

Jobs cũng đã tấn công vào hệ thống giáo dục của Mỹ, cho rằng hệ thống này quá cũ và đã bị phá hoại bởi những quy tắc làm việc của Liên đoàn giáo viên. Chừng nào mà

các Liên đoàn giáo viên Mỹ còn chưa được phá bỏ, thì gần như chẳng có hy vọng nào cho việc cải cách giáo dục. Các giáo viên phải được đối xử như là những giáo sư, chứ không phải là những công nhân sản xuất dây chuyền. Các hiệu trưởng phải có khả năng thuê và sa thải các giáo viên dựa trên năng lực của họ. Các trường học phải mở cửa ít nhất tới 6 giờ tối và theo chương trình học mười một tháng mỗi năm. Ông nói thêm rằng thật ngớ ngẩn khi các lớp học ở Mỹ vẫn dựa vào việc các giáo viên đứng trên bục giảng và sử dụng sách giáo khoa. Tất cả các cuốn sách, các tài liệu học tập và đánh giá phải được số hóa và có tính tương tác, thích ứng với từng sinh viên và đưa ra phản hồi ngay lập tức.

Jobs đề nghị tập hợp một nhóm gồm sáu hoặc bảy CEO, những người có thể thực sự lý giải những thách thức đổi mới nào mà nước Mỹ đang gặp phải, và tổng thống đã đồng ý. Vì vậy, Jobs đã đưa ra một danh sách các CEO này trong một hội nghị tại Washington được tổ chức vào tháng Mười hai. Không may thay, sau khi Valerie Jarrett và các nhân viên phụ tá cho tổng thống bổ sung thêm những cái tên khác, danh sách đã được mở rộng tới hơn hai mươi người, với cái tên đầu tiên là Jeffrey Imment của General Electric. Jobs đã gửi thư điện tử cho Jarrett, viết rằng danh sách đó đã bị “phình ra” và ông không có ý định tham dự nữa. Trên thực tế, do các vấn đề sức khỏe tái diễn nên ông không thể tới tham dự, và Doerr đã kín đáo giải thích riêng cho Tổng thống.

Vào tháng Hai năm 2011, Doerr đã bắt đầu lên kế hoạch tổ chức một bữa ăn tối nhỏ cho Tổng thống Obama tại Thung lũng Sillicon. Ông và Jobs, cùng với phu nhân của họ, tới bữa tối tại Evvia, một quán ăn Hy Lạp ở Paolo Alto, để đưa ra một danh sách những khách mời được lựa chọn kỹ lưỡng. Mười hai chuyên gia hàng đầu về công nghệ đã được lựa chọn trong đó có Eric Schmidt của Google, Carol Bartz của Yahoo, Mark Zuckerberg của Facebook, John Chambers của Cisco, Larry Ellison của Oracle, Art Levinson của Genentech, và Reed Hastings của Netflix. Đóng góp của Jobs vào bữa tối còn được mở rộng ra cả việc chọn món. Doerr đã gửi cho Jobs một thực đơn dự kiến, và ông đã trả lời rằng một số món do cửa hàng đề xuất – tôm, cá tuyết, salad đậu lăng – là những món ăn quá xa xỉ “và không đúng với con người của anh, John

ạ.” Ông cũng đặc biệt phản đối thực đơn tráng miệng, bánh kem trang trí bằng kẹo mềm sô-cô-la, nhưng những nhân viên cấp cao của Nhà Trắng gạt bỏ ý kiến của Jobs bằng việc nói với nhà hàng rằng Tổng thống thích bánh kem. Vì Jobs đã sút rất nhiều cân nên rất dễ bị nhiễm lạnh, Doerr đã giữ ngôi nhà ở nhiệt độ ấm đến nỗi mà Zuckerberg thấy mình toát cả mồ hôi.

Jobs, ngồi cạnh Tổng thống, bắt đầu bữa tối khi nói: “Bất kể niềm tin chính trị của chúng ta như thế nào, tôi muốn ngài biết rằng chúng tôi ở đây để làm bất cứ điều gì ngài yêu cầu có thể giúp ích cho đất nước của chúng ta.” Ngoại trừ câu nói đó, ban đầu bữa tối trở thành một buổi nói chuyện dài với những đề xuất về việc Tổng thống có thể làm gì để phát triển những doanh nghiệp ở đó. Ví dụ như Phòng thương mại đưa ra một bản đề xuất cho vấn đề thuế hồi hương trong kỳ nghỉ lễ, cho phép các tổ chức lớn có thể tránh được những khoản thuế phải đóng góp cho những khoản lợi nhuận thu được ở nước ngoài nếu họ đem về Mỹ cho các hoạt động đầu tư trong một giai đoạn nhất định. Tổng thống đã cảm thấy khó chịu, và vì vậy Zuckerberg, ngồi ngay phía bên phải Valerie Jarrett đã quay sang ông này và thì thầm, “Chúng ta nên nói về những vấn đề quan trọng đối với đất nước. Tại sao ông ta lại nói về ấn đề quan trọng đối với bản thân?”

Doerr đã khiến buổi thảo luận tập trung trở lại bằng việc yêu cầu mọi người đưa ra một danh sách những việc cần làm. Tới lượt Jobs, ông đã nhấn mạnh đến nhu cầu có thêm nhiều kỹ sư lành nghề và đề xuất rằng bất cứ một sinh viên nước ngoài nào có được tấm bằng kỹ sư tại Mỹ nên được cấp visa ở lại Mỹ. Obama nói rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trong bối cảnh của “Đạo luật Ước mơ” , đạo luật giúp cho những người nhập cư trái phép đến Mỹ khi còn nhỏ và tốt nghiệp trung học được trở thành công dân hợp pháp – một điều mà Đảng Cộng hòa đã phản đối. Jobs nhận thấy đây là trường hợp rất phiền toái của chính trị làm dẫn tới sự tê liệt trong việc vận hành đất nước. “Tổng thống rất thông minh, nhưng ông ta vẫn không ngừng lý giải cho chúng tôi những lý do tại sao mọi việc lại không thể thực hiện,” Jobs nhớ lại. “Điều đó khiến tôi phát điên.” Jobs vẫn tiếp tục thuyết phục Tổng thống rằng có một cách để đào tạo nhiều kỹ sư người Mỹ hơn. Apple có hơn 700.000 công nhân đang làm việc

tại các nhà máy ở Trung Quốc, ông nói, và rằng Apple cần có 30.000 kỹ sư tại chỗ để trợ giúp cho những công nhân kia. Những kỹ sư này không buộc phải có bằng Tiến sĩ hay phải là những thiên tài; họ chỉ cần có những kỹ năng cơ bản của một kỹ sư để phục vụ cho sản xuất. Những trường công nghệ, các đại học cộng đồng, hoặc những trường thương mại có thể đào tạo họ. “Nếu ngài có thể đào tạo những kỹ sư này,” Jobs nói, “chúng ta có thể chuyển nhiều nhà máy sản xuất sang đó.” Cuộc tranh luận đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với Tổng thống. Hai hoặc ba lần trong tháng sau đó, ông đã nói với những người phụ tá của mình, “Chúng ta cần phải tìm ra những cách thức để đào tạo được 30.000 kỹ sư sản xuất mà Jobs đã nói.”

