Truy tìm Dracula

Chương 73



Tháng Năm 1954

Tôi không biết mình viết những dòng chữ này cho ai, và niềm hy vọng có ai đó sẽ tìm thấy chúng cũng rất mong manh, nhưng tôi cảm thấy sẽ là có tội nếu không cố ghi lại những hiểu biết của mình trong khi còn có thể, và chỉ Thượng đế mới biết tôi còn bao nhiêu thời gian nữa.

Tôi bị lôi ra khỏi văn phòng trường đại học đã nhiều ngày nay – tôi không chắc là bao nhiêu ngày, nhưng đoán chừng bây giờ vẫn đang còn là tháng Năm. Đêm hôm đó, tôi tạm biệt người học trò yêu và cũng là một người bạn, cậu ta vừa đưa tôi xem một bản sao khác của cuốn sách ma quái mà nhiều năm qua tôi đã cố tình quên đi. Tôi nhìn cậu đi khỏi, mang theo tất cả thông tin mà tôi có thể cung cấp. Sau đó, tôi đóng cửa phòng làm việc, ngồi lặng đi trong nỗi tiếc nuối sâu xa cũng như sự sợ hãi tột cùng. Tôi biết mình đã phạm lỗi. Tôi đã lén lút phục hồi lại cuộc nghiên cứu về lịch sử ma cà rồng và rõ ràng có ý định phát triển đến một mức độ cao hơn những kiến thức của mình về huyền thoại Dracula, thậm chí còn hy vọng rốt cuộc có thể làm sáng tỏ được bí mật về vị trí hầm mộ của hắn. Tôi đã để cho thời gian, suy luận logic, và tính kiêu ngạo ru mình vào niềm tin rằng sẽ không có hậu quả gì khi trở lại nghiên cứu. Tôi đã tự thừa nhận tội lỗi của mình ngay trong khoảnh khắc đơn độc đầu tiên đó.

Tôi đã dằn vặt kinh khủng khi trao cho Paul các ghi chép về công trình nghiên cứu và những lá thư viết về các trải nghiệm của bản thân, không phải vì muốn tiếp tục giữ chúng lại cho mình – tất cả tham vọng muốn tiếp tục cuộc nghiên cứu đã tan biến ngay từ lúc Paul đưa cho tôi xem cuốn sách của cậu. Đơn giản chỉ vì tôi vô cùng hối tiếc đã trao cái kiến thức kinh tởm này vào tay cậu, dù vẫn tin chắc là càng hiểu biết Paul sẽ càng có khả năng tự bảo vệ bản thân hữu hiệu hơn. Tôi chỉ còn cách hy vọng nếu bất kỳ sự trừng phạt nào xảy ra thì người gánh chịu sẽ là tôi chứ không phải Paul, một thanh niên còn đầy lạc quan yêu đời, bước chân còn nhẹ nhàng không vướng bận, và tài năng còn non nớt chưa kinh qua thử thách. Chắc Paul còn chưa qua tuổi hai mươi bảy; tôi thì đã mấy chục năm sống trong một thứ hạnh phúc vờ vịt, không xứng đáng. Đó là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Ý nghĩ tiếp theo thực tiễn hơn. Thậm chí dù có muốn, tôi cũng không có cách nào để tự bảo vệ bản thân ngay tức khắc được, ngoại trừ niềm tin dựa trên lý trí. Tôi giữ các ghi chép mà không có bất kỳ một phương tiện truyền thống nào để trừ tà, phòng ngừa ma quỷ – chẳng có thánh giá, chẳng có đạn bạc hoặc chùm tỏi. Tôi chưa bao giờ phải sử dụng đến những thứ đó, thậm chí ngay cả trong những lúc cao điểm của cuộc nghiên cứu, nhưng bây giờ tôi bắt đầu hối tiếc là đã khuyên Paul chỉ sử dụng những nguồn lực tinh thần của chính bản thân cậu.

Những ý nghĩ này lởn vởn một hai phút rồi biến mất, mà hóa ra tôi cũng chỉ còn một hai phút để suy nghĩ. Rồi, đột ngột đến cùng luồng gió lạnh căm và hôi thối, sự hiện diện rõ rệt của ai đó đổ ập lên tôi, tôi hầu như không còn nhìn thấy gì và toàn thân như bật ra khỏi ghế vì sợ hãi. Trong khoảnh khắc, tôi như bị phong kín, mù lòa, cảm thấy mình như đang trong cơn hấp hối, dù không biết là do đâu. Giữa khoảnh khắc mơ hồ đó tôi thấy như hiện ra những hình ảnh kỳ lạ nhất của tuổi trẻ và cái đẹp, không hẳn là nhìn thấy, đúng ra là cảm nhận thấy, cảm nhận chính bản thân mình khi còn trẻ trung và tràn đầy tình yêu với một điều gì đó, một ai đó. Có lẽ đó là cách mà con người từ giã cuộc sống này. Nếu vậy, khi thời điểm của tôi đến – và sẽ đến sớm thôi, dù dưới hình thức kinh khủng nào – tôi hy vọng hình ảnh này sẽ lại đến với tôi trong khoảnh khắc cuối cùng.

Sau đó tôi không còn nhớ gì nữa, sự vô thức kéo dài một thời gian mà đến nay tôi vẫn không thể đánh giá là bao lâu. Tôi từ từ tỉnh lại và sửng sốt khi nhận ra mình vẫn còn sống. Những giây phút đầu tiên, tôi chưa thể nghe hoặc nhìn thấy gì. Giống như vừa tỉnh dậy sau một ca phẫu thuật nghiêm trọng, vì tiếp ngay sau đó là cảm giác đau đớn, toàn bộ cơ thể yếu ớt và đau nhức kinh khủng, tựa như có lửa cháy trong đầu, trong cổ họng và bên chân phải. Không khí ẩm ướt và lạnh lẽo, và vật tôi đang nằm bên trên cũng lạnh, vậy nên khắp người tôi thấy ớn lạnh. Tiếp sau cảm giác đó là ánh sáng – một thứ ánh sáng lờ mờ nhưng cũng đủ để tôi tin là mình chưa bị mù và vẫn đang mở mắt. Ánh sáng và cảm giác đau đớn, hơn bất kỳ điều gì khác, cho thấy rằng tôi vẫn còn sống. Tôi bắt đầu nhớ lại những gì mà mới đầu tôi nghĩ vừa xảy ra tối hôm trước – Paul đến phòng làm việc của tôi với phát hiện sửng sốt của cậu. Rồi tôi thấy lòng chùng lại và chợt hiểu mình đã bị quỷ dữ giam cầm; đó là lý do vì sao thân xác tôi bị đối xử hung bạo như thế này và tại sao có vẻ như xung quanh tôi chỉ dậy lên toàn mùi quỷ dữ.

Tôi thận trọng cựa quậy chân tay, thu hết tàn lực để xoay và nhấc đầu lên. Ánh mắt tôi bị chặn lại ở một vách tường lờ mờ cách xa không đến một tấc, nhưng ánh sáng yếu ớt mà tôi cảm nhận lại đến từ phía trên bức tường đó. Tôi thở dài và nghe được tiếng thở của mình; chính điều này khiến tôi tin mình vẫn có thể nghe được, nhưng chỉ vì đang ở trong một nơi quá tĩnh lặng nên tôi đã có ảo giác là bị điếc. Tôi tập trung lắng nghe hơn bao giờ hết, nhưng vẫn chẳng nghe thấy gì, nên tôi thận trọng cố gượng ngồi dậy. Cử động đó làm tôi cảm nhận được sự yếu ớt cũng như cảm giác đau đớn khốn khổ khắp cả tứ chi, đầu nhức như búa bổ. Trong tư thế ngồi, xúc giác cũng trở lại, và tôi nhận ra mình đang nằm trên đá, vách thấp hai bên đã làm chỗ dựa giúp tôi nhỏm dậy. Có tiếng ong ong kinh khủng trong đầu tôi, và dường như tràn ngập không gian chung quanh tôi. Như tôi đã mô tả, đó là một không gian tối lờ mờ, tĩnh lặng và co lại thành những khoảng tối trong các góc. Tôi đưa tay sờ soạng xung quanh. Tôi đang ngồi trong một quan tài bằng đá, không có nắp.