Jobs rất hài lòng vì Tổng thống đã tiếp tục suy nghĩ về vấn đề này, và họ đã nói chuyện điện thoại vài lần sau buổi gặp đó. Ông đã đề nghị được giúp Obama trong chiến dịch tranh cử 2012 tới. (Jobs đã đưa ra đề nghị này một lần vào năm 2008, nhưng ông thấy bực mình khi chiến lược gia của Obama, David Axelrod, chẳng có gì hoàn toàn khác biệt cả.) “Tôi cho rằng việc quảng cáo chính trị thật tệ hại. Tôi muốn Lee Clow không nghỉ hưu nữa và chúng tôi sẽ có thể nghĩ ra một cách thức quảng bá hình ảnh tuyệt vời cho Tổng thống,” Jobs đã nói như vậy với tôi vài tuần sau bữa tối đó. Ông đã vật lộn với đau đớn suốt cả tuần, nhưng buổi nói chuyện về chính trị đã tiếp thêm sinh lực cho ông. “Theo một chu kỳ đều đặn, một người làm quảng cáo chuyên nghiệp thực thụ sẽ tham gia vào cuộc chơi chính trị, giống như cách thức mà Hal Riney đã làm với ‘Bình minh ở nước Mỹ’ cho đợt tái bầu cử của Tổng thống Reagan vào năm 1984. Vì vậy đó là điều mà tôi muốn làm cho tổng thống Obama.”

Đợt nghỉ Điều trị thứ 3, năm 2011

Căn bệnh ung thư luôn có những dấu hiệu khi tái phát. Jobs đã học được điều đó. Ông sẽ ăn không ngon và bắt đầu cảm thấy toàn thân đau nhức. Các bác sĩ đã thực hiện các cuộc kiểm tra, chẳng phát hiện ra điều gì và trấn an rằng ông vẫn hoàn toàn bình thường. Nhưng ông biết rõ việc đó hơn. Căn bệnh ung thư có những đường truyền tín hiệu riêng, và một vài tháng sau khi ông nhận thấy các dấu hiệu, các bác sĩ khám phá ra rằng thực tế căn bệnh không thuyên giảm nữa. Một sự suy sụp sức khỏe

khác bắt đầu vào đầu tháng Mười một năm 2010. Jobs thường xuyên đau nhức, không ăn uống được và phải nuôi ăn tĩnh mạch nhờ một y tá tới tận nhà. Nhưng các bác sĩ đã không tìm thấy dấu hiệu nào của những khối u khác, và họ cho rằng đây chỉ là một trong những chu kỳ lặp lại của quá trình kháng khuẩn và kháng thuốc của cơ thể Jobs. Ông không phải là người duy nhất chịu đựng những cơn đau này, do đó các bác sĩ và gia đình phần nào đó trở nên quen thuộc với những lời phàn nàn của ông.

Ông và gia đình tới Làng Kona vào Lễ Tạ ơn, nhưng việc ăn uống của ông không khá hơn. Bữa tối ở đó được phục vụ trong một căn phòng lớn chung, và những vị khách khác vờ như không để ý rằng Jobs trông hốc hác, nhăn nhó và rên rỉ trong bữa ăn, và không hề động vào chút thức ăn nào. Đó là bằng chứng rõ ràng về việc tình trạng sức khỏe của ông đã không hề được tiết lộ ra ngoài. Khi trở lại Palo Alto, Jobs trở nên dễ xúc động và rầu rĩ hơn. Jobs nghĩ rằng mình sắp chết, vì thế ông đã nói chuyện với các con của mình, và ông cảm thấy bế tắc khi nghĩ đến việc ông sẽ không bao giờ được tổ chức tiệc sinh nhật cho chúng nữa.

Tới Lễ Giáng sinh năm đó, ông đã giảm xuống còn 52 kg, nhẹ hơn gần 23 kg so với trọng lượng bình thường của ông. Mona Simpson cùng với chồng cũ của cô, nhà viết hài kịch trên truyền hình – Richard Appel, và mấy người con của họ tới Palo Alto vào kỳ nghỉ. Tâm trạng Jobs tốt hơn một chút. Hai gia đình chơi các trò chơi trong nhà như trò Novel. Trong trò này, các thành viên tham gia cố gắng đánh lừa nhau xem ai có thể viết được một câu mở đầu khác cho một cuốn sách một cách thuyết phục nhất, và những thứ mà có vẻ sẽ phải mất thời gian tra cứu. Jobs đã không thể ra ngoài ăn tối cùng với Powell tại một nhà hàng vài ngày sau Lễ Giáng sinh. Lũ trẻ tham dự một kỳ nghỉ trượt tuyết nhân dịp năm mới, còn Powell và Mona Simpson thay phiên nhau ở nhà với Jobs ở Palo Alto.

Tuy nhiên, đến đầu năm 2011, rõ ràng đó không chỉ đơn thuần là một trong những giai đoạn đặc biệt khó khăn mà Jobs phải trải qua. Các bác sĩ của ông đã chẩn đoán là có bằng chứng về những khối u mới, và những dấu hiệu của bệnh ung thư đã làm tình trạng chán ăn của ông trở nên trầm trọng hơn. Họ đang đấu tranh để quyết định xem

liệu với cơ thể hao mòn như hiện nay của Jobs có thể chịu đựng được liều lượng thuốc như thế nào. Từng xen-ti-mét trên cơ thể ông như phải chịu những cú đấm, Jobs nói với bạn bè như vậy, khi ông rên rỉ và đôi khi cường điệu hóa sự đau đớn.

Đó là một chu kỳ luẩn quẩn. Những dấu hiệu đầu tiên của ung thư gây ra đau đớn. Mocfin và những thuốc giảm đau khác mà ông uống làm triệt tiêu hứng thú ăn uống. Tuyến tụy của ông đã bị cắt bỏ một phần và gan của ông đã được thay thế, vì vậy hệ thống tiêu hóa của ông bị hỏng và gây ra vấn đề trong việc hấp thụ protein. Sút cân gây cản trở cho việc áp dụng những liệu pháp chữa trị bằng thuốc liều cao lên cơ thể. Tình trạng suy nhược của cơ thể cũng khiến ông trở nên dễ bị nhiễm trùng hơn, giống như những gì gây ra bởi thuốc tăng sức đề kháng mà ông đôi khi phải uống để giúp cho cơ thể tránh thải loại lá gan được cấy ghép. Việc sút cân còn làm giảm lớp mỡ xung quanh cơ quan cảm nhận sự đau đớn, khiến ông càng cảm thấy đau đớn hơn. Và ông có xu hướng đẩy cảm xúc tới cực độ, dễ dàng nhận ra bởi những cuộc vật lộn kéo dài của sự giận dữ và nỗi tuyệt vọng, điều đó lại càng khiến ông ăn mất ngon.

Những vấn đề về ăn uống của Jobs đã bị trầm trọng hóa qua nhiều năm bởi thái độ của ông đối với đồ ăn. Khi Jobs còn trẻ, ông được học rằng mình có thể đạt được sự hưng phấn và thăng hoa nhờ vào những thức ăn đặc biệt. Vì vậy mặc dù biết là mình nên ăn – những bác sĩ đã khẩn cầu ông phải ăn nhiều protein – thì ông vẫn thừa nhận rằng thẳm sâu trong tiềm thức của mình ông có bản năng đối với việc ăn uống và chế độ ăn uống toàn hoa quả của Arnold Ehret mà ông đã áp dụng từ thời niên thiếu. Powell thường xuyên nói với ông rằng điều đó thật điên rồ, thậm chí bà còn chỉ ra rằng Ehret đã chết ở tuổi 56 khi ông ấy bị sẩy chân ngã và đập đầu xuống đất, và bà ấy còn rất tức giận khi ông ngồi xuống bàn và chỉ im lặng nhìn chằm chằm vào chiếc máy tính của mình. “Tôi đã muốn ông ấy phải ăn uống một chút,” bà nói, “và điều đó rất căng thẳng ở gia đình tôi.” Bryar Brown, đầu bếp làm bán thời gian tại gia đình họ, thường đến vào buổi chiều và làm một loạt những món ăn tốt cho sức khỏe, nhưng Jobs chỉ nếm thử một hoặc hai món và sau đó bỏ hết chúng vì không thể ăn được. Một buổi tối, ông tuyên bố, “Tôi có thể sẽ ăn một chút bánh bí đỏ,” và bác Brown tốt bụng đã tự tay làm một chiếc bánh rất đẹp sau một giờ hì hụi. Jobs đã chỉ ăn một

miếng duy nhất, nhưng bác Brown rất xúc động.

Powell đã nói chuyện với các chuyên gia về chứng rối loạn ăn uống và các chuyên gia tâm thần học, nhưng chồng bà muốn tránh xa họ. Ông từ chối việc uống bất kỳ loại thuốc nào hay tham gia bất kỳ cuộc điều trị nào đối với sự suy nhược của mình. Ông nói: “Khi bạn có những cảm nhận, như là buồn bã hay tức giận về căn bệnh ung thư hay sự tuyệt vọng của mình, việc che dấu chúng như là đang sống một cuộc sống giả tạo vậy.” Trên thực tế, ông đã chuyển sang thái cực ngược lại. Ông trở nên ủ rũ, dễ khóc và dễ xúc động khi ông kêu than với những người xung quanh rằng ông sắp chết. Sự suy nhược đã trở thành một chu kỳ luẩn quần khiến ông càng không muốn ăn.

Những bức ảnh và những video của Jobs trông hốc hác bắt đầu xuất hiện trên mạng, và những tin đồn về tình trạng sức khỏe tồi tệ của Jobs nhanh chóng được tràn lan. Powell nhận ra rằng vấn đề là những tin đồn lại sự thật, và chúng không biến mất. Jobs đã miễn cưỡng đồng ý phải nghỉ ốm hai năm trước đó, khi gan của ông bị hỏng, và lần này ông vẫn phản đối việc nghỉ ốm. Nó giống như thể phải từ bỏ quê hương, và không chắc chắn rằng ông sẽ còn dịp trở lại. Cuối cùng khi ông phải khuất phục trước điều không thể tránh khỏi, vào tháng Giêng năm 2011, ban điều hành công ty đã hy vọng ông sẽ làm vậy; trong buổi họp qua điện thoại kéo dài ba phút ông nói với họ là ông muốn nghỉ thêm một lần nữa. Trong những phiên họp liên quan đến việc quản lý, ông vẫn thường thảo luận với ban quản trị những suy nghĩ của ông về việc ai sẽ là người kế nhiệm nếu ông có mệnh hệ gì, ông nêu ra cả những lựa chọn ngắn hạn và dài hạn. Nhưng trong tình trạng hiện tại, không còn nghi ngờ gì rằng Tim Cook sẽ là người đảm nhận việc vận hành các công việc hàng ngày.

Buổi chiều thứ bảy tiếp sau đó, Jobs đã cho phép vợ ông triệu tập một cuộc họp những bác sĩ của ông. Ông nhận thấy rằng ông đang gặp phải một vấn đề mà ông không bao giờ cho phép xảy ra tại Apple. Việc điều trị của ông đã bị gián đoạn thay vì liền mạch. Mỗi một chứng bệnh trong vô số những chứng bệnh của ông đang được điều trị bởi những chuyên gia khác nhau, những bác sĩ chuyên khoa ung thư, những

chuyên gia trị đau, những chuyên gia dinh dưỡng học, những chuyên gia về gan, và những chuyên gia về huyết học – nhưng họ không hợp tác với nhau để tìm ra một phương pháp toàn diện, theo cái cách mà James Eason đã làm ở Memphis. “Một trong những vấn đề lớn trong ngành chăm sóc sức khỏe đó là thiếu những người nghiên cứu dựa trên nhóm đối tượng cụ thể hoặc những luật sư giống như những tiền vệ của mỗi đội bóng.” Powell nói. Điều này đặc biệt đúng ở Stanford, nơi mà có vẻ như chẳng ai chịu trách nhiệm về việc xác định xem dinh dưỡng có liên quan như thế nào đến việc chăm sóc vết thương và bệnh ung thư. Vì vậy Powell đã yêu cầu rất nhiều các chuyên gia tại Stanford tới nhà của mình để tham gia một buổi họp và đồng thời cũng mời một vài vị bác sĩ ở bên ngoài có sử dụng những phương pháp kết hợp và quyết liệt hơn, như là David Agus của USC. Họ cùng thống nhất về một chế độ dinh dưỡng mới trong việc điều trị đau và việc kết hợp với những phương pháp điều trị khác.

Nhờ có một vài nghiên cứu khoa học tiên phong, nhóm các bác sĩ đã có thể giúp Jobs tiến thêm một bước trong việc điều trị ung thư. Ông đã trở thành một trong hai mươi người đầu tiên trên thế giới có tất cả các gen của khối ung thư cũng như các gen của ADN được sắp xếp bình thường. Tại thời điểm đó, quá trình đó tốn tới 100.000 đô-la.