Phát hiện này làm dấy lên trong tôi một cơn buồn nôn, nhưng cùng lúc đó tôi nhận ra mình vẫn mặc bộ quần áo đã mặc trong phòng làm việc, dù cà vạt không còn, áo sơ mi và áo khoác đã rách một bên tay. Tuy nhiên, việc tôi vẫn đang mặc quần áo của chính mình khiến tôi hơi yên tâm trở lại; đây không phải là cái chết, cũng không đơn thuần là sự điên rồ mất trí, và tôi cũng không tỉnh dậy ở một thời đại khác, trừ phi tôi mang theo cả quần áo của mình đến đó. Tôi sờ soạng quần áo và tìm thấy chiếc ví trong túi quần trước. Thật xúc động khi sờ thấy món đồ quen thuộc này dưới tay mình. Nhưng rất tiếc là cây viết loại tốt trong túi áo khoác và cả cái đồng hồ đeo tay đều không còn nữa.

Sau đó, tôi đưa tay sờ lên mặt lên cổ. Có vẻ gương mặt tôi không có gì thay đổi, ngoại trừ một vết bầm còn mới trên trán, nhưng ở cổ tôi sờ thấy một vết thương gớm ghiếc, bầy nhầy. Khi tôi cử động đầu quá mạnh hoặc nuốt nước miếng, vết thương lại phát ra âm thanh nghe như tiếng mút bú, khiến tôi thất kinh. Khu vực vết thương sưng phồng lên và nhức nhối khi tôi sờ vào. Tôi cảm thấy mình lại có thể ngất đi vì kinh hoàng và thất vọng, nhưng rồi tôi nhớ ra là mình đã có đủ sức lực để tự ngồi dậy. Có thể tôi không mất quá nhiều máu như đã lo sợ lúc đầu, và có lẽ điều đó nghĩa là tôi mới chỉ bị cắn một lần. Tôi vẫn cảm nhận mình là mình, không phải là một ác quỷ; tôi không thấy thèm khát máu, tâm hồn vẫn không độc ác đồi bại. Rồi một cảm giác đau khổ cùng cực trào lên trong tôi. Liệu có ý nghĩa gì khi tôi chưa cảm thấy thèm khát máu? Dù tôi đang ở bất cứ nơi đâu, chắc chắn tôi sẽ bị nhiễm hoàn toàn, chỉ còn là vấn đề thời gian. Dĩ nhiên, trừ phi tôi trốn thoát được.

Tôi chậm chạp quay đầu nhìn xung quanh, cố nhìn rõ hơn, và rồi nhận ra nguồn ánh sáng. Đó là một nguồn sáng mờ đỏ tít xa trong khoảng không gian tối kịt – tôi không thể nói là xa bao nhiêu – và lù lù giữa tôi và nguồn sáng đó là những hình thù nặng nề tối đen. Tôi đưa tay sờ xuống mặt ngoài căn nhà bằng đá của mình. Cái quan tài đá này có vẻ như ở sát mặt đất, hoặc là một nền đá; tôi sờ soạng chung quanh cho đến lúc quyết định là có thể leo ra ngoài cái khoảng không mờ mờ tối đó mà không sợ bị ngã xuống từ trên cao. Tôi phải bước một bước dài để xuống nền nhà, và đôi chân tôi run rẩy dữ dội đến độ tôi phải quỳ sụm xuống ngay khi vừa ra khỏi cỗ quan tài. Bây giờ tôi đã có thể nhìn thấy rõ hơn một chút. Tôi tiến về nguồn sáng đỏ mờ mờ kia, hai tay đưa về phía trước, và trong lúc quờ quạng tôi đã đâm sầm vào một vật giống như một cỗ quan tài đá trống rỗng khác, và một món đồ gỗ. Khi va vào mặt gỗ tôi nghe có một thứ gì đó mềm mềm rơi xuống, nhưng không thể nhận ra đó là cái gì.

Quả thực kinh khủng khi mò mẫm trong cái bóng tối lờ mờ này, tôi luôn chực chờ giây phút bị Cái Vật đã mang tôi đến đây vồ lấy. Tôi lại băn khoăn tự hỏi phải chăng mình thực sự chưa chết – phải chăng đây là một dạng kinh hoàng của cái chết mà tôi vừa nhầm lẫn cho là sự tiếp nối của cuộc sống. Nhưng chẳng có gì vồ chụp lấy tôi cả, cảm giác đau đớn cũng đủ thuyết phục tôi tin đây là thực tại, và càng lúc tôi càng đến gần hơn với nguồn sáng đang lung linh nhảy múa cuối gian phòng dài lê thê này. Trước nguồn sáng đó, tôi có thể nhận ra lù lù một hình thù to tướng bất động đen thui. Khi chỉ còn cách vài mét, tôi nhận ra ngọn lửa trên nền lò sưởi, đang leo lắt cháy đỏ. Ngọn lửa nằm trong một lò sưởi vòm đá, đủ sáng để soi rõ những món đồ gỗ đồ sộ và cũ kỹ – một chiếc bàn to tướng bừa bãi giấy tờ, một cái tủ chạm khắc, một hai cái ghế cao đặt trong góc. Lưng một trong hai chiếc ghế xoay về hướng tôi, đối mặt với ngọn lửa, một người đang ngồi gần như bất động trên đó – tôi chỉ nhìn thấy một hình thù đen thui phía trên lưng ghế. Lúc này, tôi ước gì mình đã dò dẫm theo hướng ngược lại, tránh xa ánh lửa, hướng về một lối thoát khả dĩ nào đó, nhưng ánh mắt tôi bị cuốn hút dữ dội về phía cái hình thù đen thui kia và chiếc ghế vương giả bên dưới, cũng như màu đỏ mềm mại của ngọn lửa. Một mặt, tôi phải thu hết nghị lực để bước về phía đó, mặt khác, dù cố gắng tôi cũng không thể quay đi.

Tôi chậm rãi lê vào vùng sáng của ngọn lửa bằng đôi chân thâm tím, khi tôi vòng đến chiếc ghế bành kia, một hình thù từ từ đứng dậy, quay về phía tôi. Bởi lúc đó hắn quay lưng về phía ngọn lửa và cũng vì ánh sáng quá yếu ớt nên tôi không thể nhìn thấy gương mặt hắn, mặc dù thoạt tiên tôi nghĩ mình đã thoáng thấy một gò má trắng bợt, xương xẩu và ánh mắt sáng lấp lánh. Tóc hắn đen, quăn dài, phủ xuống quanh bờ vai đang khoác áo choàng ngắn. Có gì đó trong cử động của hắn rất khác, khác hẳn với cử động của một con người còn sống, nhưng tôi không thể xác quyết nó nhanh hơn hay chậm hơn. Hắn chỉ cao hơn tôi một chút, nhưng tôi có thể nhìn thấy bề ngang của đôi vai rộng trên nền ánh lửa và có cảm giác như hắn rất cao, rất vạm vỡ. Đoạn hắn cúi xuống ngọn lửa, với tay lấy một vật gì đó. Tôi tự hỏi phải chăng hắn sắp giết mình, và cố tỏ ra bình thản, hy vọng sẽ chết như một người có phẩm giá. Nhưng hắn chỉ châm một cây nến dài, và dùng nó để thắp các ngọn nến khác trong một giá đèn gần chiếc ghế hắn ngồi, rồi quay lại đối mặt với tôi.

Lúc này, tôi đã có thể nhìn hắn rõ hơn dù gương mặt hắn vẫn còn nằm trong bóng tối. Hắn đội mũ màu vàng kim và xanh lá với một cây trâm ngọc nặng nề ở phía trước, mặc áo nhung vàng có thắt lưng, cổ áo màu xanh và viền đăng ten cao đến tận chiếc cằm rộng. Món trang sức trên mũ và những sợi chỉ vàng ở cổ áo hắn lấp lánh trong ánh lửa. Một chiếc áo choàng lông thú màu trắng khoác trên vai, được cài lại bằng một huy hiệu hình rồng bằng bạc. Cách ăn mặc của hắn quả thực lạ thường; tôi thấy sợ kiểu ăn mặc đó gần như chẳng khác gì nỗi kinh sợ đối với sự hiện diện ma quái kỳ dị của hắn. Đó là quần áo thực sự, mới mẻ và sống động, không phải là loại trang phục cũ kỹ trưng bày trong một viện bảo tàng. Hắn mặc thứ trang phục đó lên người với dáng vẻ cực kỳ thanh lịch và giàu có, đứng yên lặng trước mặt tôi, chiếc áo choàng phủ xuống cuốn quanh hắn như một ngọn lốc tuyết. Ánh nến soi rọi một bàn tay hắn với những ngón tay dùi đục và đầy sẹo, đang đặt lên chuôi dao găm, xa hơn phía dưới là đôi chân cứng cáp đi tất dài màu xanh lá và giày ống. Hắn nhúc nhích, xoay người về phía ánh sáng, nhưng vẫn yên lặng. Giờ thì tôi có thể nhìn mặt hắn rõ hơn, vẻ tàn độc của gương mặt đó làm tôi lùi lại – hai con mắt đen to dưới hàng lông mày rậm rịt, mũi thẳng dài, lưỡng quyền rộng và xương. Miệng hắn, bây giờ tôi cũng nhìn thấy rõ hơn, mím lại thành một nụ cười khắc nghiệt, môi đỏ sậm cong lên dưới bộ ria mép đen, cứng. Tôi nhìn thấy ở một khóe môi hắn một vết máu khô – ôi, lạy Chúa, tôi giật mình chùn người lại vì ghê tởm. Nhìn thấy vết máu đó cũng đã đủ kinh hoàng rồi, nhưng nhận thức ngay sau đó rằng có thể đó là máu của tôi, máu của chính tôi, đã làm tôi choáng váng.