Việc sắp xếp thứ tự gen và phân tích gen đã được phối hợp thực hiện với đội ngũ chuyên gia tại Stanford, Viện Johns Hopkins, và Học viện Broad thuộc Đại học MIT và Harvard. Bằng việc biết được dấu hiệu tế bào và gen đặc biệt hình thành nên khối u của Jobs, các bác sĩ của ông đã có thể chọn ra đúng loại thuốc đặc trị có thể tập trung tấn công vào đường dẫn phân tử bị hỏng đã khiến những tế bào ung thư phát triển theo một cách thức bất thường. Phương pháp này, được gọi là phương pháp điều trị tập trung vào tế bào, hiệu quả hơn nhiều so với phương pháp hóa trị liệu truyền thống, phương pháp tấn công vào quá trình phân chia của toàn bộ các tế bào trong cơ thể, bất kể tế bào đó là tế bào ung thư hay không. Phương pháp tập trung vào tế bào này không phải là một viên đạn bạc, nhưng có những lúc nó đã gần như có tác dụng như vậy: nó cho phép các bác sĩ xem xét một lượng lớn các loại thuốc – phổ biến hoặc không phổ biến, đã có sẵn hoặc đang trong quá trình nghiên cứu phát triển – để tìm xem một vài loại có công hiệu nhất. Mỗi khi căn bệnh ung thư của ông biến đổi và bị

mất tác dụng với một trong những loại thuốc này, các bác sĩ có ngay một loại thuốc khác để sử dụng sau đó.

Mặc dù Powell đã rất cần mẫn trong việc theo dõi quá trình chăm sóc chồng, ông vẫn là một trong những người đưa ra quyết định cuối cùng về mỗi chế độ dinh dưỡng điều trị mới. Một ví dụ điển hình xảy ra vào tháng 5 năm 2011, khi ông tổ chức một buổi họp với George Fisher và những vị bác sĩ khác từ Stanford, những chuyên gia phân tích trình tự sắp xếp gen từ Học viện Broad, và chuyên gia tư vấn từ bên ngoài David Agus. Họ đều tập trung xung quanh một chiếc bàn trong một phòng tại khách sạn Four Seasons ở Palo Alto. Powell đã không đến, nhưng con trai của họ, Reed đã đến. Ba tiếng đồng hồ với các bài thuyết trình của những nhà nghiên cứu thuộc Standford và Học viện Broad về những thông tin mới mà họ mới thu thập được về những dấu hiệu về gen đối với căn bệnh ung thư của ông. Jobs vẫn thường nóng tính. Có một lần ông đã ngắt quãng một chuyên gia phân tích của Học viện Broad người đã mắc lỗi trong việc sử dụng chương trình trình chiếu PowerPoint. Jobs đã khiển trách anh ta và giải thích tại sao phần mềm thuyết trình Keynote của Apple lại tốt hơn, ông thậm chí còn đề nghị dạy anh ta cách sử dụng nó. Cuối buổi hội thảo, Jobs và nhóm làm việc đã xem một lượt tất cả những dữ liệu thuộc phân tử, đánh giá những nguyên nhân căn bản đối với mỗi một liệu pháp khả thi, và đưa ra một danh sách những bài kiểm tra có thể giúp họ sắp xếp thứ tự ưu tiên áp dụng những liệu pháp này.

Một trong những vị bác sĩ đã nói với ông rằng có một hi vọng cho bệnh ung thư của ông, và những người khác thích điều đó, nó sẽ sớm được cân nhắc như một căn bệnh ung thư hiếm hoi có thể kiểm soát được, căn bệnh mà có thể duy trì cho tới khi người bệnh chết về một nguyên nhân khác. “Hoặc tôi sẽ trở thành một trong những người đầu tiên có thể chiến thắng bệnh ung thư theo phương pháp này, hoặc tôi sẽ là một trong những người cuối cùng chết vì nó,” Jobs nói với tôi ngay sau một trong những cuộc họp với các bác sĩ. “Hoặc sẽ là một trong số những người khiến phương pháp này trở thành phương pháp cốt lõi, hoặc là người cuối cùng loại bỏ nó.”

Những vị khách viếng thăm

Khi việc ông xin nghỉ ốm năm 2011 được công bố, tình trạng có vẻ như kinh khủng tới mức Lisa Brenan-Jobs đã liên lạc lại sau hơn một năm gián đoạn và sắp xếp để bay từ New York đến ngay tuần sau đó. Mối quan hệ giữa cô và cha cô đã được xây dựng dựa trên sự oán giận. Cô đã cảm thấy sợ hãi một cách khó hiểu khi gần như đã bị bỏ rơi hoàn toàn trong mười năm đầu đời. Sự việc càng trở nên tồi tệ khi cô được thừa hưởng một vài tính dễ cáu giận của ông, và ông thì cảm thấy cố có nét tính cách hay than vãn của mẹ cô. “Tôi đã nói với con bé rất nhiều lần rằng tôi ước có thể là một người cha tốt hơn khi con bé năm tuổi, nhưng bây giờ con bé nên bỏ qua mọi chuyện hơn là cứ giận dữ như vậy suốt phần đời còn lại,” ông nhớ lại ngay trước khi Lisa tới.

Chuyến thăm đã diễn ra tốt đẹp. Jobs đã bắt đầu cảm thấy khá hơn một chút, và ông ở trong tâm trạng thân thiện và thể hiện sự yêu mến đối với những người xung quanh. Ở độ tuổi ba mươi hai, gần như lần đầu tiền trong cuộc đời, Lisa đang có một mối quan hệ nghiêm túc. Bạn trai cô là một nhà làm phim trẻ sống chật vật đến từ California, và Jobs đã đi xa tới mức đề nghị cô trở lại Palo Alto nếu họ cưới nhau. “Nhìn xem, cha không biết còn sống được bao lâu nữa,” ông nói với cô. “Những bác sĩ không thể nói cho cha biết. Nếu con muốn nhìn thấy cha nhiều hơn, con nên chuyển tới đây. Tại sao con còn phải đắn đo như vậy?” Mặc dù Lisa đã không chuyển về, Jobs cũng đã rất hài lòng về việc hòa giải giữa hai cha con đã có tác dụng. “Tôi đã không chắc về việc tôi muốn con bé tới thăm trước đó, bởi vì tôi đang ốm và tôi không muốn có thêm sự rắc rối nào nữa. Nhưng tôi rất vui mừng vì con bé đã tới. Nó giúp tôi giải tỏa được nhiều thứ trong lòng mình.”

Jobs đã có một cuộc viếng thăm khác trong tháng đó từ một người cũng muốn xóa bỏ sự ngăn cách. Người đồng sáng lập của Google, Larry Page, chỉ sống cách gia đình Jobs ba khu nhà, đã tuyên bố có kế hoạch nắm lại quyền điều hành công ty từ Eric Schmidt. Ông biết cách khiến Jobs vui: Ông đã hỏi rằng liệu ông có thể ghé qua và học hỏi những bí quyết để trở thành một CEO giỏi. Jobs vẫn còn điên tiết với Google. “Ý nghĩ đầu tiên của tôi là, ‘Đồ khốn,’” ông nhớ lại. “Nhưng sau đó tôi đã nghĩ về lời đề nghị đó và nhận ra rằng mọi người đã giúp tôi khi tôi còn trẻ, từ Bill Hewlett cho tới những người đã làm việc ở HP. Vì thế tôi đã gọi lại cho ông ta và nói là ông ta có

thể qua.” Page ghé qua, ngồi trong phòng khách của Jobs, và lắng nghe những ý kiến của Jobs về việc làm nên những sản phẩm vĩ đại và những công ty trường tồn. Jobs nhớ lại:

Chúng tôi đã nói rất nhiều về việc tập trung. Và lựa chọn con người. Cách thức để biết ai là người đáng tin, và làm cách thức nào để xây dựng một đội ngũ gồm những người chủ chốt mà bạn có thể tin cậy. Tôi đã miêu tả nguyên lý nâng và hạ của ròng rọc động mà ông ta cần áp dụng để giúp công ty tránh khỏi bị thua lỗ hoặc bị chen ngang bởi đối thủ cạnh tranh. Vấn đề chính mà tôi nhấn mạnh vào là sự tập trung. Xác định xem Google muốn trở thành gì khi nó phát triển lên. Bây giờ Google đã có mặt ở khắp nơi. Năm sản phẩm mà các bạn muốn tập trung vào là gì? Hãy bỏ qua tất cả những thứ còn lại, bởi vì chúng đang kéo các bạn xuống. Họ sẽ biến các bạn thành Microsoft. Họ sẽ khiến bạn phải loại bỏ nhứng sản phẩm đã phù hợp nhưng không xuất sắc. Tôi đã có gắng để trở nên có ích hết mức có thể. Tôi sẽ tiếp tục làm như vậy với những người như Mark Zuckerberg. Đó là cách mà tôi muốn làm trong khoảng thời gian còn lại của cuộc đời mình. Tôi có thể giúp thế hệ tiếp sau ghi nhớ về nguồn gốc của các công ty vĩ đại ở đây và cách thức để tiếp nối truyền thống đó. Thung lũng Silicon đã rất hỗ trợ tôi. Tôi cần phải nỗ lực hết mình để đền đáp.

Việc công bố nghỉ ốm vào năm 2011 đã thôi thúc những người khác tới viếng thăm ngôi nhà của Jobs tại Palo Alto. Ví dụ như Bill Clinton đã ghé qua và trò chuyện về mọi thứ từ Trung Đông tới bối cảnh chính trị của Mỹ. Nhưng cuộc viếng thăm ghi dấu ấn sâu sắc nhất là của một huyền thoại công nghệ sinh năm 1955, một nhân vật mà trong hơn ba thập kỷ, đã là đối thủ và là đối tác của Jobs trong việc vạch rõ ra một thời đại của máy tính cá nhân.

Bill Gates chưa bao giờ thôi ngưỡng mộ Jobs. Vào mùa xuân năm 2011, tôi đã cùng ăn tối với Bill tại Washington, nơi ông tới và thảo luận về Quỹ hoạt động vì những nỗ lực nâng cao sức khỏe toàn cầu. Ông đã tỏ ra vô cùng kinh ngạc trước sự thành công của iPad và cách thức mà Jobs, ngay cả khi đang ốm nặng, vẫn tập trung vào nghiên cứu những cách thức để cải tiến nó. “Tôi đang ngồi đây, đơn thuần chỉ cố gắng cứu thế

giới khỏi căn bệnh sốt rét và những thứ kiểu như vậy, còn Steve thì vẫn tiếp tục cho ra đời những sản phẩm mới kỳ diệu khác,” ông nói với vẻ thèm muốn. “Có lẽ tôi đã không nên rời bỏ cuộc chơi.” Ông cười và đảm bảo chắc rằng tôi hiểu ông chỉ đang đùa, hoặc ít nhất là một phần nào đó đùa về điều đó.

Qua một người bạn chung là Mike Sage, Gates sắp xếp một chuyến viếng thăm Jobs vào tháng năm. Một ngày trước cuộc viếng thăm, trợ lý của Jobs gọi và nói rằng ông cảm thấy không đủ khỏe để tiếp Gates. Nhưng cuộc hẹn được xếp lịch lại, và vào đầu giờ chiều một ngày, Gates lái xe đến nhà Jobs, đi vào phía cổng sau và mở cửa phòng bếp, ông trông thấy Eve đang học bài trên bàn. “Steve có nhà không con?” ông hỏi. Eve đã chỉ ông tới phòng khách. Họ dành hơn ba giờ đồng hồ liền với nhau, chỉ hai người, cùng hồi tưởng lại. “Chúng tôi giống như hai ông già trong ngành cùng ngồi nhìn lại,” Jobs nhớ lại. “Tôi chưa từng thấy ông ấy hạnh phúc đến vậy, và tôi tiếp tục nghĩ tại sao ông ấy có thể trông khỏe mạnh như thế.” Gates cũng bị ấn tượng tương tự như vậy với việc Jobs có nhiều năng lượng hơn ông nghĩ, mặc cho vẻ ngoài hốc hác đến đáng sợ. Jobs rất cởi mở về tình trạng sức khỏe của mình và, ít nhất là vào hôm đó, cảm thấy lạc quan về điều đó. Ông nói với Gates rằng việc áp dụng có thứ tự những phương pháp điều trị sử dụng thuốc trúng mục tiêu giống như việc “nhảy từ cánh hoa này sang cánh hoa khác của một bông loa kèn vậy”, cố gắng để đi trước căn bệnh ung thư một bước.

Jobs đã hỏi một vài câu hỏi về giáo dục, và Gates đã phác họa tầm nhìn của ông về việc những ngôi trường của tương lai sẽ như thế nào, với việc những học sinh theo dõi bài giảng và tự xem những bài học qua video trong khi sử dụng khoảng thời gian lên lớp để thảo luận và tìm ra giải pháp cho các vấn đề. Họ đồng ý rằng đến nay, máy tính đã tạo ra một ảnh hưởng nhỏ bất ngờ lên trường học – ít hơn nhiều so với tác động của nó lên các lĩnh vực khác của xã hội như truyền thông, y khoa và luật. Để thay đổi được điều đó, Gates nói, máy tính và các thiết bị di động cần phải tập trung vào việc đem đến những bài học được cá nhân hóa và cung cấp những phản hồi đầy tính khích lệ.