Hắn vươn thẳng người, thậm chí còn kiêu hãnh hơn, và qua cái bóng tối lờ mờ ngăn cách hai người, hắn nhìn thẳng vào mặt tôi. “Ta là Dracula,” hắn nói. Những tiếng ấy phát ra lạnh lùng và rõ ràng. Tôi cảm giác như đó là một thứ ngôn ngữ mình chưa hề biết, dù tôi hoàn toàn hiểu. Tôi không thể thốt nên lời, chỉ đứng nhìn hắn trân trân, toàn thân như rơi vào một cơn tê liệt khủng khiếp. Thân xác hắn chỉ cách tôi khoảng hơn ba mét, dù là một thân xác còn sống hay đã chết thì điều không thể chối cãi là nó có thực và đầy quyền uy. “Đến đây,” hắn nói, vẫn với giọng lạnh lùng và rành rọt. “Ngươi đã mệt và đói sau cuộc hành trình rồi. Ta đã dọn bữa tối cho ngươi.” Cử chỉ của hắn hòa nhã, thậm chí có thể nói là lịch sự, những viên đá quý trên các ngón tay thô kệch trắng nhợt lóe lên.

Tôi nhìn thấy một cái bàn gần lò sưởi, bày la liệt những đĩa thức ăn được đậy kín. Bấy giờ tôi mới ngửi thấy mùi đồ ăn – đồ ăn ngon, có thực và của con người – và mùi thơm đó khiến tôi muốn ngất đi. Dracula yên lặng đi đến bàn, rót từ một cái bình cao cổ ra một ly thứ nước màu đỏ mà tôi thoáng nghĩ là máu. “Đến đây,” hắn lặp lại, giọng nhẹ nhàng hơn. Hắn bước ra xa bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế của mình, dường như cho là tôi chắc sẽ bước đến gần bàn nếu hắn giữ chút khoảng cách. Tôi ngập ngừng đi đến chiếc ghế trống bên cạnh bàn, chân run rẩy vì hoàn toàn suy nhược cũng như vì sợ hãi. Tôi ngồi xuống giữa những tấm nệm màu đen, gần như là gục xuống, và nhìn vào những đĩa thức ăn. Tôi tự hỏi tại sao mình lại thèm ăn trong khi có thể chết bất cứ lúc nào. Đó là một điều bí ẩn mà chỉ cơ thể tôi mới hiểu nổi. Lúc này Dracula đang nhìn chăm chăm vào ngọn lửa; tôi có thể nhìn từ mặt bên gương mặt hung ác của hắn, cánh mũi dài và chiếc cằm bạnh, mái tóc quăn đen phủ xuống bờ vai. Hắn chắp tay lại, vẻ trầm tư, áo choàng và hai tay áo thêu tụt xuống, để lộ cổ tay chiếc áo nhung màu xanh lá và một vết sẹo lớn choán gần hết mu bàn tay. Thái độ của hắn bình thản và trầm tĩnh; tôi bắt đầu cảm thấy như mình đang mơ chứ không phải đang cận kề với hiểm nguy, vậy nên tôi đánh liều mở nắp vài đĩa thức ăn.

Đột nhiên tôi cảm thấy đói đến độ tưởng như không thể kiềm chế khỏi hành động ăn ngốn ngấu bằng cả hai tay, nhưng tôi đã cố cầm cái nĩa kim loại và con dao sừng lên và xẻ món gà rán trước, sau đó là một tảng thịt thú rừng màu đen. Có các tô sứ chứa đầy khoai tây và cháo, một ổ bánh mì cứng và một tô đầy xúp rau nóng. Tôi ăn ngấu nghiến, chỉ cố phanh lại đủ để không bị co thắt dạ dày. Tôi nốc cạn chiếc ly bạc đầy rượu vang đỏ bên cạnh khuỷu tay, loại rượu mạnh, không phải máu. Dracula không hề cựa quậy suốt thời gian tôi ăn, dù tôi không thể ngăn mình cứ liên tục liếc nhìn về phía hắn. Ăn xong, trong một lúc lâu tôi thấy mình thỏa mãn và hầu như đã sẵn sàng để chết. Tôi nghĩ phải chăng đây là lý do người sắp bị xử tử được cho ăn bữa ăn cuối cùng. Đó là ý nghĩ rõ ràng đầu tiên của tôi từ khi tỉnh lại trong cỗ quan tài đá. Tôi chậm rãi đậy những đĩa thức ăn trống trơn lại, cố không gây tiếng động, rồi dựa vào ghế, chờ đợi.

Một lúc lâu sau, người đồng hành của tôi mới xoay người trên ghế. “Ngươi đã ăn xong,” hắn khẽ lên tiếng. “Vậy có lẽ chúng ta có thể trò chuyện một chút, và ta sẽ cho ngươi biết lý do vì sao ta đưa ngươi đến đây.” Giọng hắn vẫn rõ ràng và lạnh tanh, nhưng lần này tôi để ý thấy trong sâu thẳm giọng nói ấy tiếng lách tách nho nhỏ, tựa như bộ phận cơ thể tạo ra nó đã quá cũ kỹ và rách nát. Hắn ngồi nhìn tôi với vẻ trầm ngâm, và tôi cảm thấy mình co rúm lại trước ánh nhìn của hắn. “Ngươi có biết mình đang ở đâu không?”

Tôi đã hy vọng không phải trò chuyện với hắn, nhưng lại cảm thấy chẳng ích gì khi giữ im lặng, điều đó chỉ càng khuyến khích hắn dấn tới, mặc dù có vẻ như lúc này hắn tỏ ra khá bình thản. Tôi cũng chợt nghĩ, bằng cách thu hút sự chú ý của hắn, tôi có thể có một chút thời gian thăm dò chung quanh để tìm một lối thoát khả dĩ, hoặc tìm phương cách để tiêu diệt hắn, nếu tôi có thể giữ vững tinh thần thì biết đâu có thể hoàn thành cả hai việc một lúc. Nếu truyền thuyết chính xác thì bây giờ hẳn phải là ban đêm, nếu không hắn đã không thức. Rồi trời cũng sẽ sáng, và nếu tôi còn sống để thấy bình minh, hắn sẽ phải ngủ trong khi tôi vẫn thức.

“Ngươi có biết ngươi đang ở đâu không?” hắn lặp lại, không hề tỏ ra nóng nảy.

“Biết,” tôi trả lời. Tôi không biết phải gọi hắn bằng danh xưng nào. “Ít nhất là tôi cũng nghĩ mình biết. Đây là hầm mộ của ông.”

“Một trong các hầm mộ của ta.” Hắn mỉm cười. “Dù sao chăng nữa, đây là ngôi mộ ưa thích nhất của ta.”

“Có phải chúng ta đang ở xứ Wallachia không?” Tôi không thể ngăn mình bật ra câu hỏi đó.

Hắn lắc đầu khiến ánh lửa chuyển động trên mái tóc đen nhánh và trong đôi mắt sáng quắc của hắn. Có một cái gì đó không phải của con người trong cử chỉ ấy khiến tôi cảm thấy dạ dày quặn thắt. Hắn không cử động như một người sống, vậy nhưng – lại một lần nữa – tôi không thể nói chính xác điểm khác biệt là gì. “Wallachia đã trở nên quá nguy hiểm. Lẽ ra ta phải được yên nghỉ mãi mãi ở đó, nhưng đó là điều không thể. Hãy tưởng tượng xem – sau khi chiến đấu gian khổ cho ngai vàng của mình, cho tự do của chúng ta, thậm chí ta còn không thể gửi nắm xương tàn của mình ở đó.”

“Vậy thì chúng ta đang ở đâu?” Tôi cố làm như đây chỉ là một cuộc trò chuyện bình thường, nhưng chỉ hoài công vô ích. Rồi tôi nhận ra rằng tôi không chỉ muốn đêm nay trôi qua một cách nhanh chóng và yên lành, nếu có cơ hội nào để được như thế. Tôi còn muốn biết thêm về Dracula. Dù là cái gì chăng nữa, sinh vật này, hắn đã sống đến năm trăm năm. Lẽ tất nhiên, câu trả lời của hắn sẽ cùng chết với tôi, nhưng tôi không sao ngăn được cảm giác tò mò.

“À, chúng ta đang ở đâu ư,” Dracula lặp lại. “Ta nghĩ, đó không phải là vấn đề. Chúng ta không ở Wallachia, những kẻ ngu xuẩn vẫn đang trị vì xứ sở đó.”

Tôi nhìn hắn đăm đăm. “Ông có… ông có biết gì về thế giới ngày nay không?”

Hắn nhìn tôi, vẻ thích thú pha lẫn ngạc nhiên, khiến gương mặt dễ sợ cong lên. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy những chiếc răng nanh dài và hai hàng lợi tụt lại, khiến khi cười trông hắn như một con chó già. Hình ảnh so sánh ấy biến mất cũng nhanh như khi hiện ra – không, miệng hắn vẫn bình thường, ngoại trừ vết máu nhỏ của tôi, hoặc của ai đó – bên dưới bộ ria mép đen kịt. “Biết chứ,” hắn trả lời, và cha thoáng sợ rằng mình sắp phải nghe tiếng cười của hắn. “Ta biết về thế giới hiện đại chứ. Đó là phần thưởng của ta, công trình ưa thích của ta.”

Tôi thấy muốn tấn công kiểu trực diện, biết đâu điều đó sẽ thu hút sự chú ý của hắn. “Vậy thì ông muốn gì ở tôi nào? Tôi đã tránh né thế giới hiện đại nhiều năm rồi – không như ông, tôi sống trong quá khứ.”

“Ôi, quá khứ.” Trong ánh lửa lung linh, hắn lại chắp các đầu ngón tay lại với nhau. “Quá khứ rất có ích, nhưng chỉ vì những gì nó có thể dạy chúng ta về hiện tại. Hiện tại rất phong phú. Nhưng ta cũng rất say mê quá khứ. Lại đây. Vì ngươi đã ăn uống và nghỉ ngơi, tại sao không cho ngươi thấy bây giờ nhỉ?” Hắn đứng dậy, lại cũng bằng cái cử động mà có vẻ như do một lực nào đó tác động chứ không phải là nhờ tứ chi hắn, tôi cũng đứng dậy ngay, sợ rằng hành động kia có thể là một trò lừa và hắn có thể lao vào tôi ngay lúc đó. Nhưng hắn chậm rãi xoay người, nhấc một cây nến ra khỏi giá đèn gần ghế hắn ngồi, đưa cao cây nến lên. “Cầm theo một ngọn nến,” hắn nói rồi đi khỏi khu vực lò sưởi, tiến vào căn phòng lớn. Tôi lấy cây nến thứ hai và bước theo hắn, tránh xa thứ trang phục kỳ dị và những cử động gây ớn lạnh kia. Tôi hy vọng hắn không dẫn mình trở lại cỗ quan tài đá.

Nhờ ánh nến yếu ớt, tôi bắt đầu thấy được những vật mà mới đây không thể nhìn thấy – những đồ vật tuyệt vời. Bây giờ tôi có thể nhận ra những chiếc bàn dài ở trước mặt, những chiếc bàn rất cổ. Trên bàn là hàng chồng, hàng đống sách – những cuốn bọc da rách nát và những bìa sách mạ vàng bắt lấy ánh sáng chập chờn của ngọn nến trong tay tôi. Còn có những thứ đồ vật khác mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy, như một giá để mực, hay những cây bút lông ngỗng kỳ lạ. Một máy đánh chữ cũ kỹ và một chồng giấy da hiện lên lờ mờ trong ánh nến. Tôi thấy lấp lánh những bìa sách và hộp cẩn đá quý, các cuộn bản thảo trên những khay đồng. Còn có những cuốn sách khổ đôi hoặc khổ tư to tướng bọc da trơn láng, và hàng dãy sách có niên đại gần đây hơn trên các ngăn kệ dài. Thực ra, chúng tôi đang bị bao vây; mọi bức tường có vẻ như xếp đầy những sách và sách. Giương cây nến lên, tôi bắt đầu nhận ra những tựa sách rải rác đây đó, lúc là một dòng chữ Ả-rập tao nhã nằm chính giữa gáy sách bọc da đỏ, khi lại là một thứ ngôn ngữ phương Tây quen thuộc. Tuy nhiên, phần lớn sách đều không còn tên vì quá cũ. Đó là một kho tài liệu không thể nào so sánh nổi, và dù không có ý định, tôi cũng bắt đầu nóng lòng muốn mở ra xem một vài cuốn, muốn chạm vào những bản thảo viết tay trên các khay gỗ kia.

Dracula quay lại, giương cao cây nến, ánh nến làm nổi bật sắc màu rực rỡ của những viên đá trên mũ hắn – hoàng ngọc, lục bảo, ngọc trai. Đôi mắt hắn rực sáng. “Ngươi thấy thư viện của ta thế nào?”

“Có vẻ như là một… một bộ sưu tập rất giá trị. Một kho báu,” tôi trả lời.

Vẻ hài lòng thoáng hiện lên trên gương mặt kinh khủng của hắn. “Ngươi nói đúng,” hắn nói, giọng nhẹ nhàng. “Thư viện này là thư viện tuyệt vời nhất trong những thư viện cùng loại trên thế giới. Nó là kết quả của sự tuyển chọn công phu suốt nhiều thế kỷ. Nhưng ngươi sẽ có vô khối thời gian mà khám phá những kỳ quan ta đã tập hợp lại nơi đây. Bây giờ, ta sẽ cho ngươi xem một thứ khác.”

Hắn dẫn đường đến một bức tường khác, ở đó tôi nhìn thấy một máy in cổ lỗ sĩ, giống như chiếc máy in ta bắt gặp trong những tranh minh họa cuối thời kỳ Trung cổ – một bộ máy nặng nề kỳ quái làm bằng kim loại màu đen và gỗ màu sậm với một con ốc to tướng ở mặt trên. Một đĩa tròn bằng đá vỏ chai chứa đầy mực bóng láng, phản chiếu ánh nến như một tấm gương ma quái. Một tờ giấy dày nằm trên kệ máy in. Chồm đến gần hơn, tôi nhận thấy tờ giấy đó đang in dở, một công việc bị bỏ giữa chừng, và bằng tiếng Anh. “Hồn ma trong chiếc bình cổ,” đó là tựa đề. “Ma cà rồng từ bi kịch Hy Lạp đến bi kịch hiện đại.” Và hàng cuối: “Bartholomew Rossi.”

Chắc hẳn Dracula đang chờ đợi tôi hổn hển vì sững sờ kinh ngạc, và thực vậy, tôi đã không làm hắn phật lòng. “Ngươi thấy đó, ta vẫn bắt Wịp với công trình nghiên cứu hiện đại tuyệt vời nhất – từng giây từng phút, giống như người ta thường nói. Khi không thể có một tác phẩm in ấn xuất bản đàng hoàng, hoặc muốn có nó ngay lập tức, thỉnh thoảng ta phải tự in lấy. Nhưng ở đây còn có một thứ dễ dàng thu hút sự quan tâm của ngươi không kém đâu.” Hắn trỏ vào cái bàn phía sau máy in. Trên bàn là một dãy khuôn khắc gỗ. Khuôn lớn nhất đập vào mắt tôi là bản khắc hình con rồng trong các cuốn sách của chúng tôi – của tôi và của Paul – tất nhiên là theo chiều ngược lại. Khó Whăn lắm tôi mới ngăn không buột miệng kêu lên. “Ngươi ngạc nhiên,” Dracula nói, đưa cây đèn lại gần con rồng. Những đường nét quá quen thuộc đến độ tôi nghĩ mình cũng có thể tự tay khắc gọt chúng. “Ta nghĩ ngươi biết rất rõ hình ảnh này.”

“Đúng vậy.” Tôi nắm chặt cây nến. “Ông đã tự in những cuốn sách kia ư? Bao nhiêu cuốn?”

“Các tu sĩ của ta in một số, và ta tiếp tục công việc của họ,” hắn bình thản trả lời, nhìn xuống bản khắc gỗ kia.

“Ta sắp hoàn thành tham vọng in một ngàn bốn trăm năm mươi ba cuốn, nhưng từ từ thôi, để ta còn có thời gian phân phát chúng trong khi hoạt động nữa. Con số đó có ý nghĩa gì với ngươi không?”