Họ cũng trao đổi nhiều về niềm vui của gia đình, bao gồm cả việc họ đã may mắn thế nào khi có những đứa con ngoan và cưới được đúng người phụ nữ của cuộc đời. “Chúng tôi đã cười lớn về việc Jobs đã may mắn thế nào khi gặp Laurence, và bà ấy đã giúp ông bớt khùng một nửa, và việc tôi đã may mắn khi gặp Melinda, và bà ấy cũng đã giúp tôi đỡ khùng một nửa,” Gates nhớ lại. “Chúng tôi cũng đã thảo luận về việc những đứa trẻ cảm thấy thách thức như thế nào khi là con của chúng tôi và cách thức chúng tôi giúp chúng bớt áp lực. Đó là những điều khá riêng tư.” Có một lúc Eve, trước đây đã từng cùng tham gia buổi biểu diễn cưỡi ngựa cùng với con gái Jennifer của Gates, đi thơ thẩn trong bếp, và Gates đã hỏi cô bé chặng nhảy ngựa nào mà cô bé thích nhất.

Khi thời gian trò truyện đã hết, Gates đã khen ngợi Jobs về “những sản phẩm kỳ diệu” mà Jobs đã tạo ra và có thể cứu sống Apple vào cuối những năm 1990 từ tay những kẻ đã gần như phá hủy nó. Ông thậm chí đã chấp nhận một sự nhượng bộ thú vị. Trong toàn bộ sự nghiệp của họ, họ đã gắn chặt với những triết lý cạnh tranh về một trong những vấn đề cơ bản nhất của vấn đề kỹ thuật số: hoặc là phần cứng và phần mềm nên tích hợp hoặc tiếp tục tự phát triển tách rời. “Tôi đã từng tin rằng việc tự phát triển tách rời, nghĩa là mô hình nằm ngang sẽ chiếm ưu thế”, Gates nói với Jobs như vậy. “Nhưng ông đã chứng minh rằng việc tích hợp, mô hình dọc cũng thực sự tuyệt vời.” Jobs đã trả lời lại dựa trên sự thú nhận của mình. “Mô hình của ông cũng thực sự có hiệu quả,” Jobs nói.

Họ đều đúng. Mỗi mô hình đều thành công trong lĩnh vực máy tính cá nhân, nơi mà Macintosh tồn tại song song với rất nhiều những cỗ máy Windows, và điều đó có vẻ cũng đúng trong lĩnh vực thiết bị di động. Nhưng sau khi thuật kỹ lại cuộc thảo luận của họ, Gates đã đưa thêm một dự báo: “Mô hình tích hợp sẽ có hiệu quả chỉ khi Jobs là người chỉ huy. Nhưng điều đó không có nghĩa là trong tương lai mô hình đó sẽ tiếp tục thắng lợi.” Jobs cũng cảm thấy phải bổ sung thêm một dự báo về Gates sau khi mô tả về cuộc gặp mặt giữa hai người: “Tất nhiên, mô hình tự phát triển tách rời của Gates có hiệu quả, nhưng nó không thực sự tạo nên những sản phẩm vĩ đại. Nó tạo ra những sản phẩm dở. Đó là vấn đề. Một vấn đề lớn. Ít nhất là qua thời gian.”

“Ngày đó đã đến”

Jobs có rất nhiều những ý tưởng và những dự án khác mà ông ấp ủ thực hiện. Ông muốn phá vỡ ngành xuất bản sách giáo khoa và giúp ích cho cột sống của những sinh viên bị đau khớp khỏi phải mang những túi trĩu nặng sách bằng việc tạo ra những tài liệu điện tử và những tài liệu chương trình chạy trên chiếc iPad. Ông cũng đã làm việc với Bill Atkinson, một người bạn của ông trong nhóm Macintosh trước đây, về việc sáng chế ra những công nghệ số hóa có thể hoạt động ở cấp độ từng pixel nhằm cho phép mọi người có thể có được những tấm ảnh đẹp bằng chiếc iPhones ngay cả khi không có đủ ánh sáng. Và ông cũng đã rất muốn làm điều tương tự với ti vi như những gì ông đã từng làm với những chiếc máy tính, những máy nghe nhạc, và điện thoại: khiến chúng trở nên đơn giản và trang nhã. “Tôi muốn tạo ra một chiếc tivi tích hợp và hoàn toàn dễ dàng sử dụng,” ông nói với tôi. “Nó sẽ được kết nối không dây với tất cả những thiết bị khác của bạn và với điện toán đám mây.” Những người sử dụng sẽ không còn phải mất thì giờ với những chiếc điều khiển từ xa phức tạp của đầu DVD và những kênh truyền hình cáp. “Nó sẽ có giao diện người dùng đơn giản nhất mà bạn có thể hình dung ra. Cuối cùng thì tôi đã có thể dấn thân vào sản phẩm này.”

Nhưng cho đến tháng Bảy năm 2011, căn bệnh ung thư đã di căn tới tủy của Jobs và những bộ phận khác trong cơ thể, các bác sĩ gặp khó khăn trong việc tìm ra loại thuốc đặc chủng có thể đẩy lui sự di căn này. Ông rất đau đớn, ngủ một cách thất thường, suy kiệt năng lượng và phải dừng làm việc. Ông và Powell đã đặt một chuyến du thuyền cho cả gia đình cuối tháng đó, nhưng những kế hoạch đó đều bị hủy bỏ. Ông vẫn không ăn một chút thức ăn đặc nào, và ông dành hầu hết thời gian ở trong phòng ngủ xem ti vi.

Vào tháng Tám, tôi nhận được một tin nhắn rằng ông muốn tôi tới thăm. Khi tôi đến nhà ông, đó là một buổi sáng thứ bảy, ông vẫn đang ngủ, nên tôi ngồi xuống cạnh vợ và những đứa con của ông trong vườn, nơi ngập tràn hương thơm của những bông hồng vàng và rất nhiều loài hoa cúc, cho đến khi ông nhắn tôi vào. Tôi thấy ông cuộn tròn trên giường, mặc một chiếc quần sooc màu ka ki và một chiếc áo cao cổ trắng.

Chân của ông gầy guộc như ống giang, nhưng nụ cười của ông rất nhẹ và chỉ thoáng qua. “Chúng ta cần rất khẩn trương, bởi vì tôi rất yếu,” ông nói.

Ông đã muốn chỉ cho tôi một số bức ảnh cá nhân và để tôi chọn một vài tấm dùng cho cuốn sách. Bởi vì ông đã quá yếu để có thể rời khỏi giường, nên ông đã chỉ cho tôi những chiếc ngăn kéo trong phòng, và tôi đã rất cẩn thận đưa cho ông những bức ảnh trong mỗi ngăn. Khi tôi ngồi xuống bên cạnh giường, tôi giữ những tấm ảnh và giở cho ông xem từng chiếc một. Một vài tấm ảnh gợi lên những câu chuyện; những tấm khác chỉ tạo ra những tiếng làu bàu hoặc một nụ cười. Tôi chưa bao giờ thấy một tấm ảnh nào của cha ông, Paul Jobs, và tôi đã phải giật mình khi tôi thấy một tấm ảnh về một người đàn ông đẹp trai nhưng trông khắc khổ ôm trong tay một đứa trẻ vào những năm 1950. “Đúng, đó là cha tôi,” Jobs nói. “Ông có thể sử dụng bức ảnh này.” Sau đó ông chỉ cho tôi một chiếc hộp gần cửa sổ có chứa một tấm ảnh của cha ông đang nhìn ông rất trìu mến trong đám cưới của chính ông. “Ông ấy là một người đàn ông tuyệt vời,” Jobs nói gần như thì thầm. Tôi đã nói thầm sau đó rằng “Ông ấy chắc hẳn đã rất tự hào về ông.” Jobs đã chỉnh câu nói của tôi: “Ông ấy đã rất tự hào về tôi.”

Những tấm ảnh dường như đã tiếp thêm sinh khí cho ông chỉ trong giây lát. Chúng tôi đã trò chuyện về những điều mà rất nhiều người trong quá khứ, từ Tina Redse tới Mike Markkula cho tới Bill Gates, đã nghĩ về ông. Tôi đã kể lại chi tiết những gì Gates đã nói sau cuộc viếng thăm của Gates với Jobs, cuộc nói chuyện mà Gates đã chỉ ra rằng mô hình tích hợp thực sự có hiệu quả, nhưng chỉ “khi Steve đang giữ vai trò chỉ huy.” Jobs cho rằng điều đó thật ngớ ngẩn. “Bất cứ ai cũng có thể tạo ra những sản phẩm tốt hơn theo cách thức như vậy, chứ không chỉ mình tôi,” ông nói. Vì vậy tôi đã yêu cầu ông đưa ra tên một công ty nào khác đã tạo ra những sản phẩm vĩ đại bằng cách tuân thủ sự tích hợp nhất quán từ đầu tới cuối. Ông nghĩ một lúc, cố gắng đưa ra một ví dụ. “Những công ty ô tô,” cuối cùng ông nói, nhưng sau đó ông đã bổ sung thêm, “Hoặc là ít nhất là họ đã từng như vậy.”

Khi cuộc trò chuyện của chúng tôi chuyển sang tình trạng tồi tệ của nền kinh tế và

chính trị, ông đã đưa ra một vài ý kiến rất sắc bén về việc thiếu sự lãnh đạo mạnh mẽ trên thế giới. “Tôi thất vọng về Obama”, ông nói. “Ông ấy có vấn đề trong lãnh đạo bởi vì ông ấy không muốn làm mất lòng mọi người hoặc khiến mọi người tức giận.” Jobs đã bắt ngay được ý nghĩ của tôi và bày tỏ sự tán đồng bằng một nụ cười: “Đúng vậy, đó không phải là vấn đề mà tôi mắc phải.”

Sau hai tiếng trò chuyện, ông trở nên im lặng, vì vậy tôi rời khỏi giường và chuẩn bị ra về. “Đợi đã,” ông nói, trong khi ông vẫy tôi ngồi lại giường. Chỉ mất một hoặc hai phút để ông có thể lấy lại đủ năng lượng để tiếp tục cuộc trò chuyện. Cuối cùng ông nói, “Tôi rất lo lắng về dự án này,” ông muốn nói đến quyết định của mình trong việc viết cuốn sách này. “Tôi đã thực sự lo lắng.”

Tôi hỏi ông “Tại sao ông lại muốn viết cuốn sách này?”

“Tôi muốn các con tôi biết về tôi,” ông nói. “Tôi đã không thường xuyên ở bên cạnh chúng, và tôi đã rất muốn chúng biết tại sao lại như vậy và hiểu được điều mà tôi đã làm. Thêm vào đó, khi tôi ốm, tôi đã nhận ra những người khác sẽ viết về tôi nếu tôi chết, mà họ không biết gì hết. Họ hiểu sai mọi thứ. Vì vậy tôi muốn chắc chắn rằng có một ai đó nghe được những điều tôi cần phải nói.”

Trong hai năm, ông ấy chưa bao giờ hỏi bất cứ điều gì về việc tôi sẽ đưa những gì vào cuốn sách, hay tôi sẽ đưa ra những kết luận gì. Nhưng bây giờ khi ông nhìn tôi và nói, “Tôi biết có rất nhiều thứ trong cuốn sách mà tôi sẽ không thích.” Câu này của ông giống như một câu hỏi hơn là một câu khẳng định, và khi ông nhìn chằm chằm vào tôi chờ đợi câu trả lời, tôi đã gật đầu, cười, và nói rằng tôi chắc chắn điều đó là sự thật. “Thế thì tốt,” ông nói. “Vậy thì nó sẽ không giống một cuốn sách lưu hành trong nhà nữa. Tôi sẽ không đọc nó ngay, bởi vì tôi không muốn nổi cáu. Có lẽ tôi nên đọc nó sau một năm nữa – nếu tôi vẫn còn sống.” Khi đó, đôi mắt của ông ấy nhắm nghiền và tất cả mọi năng lượng của ông dường như biến mất, vì vậy tôi đã lặng lẽ ra về.

Khi sức khỏe của ông đã suy giảm đi rất nhiều sau mùa hè, Jobs đã từ từ phải đối mặt với định mệnh: Ông sẽ không thể trở lại làm CEO của Apple. Vì vậy đã đến lúc ông

cần phải từ chức. Ông đánh vật với quyết định đó hàng tuần liền, thảo luận với vợ, Bill Campbell, Jony Ive, và George Riley. “Một trong những việc mà tôi muốn làm đối với Apple đó là đưa ra một hình mẫu về việc làm thế nào bạn chuyển giao quyền lực một cách đúng đắn,” ông nói với tôi. Ông đã đùa về tất cả những thời kỳ chuyển giao quyền lực khó khăn đã diễn ra trong công ty trong suốt ba mươi lăm năm qua. “Nó luôn luôn là một vở kịch, giống như một quốc gia thế giới thứ ba. Một phần mục tiêu của tôi đó là khiến Apple trở thành công ty tốt nhất trên thế giới, và một sự chuyển giao quyền lực gọn gàng là điều cốt yếu để thực hiện việc đó.