“Có chứ,” một lúc sau, tôi trả lời. “Đó là năm thành Constantinle sụp đổ.”

“Ta biết ngươi sẽ nhận ra mà,” hắn thốt lên cùng với nụ cười cay đắng. “Đó là thời điểm tồi tệ nhất trong lịch sử.”

“Đối với tôi, có vẻ như có rất nhiều thời điểm giành giật cái vinh dự ấy,” tôi đáp lại, nhưng hắn lại lắc cái đầu to tướng trên bờ vai to bè.

“Không,” hắn nói. Hắn nâng cao cây nến, và trong ánh nến tôi nhìn thấy mắt hắn quắc lên, đỏ ngầu như mắt chó sói, ngập đầy căm hận. Chuyện này giống như nhìn thấy một cặp mắt vô hồn đột nhiên có sự sống vậy; trước đó tôi nghĩ hắn chỉ có đôi mắt sáng, nhưng giờ dưới ánh nến chúng còn toát ra nét tàn ác. Tôi không thể thốt nên lời và cũng không thể ngoảnh đi nơi khác. Một lát sau, hắn quay lại và tiếp tục nhìn ngắm hình rồng. “Nó là một sứ giả tuyệt vời,” hắn nói, vẻ trầm ngâm.

“Có phải ông đã để nó lại cho tôi? Cuốn của tôi ấy?”

“Hãy cứ cho là ta đã sắp đặt việc đó.” Hắn đưa bàn tay đầy các vết sẹo chiến trận sờ vào bản khắc gỗ hình rồng. “Ta rất thận trọng trong việc phân phát chúng. Chúng chỉ đến với những học giả triển vọng nhất, và đến với những người mà ta nghĩ có thể đủ kiên trì để theo đuổi con rồng đến tận hang ổ của nó. Và ngươi là người đầu tiên thực sự làm được việc ấy. Ta chúc mừng ngươi. Ta để lại những kẻ phụ tá khác trong thế giới trần tục, để thực hiện công cuộc nghiên cứu của ta.”

“Tôi đâu có theo đuổi ông,” tôi đánh bạo phản bác lại. “Ông đã mang tôi đến đây.”

“À…” Đôi môi đỏ choét của hắn lại nhếch lên, bộ ria mép giật giật. “Ngươi sẽ không ở đây nếu ngươi không muốn đến. Không một người nào dám coi thường lời cảnh báo của ta đến hai lần trong đời. Ngươi đã tự dẫn xác đến đây.”

Tôi nhìn vào cái máy in cổ lỗ sĩ và bản khắc gỗ hình rồng. “Tại sao ông muốn tôi ở đây?” Tôi không muốn chọc tức hắn bằng những câu hỏi này nọ; nếu muốn, hắn có thể giết tôi vào tối mai, nếu suốt thời gian ban ngày tôi không tìm được cách trốn thoát. Nhưng tôi không thể ngăn mình bật ra câu hỏi đó.

“Ta đã chờ đợi rất lâu một người có thể sắp xếp, phân loại lại cái thư viện này,” hắn trả lời một cách đơn giản. “Ngày mai, ngươi sẽ tự do nhìn ngắm tất cả mọi thứ trong thư viện. Tối nay chúng ta sẽ thảo luận.” Hắn quay trở lại ghế, bước đi chậm rãi, đầy uy quyền. Những lời hắn nói khiến tôi cảm thấy tràn trề hy vọng – dường như hắn thực sự không có ý muốn giết tôi vào tối nay, hơn nữa, tính hiếu kỳ cũng đang sôi sục trong người tôi. Tôi không đang mơ, có vẻ vậy; tôi đang nói chuyện với một kẻ đã sống xuyên suốt một lịch sử dài hơn bất kỳ sử gia nào may ra có thể nghiên cứu được, thậm chí ở mức sơ đẳng nhất, trong sự nghiệp của mình. Tôi đi theo hắn, thận trọng giữ khoảng cách, và cả hai lại ngồi xuống trước lò sưởi. Khi đã ổn định chỗ ngồi tôi mới để ý thấy chiếc bàn với những đĩa bát trống trơn của bữa ăn tối đã biến mất, thay vào đó là một ghế nệm dài trông rất thoải mái mà tôi thận trọng gác chân lên. Dracula ngồi thẳng người, đường bệ trên chiếc ghế dựa to. Ghế của hắn cao, bằng gỗ và cũ xưa từ thời Trung cổ trong khi ghế của tôi được bọc nệm êm ái như chiếc ghế dài, tựa như hắn nghĩ phải cung cấp cho vị khách của mình một thứ phù hợp với tính yếu đuối nhu nhược của thời hiện đại.

Chúng tôi ngồi trong yên lặng một lúc lâu, ngay vào lúc tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng hắn định để cả hai ngồi như vậy suốt đêm thì hắn bắt đầu lên tiếng. “Khi còn sống, ta rất thích sách,” hắn nói. Hắn khẽ xoay mặt về phía tôi, khiến tôi có thể nhìn thấy ánh đèn phản chiếu bóng láng trên mái tóc dày và lấp lánh trong đôi mắt hắn. “Có lẽ ngươi không biết ta cũng gần như là một học giả. Đấy là điều ít ai biết.” Hắn nói, vẻ rất bình thản. “Ngươi vẫn biết sách vở thời của ta rất hạn chế về chủng loại. Trong cuộc đời trần tục của ta, chủ yếu ta chỉ nhìn thấy những văn bản được Giáo hội thừa nhận – chẳng hạn như những cuốn Phúc âm cùng với lời chú giải của Giáo hội Chính thống. Những cuốn sách đó rốt cuộc lại chẳng có ích lợi gì với ta. Và vào thời điểm ta chính thức lên ngôi lần đầu tiên thì những thư viện lớn ở Constantinle đã bị phá hủy. Những gì còn lại của chúng nằm trong các tu viện, ta chẳng bao giờ có thể bước vào đó để xem tận mắt.” Hắn nhìn chăm chăm vào ngọn lửa. “Nhưng ta có những nguồn khác. Bọn thương nhân đã mang đến cho ta những cuốn sách lạ lùng và tuyệt vời, từ nhiều địa phương khác nhau – Ai Cập và Vùng Đất Thánh, và những tu viện lớn ở phương Tây. Từ những cuốn sách đó, ta biết về sự huyền bí cổ xưa. Bởi ta biết mình không thể đạt đến một thiên đường toàn mỹ,” – lại vẫn cái giọng bình thản đó – “ta đã trở thành một sử gia để gìn giữ mãi mãi lịch sử của chính ta.”

Hắn bỗng im bặt một lúc, nhưng tôi sợ không dám hỏi gì thêm. Sau cùng, có vẻ như chợt tỉnh, hắn vỗ bàn tay to tướng lên thành ghế. “Đó là căn nguyên của cái thư viện này.”

Mặc dù thấy khó mà diễn đạt được câu hỏi của mình, tôi vẫn không thể nào giữ im lặng nổi vì quá tò mò. “Nhưng sau ihi… chết, ông vẫn tiếp tục sưu tập những cuốn sách này?”

“Ồ, đúng vậy.” Lần này hắn quay lại nhìn tôi, có lẽ do tôi đã tự ý nêu câu hỏi, và nở một nụ cười khắc nghiệt. Đôi mắt hắn bị sấp bóng bởi ánh lửa, quá khủng khiếp đến nỗi tôi không dám nhìn vào. “Ta đã nói với ngươi, tự trong tâm khảm ta là một học giả và cũng là một chiến binh, ta đã bầu bạn với các cuốn sách này qua bao năm tháng. Thêm nữa, có nhiều điều thiết thực phải học hỏi từ sách vở – chẳng hạn như nghệ thuật chính trị, chiến thuật của các vị tướng vĩ đại. Nhưng ta có rất nhiều loại sách. Ngày mai nhà ngươi sẽ thấy.”

“Vậy ông muốn tôi làm gì cho thư viện của ông?”

“Như ta đã nói, lập danh mục cho thư viện. Ta chưa bao giờ lập một hồ sơ ghi lại đầy đủ tài sản của mình, về nguồn gốc và tình trạng của chúng. Đó sẽ là nhiệm vụ đầu tiên của ngươi, và với việc thông thạo nhiều ngôn ngữ cũng như kiến thức uyên thâm của mình, ngươi sẽ hoàn thành nhiệm vụ đó một cách nhanh chóng và xuất sắc hơn bất kỳ ai khác. Trong thời gian tiến hành nhiệm vụ này, ngươi sẽ được sử dụng một số cuốn sách đẹp nhất – và quyền lực nhất – từ trước đến nay. Nhiều cuốn trong số đó sẽ không bao giờ còn hiện diện ở bất kỳ nơi nào khác. Có lẽ ngươi cũng biết, giáo sư ạ, chỉ khoảng một phần ngàn các tác phẩm văn học từng được xuất bản là còn tồn tại? Nhiều thế kỷ qua, ta đã đặt ra cho mình một sứ mệnh là nâng cái tỷ lệ đó lên.” Khi hắn nói, tôi lại nhận ra sự rõ ràng mà lạnh lùng iỳ dị và cái âm thanh lách tách trong sâu thẳm giọng nói của hắn – giống như tiếng Wêu của loài rắn đuôi chuông, hay tiếng nước lạnh chảy trên đá.