Ông quyết định rằng thời điểm và không gian tốt nhất để chuyển giao quyền lực đó là ngày họp ban điều hành thường kỳ của công ty vào ngày 24 tháng Tám. Ông đã rất háo hức được trực tiếp làm việc đó, hơn là chỉ đơn thuần gửi một lá thư hoặc là thông báo qua điện thoại, vì vậy ông đã tự bắt mình phải ăn và lấy lại một chút sức khỏe. Một ngày trước buổi họp, ông đã quyết định là ông có thể làm được việc đó, nhưng ông cần có sự giúp đỡ của một chiếc xe lăn. Họ đã sắp xếp để ông lái xe lăn tới trụ sở và lăn bánh xe vào phòng hội đồng một cách bí mật hết sức có thể.

Ông đã đến ngay trước 11 giờ sáng, khi các thành viên ban điều hành đã hoàn thiện các bản báo cáo với ủy ban và những công việc thường ngày khác. Hầu hết mọi người đều biết việc gì sắp diễn ra. Nhưng thay vì đi thẳng vào vấn đề mà mọi người đều đang nghĩ đến, Tim Cook và Peter Oppenheimer, giám đốc tài chính, đã thông báo một lượt các kết quả kinh doanh trong quý và những dự báo cho năm tới. Sau đó Jobs đã nói thầm rằng ông có điều riêng tư cần nói. Cook hỏi ông liệu anh và những quản lý cấp cao khác có cần phải rời đi không, và Jobs đã im lặng trong hơn ba mươi giây trước khi ông quyết định là mọi người nên rời đi. Ngay khi cả phòng không còn ai ngoại trừ những giám đốc thuê ngoài, ông bắt đầu đọc lá thư mà ông đã soạn và sửa hàng tuần trước đó. Nó bắt đầu như thế này “Tôi vẫn luôn nói rằng nếu có một ngày tôi không thể hoàn thành được trách nhiệm và kỳ vọng của mọi người với tư cách là CEO của Apple, thì tôi nên là người đầu tiên thông báo cho các bạn. Thật không may, ngày đó đã đến.”

Bức thư thật đơn giản, thẳng thắn và chỉ dài tám câu. Trong bức thư ông đề xuất rằng Cook sẽ thay thế ông, và ông đã đề nghị được làm chủ tịch của ban quản trị. “Tôi tin rằng những ngày tháng tươi sáng và mang tính đột phá nhất của Apple đang ở phía trước. Và tôi ngóng chờ để theo dõi và đóng góp vào sự thành công của công ty trong vai trò mới.”

Đó là một câu dài. Al Gore là người đầu tiên cất tiếng, và anh đã liệt kê ra những thành tựu của Jobs trong suốt thời gian tại vị. Mickey Drexler đã bổ sung thêm rằng theo dõi quá trình Jobs biến chuyển Apple là “điều kỳ diệu nhất mà tôi đã từng thấy trong kinh doanh,” và Art Levinson đã ca ngợi sự cần mẫn của Jobs trong việc đảm bảo rằng việc chuyển giao quyền lực diễn ra suôn sẻ. Campbell không nói gì, nhưng anh khóc khi quyết định chính thức về việc chuyển giao quyền lực được thông qua.

Trong bữa trưa, Scott Forstall và Phil Schiller đã trưng bày những mô hình nguyên bản của một vài sản phẩm mà Apple đã tung ra thị trường. Jobs đã liên tiếp đưa ra những câu hỏi và những đánh giá của mình về chúng, đặc biệt là về dung lượng tối đa của sản phẩm thế hệ thứ tư – những mạng lưới kiểu tế bào này và những tính năng cần có trong những chiếc điện thoại của tương lai. Khi Forstall trình diễn một ứng dụng nhận diện giọng nói, anh thấy hơi lúng túng, Jobs đã chộp lấy chiếc điện thoại ở giữa của của bản demo và tiếp tục xem liệu ông có thể làm xáo trộn nó như thế nào. “Thời tiết ở Palo Alto như thế nào? Ông hỏi. Ứng dụng đã đáp lại. Sau một vài câu hỏi khác, Jobs đã thách thức nó: “Mày là nam hay là nữ?” Thật đáng ngạc nhiên, ứng dụng đã trả lời bằng tiếng rô bốt, “Họ không xác định giới tính cho tôi.” Trong một khoảnh khắc tinh thần của ông đã phấn chấn hơn.

Khi bài nói chuyện chuyển sang máy tính bảng, một vài người đã biểu lộ niềm tự hào chiến thắng rằng HP đã vừa phải từ bỏ lĩnh vực này, không thể cạnh tranh với iPad. Nhưng Jobs bỗng trở nên u ám và bày tỏ rằng đó thực sự là một khoảnh khắc buồn. “Hewlett và Packard đã xây dựng một công ty vĩ đại, và họ nghĩ rằng họ đã đặt nó vào tay của những người tài giỏi,” ông nói. “Nhưng bây giờ nó đang bị chia cắt và bị phá hủy. Đó là bi kịch. Tôi hy vọng rằng tôi đã để lại một di sản mạnh hơn để điều đó

không bao giờ xảy đến với Apple.” Khi ông chuẩn bị rời đi, các thành viên ban quản trị đã tề tựu quanh ông và dành cho ông một cái ôm thắm thiết.

Sau buổi họp với đội ngũ điều hành để giải thích những tin mới, Jobs đã lại về nhà cùng với George Riley. Khi họ về đến nhà, Powell đang ở sân sau thu hoạch mật ong từ những đõ ong bà đã chăm sóc, với sự giúp đỡ của Eve. Họ bỏ những chiếc mũ bảo hiểm che mặt và mang bình mật ong vào bếp, nơi Reed và Erin đã tập hợp đầy đủ, vì vậy tất cả họ đã có thể tổ chức bữa tiệc nhẹ nhàng kỷ niệm buổi chuyển giao quyền lực. Jobs đã ăn một muỗng đầy mật ong và phát biểu về vị ngọt tuyệt vời của nó.

Tối hôm đó, ông đã nhấn mạnh với tôi rằng niềm hy vọng của ông là cố gắng năng động hết mức có thể chừng nào mà sức khỏe của ông còn cho phép. “Tôi đang làm việc về những sản phẩm mới và marketing và những việc mà tôi thích,” ông nói. Nhưng khi tôi hỏi ông thực sự cảm thấy như thế nào về việc từ bỏ quyền kiểm soát công ty mà ông đã xây dựng nên, giọng ông bỗng trở nên bâng khuâng, và ông đã chuyển về thời quá khứ. “Tôi đã có một sự nghiệp rất may mắn, một cuộc sống rất may mắn,” ông trả lời. “Tôi đã làm tất cả những gì tôi có thể.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.