“Nhiệm vụ thứ hai của ngươi quan trọng hơn nhiều. Thực ra, nó sẽ kéo dài mãi mãi. Khi ngươi đã biết tường tận thư viện này và mục đích của nó giống như ta, ngươi sẽ trở lại với thế giới ngoài kia, dưới sự chỉ huy của ta, để tìm kiếm những nguồn sách mới – và cả sách cũ nữa, bởi ta chưa bao giờ ngưng sưu tầm những tác phẩm đã có trong quá khứ. Ta sẽ đặt nhiều chuyên viên lưu trữ dưới quyền sai khiến của ngươi – những tay cừ nhất – và ngươi sẽ mang về nhiều tay chân dưới quyền chúng ta hơn nữa.”

Tầm cỡ của viễn cảnh này và ý định đầy đủ của hắn, nếu tôi hiểu chính xác, bất chợt khiến tôi toát mồ hôi lạnh. Tôi nghe được chính cái giọng run run của mình. “Sao ông không tự mình tiếp tục công việc này?”

Hắn nhìn vào ngọn lửa, nở một nụ cười, và lại một lần nữa tôi thấy lóe lên một gương mặt khác – bộ mặt của loài chó, chó sói. “Hiện tại ta đang có nhiều việc khác phải đeo đuổi. Thế giới đang biến đổi và ta dự định phải biến đổi theo. Có lẽ chẳng bao lâu nữa ta sẽ không cần đến cái hình hài này” – hắn chậm chạp đưa tay chỉ vào bộ quần áo lộng lẫy thời Trung cổ của mình – “để hoàn thành tham vọng của mình. Nhưng đối với ta, thư viện này rất quý giá và ta muốn nhìn thấy nó phát triển. Vả lại, có đôi khi ta cảm thấy nơi này càng lúc càng kém an toàn. Nhiều sử gia đang tiếp cận rất gần để tìm kiếm nó, và chắc hẳn ngươi đã tìm được với các phương tiện của riêng ngươi nếu ta để ngươi có đủ thời gian. Nhưng ta cần ngươi ở ngay đây. Ta ngửi thấy mùi nguy hiểm đang đến gần, và thư viện này phải được lập danh mục trước khi chuyển đi.”

Trong một thoáng, tôi lại có thể vờ như mình đang mơ. “Ông sẽ dời nó đi đâu?” Và cả tôi theo ư? Có lẽ tôi nên thêm vào như vậy.

“Đến một địa điểm cổ xưa, thậm chí còn cổ xưa hơn nơi này và có nhiều kỷ niệm đẹp đối với ta. Một chốn hẻo lánh, nhưng gần các thành phố lớn và hiện đại hơn, nơi ta có thể đến và đi dễ dàng. Chúng ta sẽ bố trí thư viện ở đó và ngươi sẽ tha hồ mà làm cho nó phát triển.” Hắn nhìn tôi với vẻ tin cậy mà nếu ở trên khuôn mặt một con người, ta có thể coi đó là sự thương yêu. Rồi hắn đứng dậy với kiểu cử động mạnh mẽ và lạ lùng của mình. “Chúng ta đã bàn bạc đủ cho một đêm – ta thấy ngươi đã mệt. Chúng ta hãy dùng những giờ còn lại này để đọc một lát, như ta vẫn thường làm, và sau đó ta sẽ ra ngoài. Khi trời sáng, ngươi sẽ tìm thấy giấy bút ở gần máy in, hãy sử dụng chúng để bắt đầu công việc lập danh mục của mình. Ngươi sẽ thấy những cuốn sách của ta được sắp xếp theo từng loại, chứ ihông phải theo thế kỷ hoặc thập kỷ. Ngoài ra, ta đã cung cấp cho ngươi một máy đánh chữ. Dù muốn ngươi soạn bộ danh mục này bằng tiếng Latin hơn, nhưng ta để ngươi tùy nghi lựa chọn trong việc này. Và, lẽ tất nhiên, từ giờ trở đi ngươi được tự do, đọc bất cứ lúc nào và bất kỳ thứ gì ngươi muốn.”

Đến đây, hắn đứng dậy chọn một cuốn sách trên bàn, rồi ngồi lại xuống ghế. Tôi sợ không dám không làm theo, và cầm lấy cuốn đầu tiên chạm tay vào. Hóa ra đó là một ấn bản đầu tiên của Machiavelli_(1): cuốn Quân Vương, kèm theo là một loạt bài diễn văn, thuyết trình về chủ đề đạo đức mà tôi chưa bao giờ đọc hoặc nghe nói đến. Trong tâm trạng hiện tại, quả thực tôi không thể bắt đầu tìm hiểu điều gì trong đó mà chỉ ngồi nhìn chăm chăm vào những dòng chữ, hoặc lật bâng quơ một trang nào đó. Có vẻ như Dracula hoàn toàn say sưa đọc sách. Tôi lén liếc nhìn hắn, tự hỏi làm sao hắn thích nghi được với sự tồn tại trong bóng đêm, dưới lòng đất thế này, cuộc sống của một học giả sau một đời chiến chinh trận mạc.

Sau cùng, hắn đứng dậy, yên lặng bỏ cuốn sách qua một bên. Không nói một lời, hắn bước vào bóng tối của gian đại sảnh, khiến tôi không còn phân biệt được hình dáng của hắn nữa. Sau đó, tôi nghe như có tiếng cào bới sột soạt khô khốc, như tiếng động của một con thú trong hang sập, hoặc tiếng quẹt diêm dù không thấy có ánh lửa nào, rồi tôi cảm thấy mình hoàn toàn đơn độc. Tôi dỏng tai lắng nghe nhưng vẫn không thể xác định hắn đi ra theo hướng nào. Ít ra thì tối hôm nay hắn sẽ không è cổ tôi ra để hút máu. Tôi kinh hoàng tự hỏi không biết hắn để dành tôi làm gì, trong khi hắn có thể vừa nhanh chóng biến tôi thành tay sai vừa thỏa mãn cơn khát máu. Tôi cứ ngồi trên ghế như thế hàng giờ liền, thỉnh thoảng đứng dậy vươn vai để cơ thể bớt đau nhức. Tôi không dám ngủ khi trời chưa sáng, nhưng dù không muốn, chắc hẳn tôi đã chợp mắt một chút trước lúc bình minh, bởi tôi bất chợt tỉnh lại khi cảm thấy sự thay đổi trong không khí, dù ánh sáng không lọt được vào căn phòng tăm tối này, và nhìn thấy Dracula trong chiếc áo choàng đang tiến gần đến lò sưởi. “Chúc một ngày tốt lành,” hắn điềm tĩnh nói, rồi quay người đi về hướng bức tường tối đen, nơi có cỗ quan tài đá của tôi. Tôi đã đứng dậy do tác động của sự hiện diện của hắn. Rồi, lại một lần nữa, tôi không thể nhìn thấy hắn, và một sự im lặng sâu thẳm bao phủ xung quanh tôi.

Một lúc lâu sau, tôi cầm nến của mình lên thắp lại những cây nến ihác trong giá đèn và cả những cây trong chân đế dọc theo các vách tường. Trên nhiều chiếc bàn, tôi phát hiện ra những cây đèn sứ hoặc đèn lồng nhỏ bằng sắt, và tôi thắp một vài cây trong số đó. Tôi cảm thấy ít nhiều khuây khỏa khi có nhiều ánh sáng hơn, nhưng rồi tôi lại băn khoăn không biết mình có còn được nhìn lại ánh sáng mặt trời, hay đã bắt đầu cuộc sống vĩnh cửu trong bóng tối và ánh nến lập lòe – cuộc sống ấy trải ra trước mắt tôi như một cảnh địa ngục. Giờ thì ít ra tôi có thể nhìn thấy căn phòng rõ hơn; đó là một phòng rất lớn, dọc theo các bức tường là những tủ kệ khổng lồ. Khắp nơi toàn là sách, hộp, cuộn bản thảo, hàng chồng hàng dãy bộ sưu tập đồ sộ của Dracula. Dọc theo một bức tường là hình dáng lờ mờ của ba cỗ quan tài đá. Hai cái nhỏ hơn trống trơn – chắc hẳn tôi đã tỉnh lại ở một trong ba chiếc quan tài đó.

Rồi tôi thấy cỗ quan tài lớn nhất, uy nghi hơn hai cái kia, trông đồ sộ và cân xứng dưới ánh nến. Dọc theo cạnh bên là một từ được khắc bằng ký tự Latin: DRACULA. Hầu như vô thức, tôi đưa cao cây nến, nhìn vào bên trong. Thân xác to lớn của hắn đang nằm ở đó, trơ trơ. Lần đầu tiên tôi nhìn rõ ràng cận cảnh gương mặt dữ tợn của hắn, và dù vô cùng khiếp sợ tôi vẫn cứ đứng đó, nhìn trân trân. Lông mày hắn nhíu lại như đang mơ một giấc mơ khó chịu, mắt mở to, nhìn trừng trừng, do vậy trông hắn giống như đã chết hơn là đang ngủ, màu da vàng bợt bạt, lông mi đen dài bất động, những nét cương nghị, có thể gọi là đẹp, trên mặt hắn trông như mờ đi. Mớ tóc đen dài của hắn phủ quanh vai, xõa ra hai bên thành quan tài. Kinh khủng nhất là cái màu đỏ tươi trên má trên môi, trước đó trong ánh sáng lò sưởi tôi không thể nhìn được toàn bộ gương mặt cũng như hình dáng hắn. Quả thực hắn đã miễn thứ cho tôi đêm nay, nhưng ở đâu đó ngoài kia, trong đêm tối, hắn đã uống no nê máu của ai đó. Cái vết nhỏ máu của tôi trên môi hắn đã biến mất; nhưng giờ dưới bộ ria mép đen, đôi môi đó lại tươi một màu đỏ thắm. Tôi cảm thấy ớn lạnh cả người khi nhận ra vẻ dồi dào sinh lực và khỏe mạnh của hắn là hoàn toàn giả tạo – hắn không thở, ngực bất động, hoàn toàn không một chút phập phồng. Một điều khác thường nữa: hắn đang mặc một bộ đồ khác, cũng lộng lẫy và đẹp như bộ tôi đã thấy, áo và ủng màu đỏ sậm, áo choàng và mũ bằng nhung tím. Áo choàng đã hơi sờn vai, còn mũ gắn một chiếc lông vũ màu nâu. Cổ áo lấp lánh những viên đá quý.

Tôi đứng đó, nhìn đăm đăm cho đến khi cảm thấy như sắp ngất đi vì cái cảnh tượng kỳ lạ trước mắt, rồi tôi lùi lại một bước và cố tập trung suy nghĩ. Hãy còn sớm – từ giờ cho đến hoàng hôn, tôi còn nhiều thời gian. Trước tiên, tôi sẽ tìm một lối thoát, sau đó sẽ tìm cách tiêu diệt sinh vật này khi hắn đang ngủ, và dù chế ngự hắn được hay không tôi cũng phải biến ngay tức khắc. Tôi cầm chặt ngọn nến trong tay. Phải nói rằng tôi đã sục sạo khắp căn phòng đá khổng lồ trong suốt hơn hai giờ đồng hồ mà không thấy một lối thoát nào cả. Ở một đầu, đối diện với lò sưởi, là một cánh cửa gỗ lớn với ổ khóa bằng sắt, tôi hết đẩy lại kéo cánh cửa, cứ cố cho đến lúc người mệt lử và đau nhức toàn thân. Cánh cửa chẳng hề nhúc nhích; thực ra, tôi tin là nó đã không mở ra từ nhiều năm qua – có ihi từ nhiều thế kỷ. Không còn cách nào khác để thoát ra – không cửa khác, không đường hầm, không một viên đá lung lay hay một kẽ hở nào. Chắc chắn cũng không có cửa sổ, vì tôi cảm giác mình đang ở khá sâu trong lòng đất. Hốc tường duy nhất là nơi đặt ba cỗ quan tài, và ở đó, các tảng đá cũng trơ trơ bất di bất dịch. Quả là một sự tra tấn khi phải sờ soạng dọc theo bức tường đó trong tầm nhìn của Whuôn mặt cứng đơ với đôi mắt mở to thao láo của Dracula; cho dù đôi mắt đó hoàn toàn bất động, tôi vẫn cảm thấy chúng hẳn phải có năng lực theo dõi và nguyền rủa kỳ bí nào đó.

Tôi lại ngồi xuống bên lò sưởi để phục hồi cái sức lực đang tàn tạ của mình. Trong lúc hơ tay trên lửa, tôi để ý thấy dù đang ngốn những cành cây hoặc khúc gỗ thực sự, ngọn lửa không hề cháy nhỏ hơn và tỏa ra một hơi nóng dễ chịu, có thể cảm nhận rõ rệt. Bấy giờ tôi cũng phát hiện ra nó không có khói; nó đã cháy như vậy suốt đêm ư? Tôi đưa tay ôm mặt, tự cảnh báo chính mình. Tôi cần hết sức tỉnh táo. Thực ra – trong khoảnh khắc đó tôi đã đề ra quyết tâm – tôi sẽ xem nhiệm vụ của mình là giữ tâm trí và đạo đức nguyên vẹn cho đến giờ phút cuối cùng. Đó sẽ là điều nâng đỡ tôi, phương tiện sống cuối cùng còn lại của tôi.

Khi đã trấn tĩnh trở lại, tôi lại bắt đầu sục sạo, một cách có hệ thống, tìm kiếm bất kỳ phương cách khả dĩ nào có thể tiêu diệt tên chủ nhà gớm guốc kia. Lẽ tất nhiên, nếu thực hiện thành công việc đó, tôi cũng sẽ chết ở đây, trong đơn độc, không một lối thoát, nhưng hắn cũng sẽ không bao giờ rời khỏi căn phòng này để săn đuổi, làm hại con người ở thế giới ngoài kia được nữa. Đã hơn một lần tôi thoáng nghĩ đến sự giải thoát êm ái của việc tự sát, để rồi nhận ra rằng mình không được phép hành động như vậy. Tôi đã có nguy cơ trở thành giống như Dracula, và truyền thuyết đã quả quyết là bất kỳ người nào bị nhiễm như tôi nếu tự tử cũng có thể trở thành quỷ nhập tràng mà không cần phải bị cắn thêm lần nào nữa – một truyền thuyết ác độc nhưng tôi vẫn buộc phải lưu ý. Đối với tôi, chọn lựa đó kể như đã phá sản. Đưa cao ngọn nến, tôi lùng sục khắp mọi ngóc ngách trong phòng, mở tung các ngăn hộp, kiểm tra các giá kệ. Chắc ông hoàng ranh mãnh này không để lại cho tôi một thứ vũ khí nào có thể sử dụng chống lại hắn, nhưng tôi cứ phải tìm. Và tôi không tìm thấy gì, thậm chí không cả một khúc gỗ mà tôi hy vọng bằng cách nào đó có thể chuốt nhọn thành một cây cọc. Khi tôi thử lôi một khúc cây trong lò sưởi ra, ngọn lửa bất ngờ phực lên, cháy đến tay tôi. Tôi đã thử làm đi làm lại nhiều lần, nhưng lần nào cũng là cái kết cục quái quỷ kia.

Sau cùng tôi quay lại cỗ quan tài lớn nằm ở chính giữa, kinh hoàng nghĩ đến cái phương tiện cuối cùng đang nằm ở đó: lưỡi gao găm Dracula mang ở thắt lưng. Bàn tay sứt sẹo của hắn đang nắm chặt chuôi dao. Con dao có thể làm bằng bạc, trong trường hợp ấy, tôi có thể cắm lưỡi dao này vào tim hắn, nếu tôi lấy được nó ra khỏi người Dracula. Tôi ngồi xuống một lát để dồn hết can đảm cho nỗ lực này, và cũng để vượt qua nỗi khiếp sợ. Rồi tôi đứng dậy, thận trọng đưa tay đến gần lưỡi dao, tay kia giương cao ngọn nến. Gương mặt khắc nghiệt của Dracula không hề biểu lộ chút sự sống nào khi tôi rụt rè chạm tay vào, tôi nhận thấy như vậy, dù nét ác độc trên mặt và vẻ cau có của cái mũi có vẻ như rõ ràng và gay gắt hơn. Nhưng tôi kinh hoàng nhận ra bàn tay to tướng kia, vì lý do nào đó, lại đang nắm chặt cán dao. Phải gỡ bàn tay ấy ra mới chạm đến được con dao. Tôi để tay lên tay Dracula, và cảm giác ihi chạm vào đó là một nỗi kinh hoàng mà tôi không muốn ghi lại ở đây, dù sẽ chẳng ai đọc được những dòng này ngoài bản thân tôi. Bàn tay hắn khép chặt, cứng ngắt như đá trên chuôi dao. Tôi không thể gỡ tay hắn ra nổi, thậm chí không thể khiến nó nhúc nhích; tình thế chẳng khác gì tôi đang cố gỡ một con dao ra khỏi tay một bức tượng cẩm thạch. Đôi mắt chết chóc kia như đang rực lên vẻ căm hận. Liệu sau này khi tỉnh dậy hắn có nhớ việc này không? Tôi thụt lui, mệt nhoài, cảm thấy sức lực như đã cạn kiệt, và tôi lại ngồi bệt xuống sàn một lúc lâu, cây nến vẫn cầm trong tay.

Cuối cùng, nhận ra không

thể thành công theo kế hoạch đó, tôi quyết định chuyển qua một hướng hành động khác. Trước tiên, tôi phải chợp mắt một lúc, lúc này muộn nhất thì vẫn đang khoảng giữa trưa, tôi có thể thức dậy rất lâu trước Dracula, không sợ hắn tỉnh trước mà thấy tôi đang ngủ. Tôi nghĩ mình sẽ ngủ trong khoảng một, hai giờ – tôi phải tìm ra cách tốt hơn để ước lượng thời gian trong cái thế giới tách biệt này mới được – bằng cách nằm trước lò sưởi, áo khoác gấp lại làm gối. Không gì có thể thuyết phục tôi leo trở lại cái quan tài đá kia, ở đây tôi cảm thấy khá dễ chịu nhờ hơi ấm của những viên đá lát lò sưởi bên dưới tứ chi nhức nhối của mình.

Tôi dỏng tai lắng nghe khi tỉnh dậy, nhưng căn phòng vẫn im lặng một cách chết chóc. Tôi nhận ra trên bàn lại dọn sẵn một bữa ăn ngon lành, dù Dracula vẫn nằm cứng đờ trong quan tài của hắn. Sau đó, tôi vào trong để tìm chiếc máy đánh chữ đã thấy trước đó. Kể từ lúc ấy, tôi bắt đầu ghi lại nhanh nhất có thể mọi điều quan sát được. Bằng cách này, tôi còn tìm được cách ước lượng thời gian bởi tôi biết tốc độ đánh máy của mình và số trang tôi có thể hoàn thành trong một giờ đồng hồ. Tôi đang viết những dòng sau cùng này dưới ánh sáng của một ngọn nến; tôi đã tắt những cây khác đi để tiết kiệm. Lúc này tôi đang ngồi ở một chỗ ẩm ướt cách xa lò sưởi, đói lả và lạnh cóng. Giờ thì tôi sẽ giấu những trang viết này đi, ăn cái gì đó, và lao vào công việc mà Dracula đã xếp đặt cho tôi, để khi thức dậy hắn thấy tôi đang bận rộn với việc đó. Ngày mai, tôi sẽ cố viết nhiều hơn nếu còn sống và còn đủ tỉnh táo.

Ngày Thứ Hai

Sau khi ghi lại những quan sát đầu tiên ở trên, tôi đã cuộn các trang viết lại và nhét vào phía sau một cái tủ gần đó, nơi tôi có thể lấy lại dễ dàng nhưng khuất mọi góc nhìn. Tôi chậm rãi đi lại giữa những cái bàn sau khi đã thắp một cây nến mới. Tôi ước lượng phải có đến hàng chục ngàn cuốn sách trong căn phòng lớn – có lẽ phải đến trăm ngàn nếu đếm cả các cuộn bản thảo và bản viết tay khác. Sách không chỉ nằm trên bàn mà còn chất đống trong những chiếc tủ cũ kỹ nặng nề và trên những ngăn kệ thô mộc chạy dọc theo vách tường. Có vẻ như những tác phẩm thời Trung cổ nằm lẫn lộn với những cuốn sách khổ đôi đẹp đẽ thời Phục hưng và những bản in thời hiện đại. Tôi tìm thấy một cuốn khổ tư thuộc loạt tác phẩm đầu tay của Shakespeare kế bên một cuốn của Thomas Auinas(2)_. Rất nhiều sách về nghệ thuật giả kim thế kỷ mười sáu xếp cạnh một tủ chứa toàn những cuộn sách chữ Ả-rập có hình minh họa mà tôi đoán thuộc thời Ottoman. Còn có những cuốn thuyết giảng của Thanh giáo bàn về ma thuật và phép phù thủy, những cuốn thơ nhỏ nhắn thế kỷ mười chín, những cuốn triết học và tội phạm học dài dòng của thế kỷ chúng ta. Không, chẳng có trật tự thời gian gì cả, nhưng tôi nhận ra có một trật tự khác hiện lên khá rõ ràng.

Phải mất hàng tuần hoặc hàng tháng mới sắp xếp những cuốn sách được như trong bộ sưu tập lịch sử của một thư viện bình thường, nhưng vì Dracula cho rằng chúng đã được phân loại theo những quan tâm của riêng hắn, nên tôi sẽ giữ chúng như cũ và chỉ cố gắng phân biệt chúng theo chủng loại. Tôi nghĩ bộ sưu tập đầu tiên hẳn phải bắt đầu từ bức tường gần cánh cửa không thể mở kia, rồi kéo qua ba cái tủ và hai cái bàn lớn: nghệ thuật chính trị và chiến lược quân sự, tôi có thể gọi bộ sưu tập đó như vậy.

Ở đó, tôi tìm thấy các tác phẩm khác của Machiavelli, những cuốn sách khổ đôi đẹp đẽ có nguồn gốc Padua và Florence. Một cuốn tiểu sử Hannibal(3)_ do một người Anh viết từ thế kỷ mười tám và một bản thảo viết tay ngoằn ngoèo chữ Hy Lạp có lẽ có nguồn gốc từ thời thư viện Alexandria: Herodotus bàn về những cuộc chiến tại Athens. Sau các tập bản thảo viết tay, tôi lại bắt đầu cảm thấy một cơn ớn lạnh khác khi lật xem qua những cuốn sách, cuốn sau lại càng làm tôi giật mình hoảng hốt hơn cuốn trước. Một ấn bản đầu tiên đã sờn cũ quăn góc của cuốn Mein Kampf(4)_ và một cuốn nhật ký bằng tiếng Pháp – viết tay, lốm đốm trang này trang kia những vết mốc màu nâu – từ ngày tháng và những ghi chép đầu tiên có thể kết luận cuốn nhật ký tường thuật lại Thời đại Kinh hoàng(5)__ theo quan điểm của một quan chức trong bộ máy chính quyền. Tôi sẽ đọc kỹ cuốn nhật ký này sau – có vẻ như người viết không nêu tên mình ở đâu cả. Tôi tìm thấy một cuốn sách lớn nói về chiến thuật trong những chiến dịch quân sự đầu tiên của Napoleon, được in lúc ông ta còn ở Elba, tôi phỏng chừng như vậy. Trong chiếc hộp trên một trong các bàn, tôi tìm thấy một tài liệu đánh máy đã ố vàng, viết bằng ký tự Kiril; tiếng Nga của tôi chẳng đâu vào đâu, nhưng qua tiêu đề tôi chắc chắn đó là một công văn nội bộ của Stalin gửi cho một người trong quân đội Nga. Tôi không đọc được phần lớn công văn ấy, nhưng nó liệt kê một danh sách dài những cái tên Nga và Ba Lan.

Đó chỉ là vài thứ mà tôi có thể xác định danh tính; ngoài ra còn có nhiều sách và bản thảo mà tác giả và chủ đề của chúng hoàn toàn xa lạ với tôi. Khi chỉ vừa bắt đầu liệt kê những hạng mục mà mình có thể xác định và phân chia đại khái theo thế kỷ thì tôi cảm thấy một cơn buốt lạnh, giống như có gió thổi ở một nơi không hề có gió, tôi nhìn lên và thấy hình dáng kỳ lạ kia đang đứng ở đầu kia của chiếc bàn, cách tôi khoảng mười bước chân.

Hắn đang mặc bộ cánh lộng lẫy đỏ và tím như tôi đã nhìn thấy trong quan tài, trông hắn cao lớn và rắn chắc hơn so với những gì tôi nhớ đêm qua. Tôi không nói gì, chờ xem liệu hắn có tấn công tôi ngay hay không – hắn có nhớ tôi đã cố lấy con dao của hắn không nhỉ? Nhưng hắn chỉ khẽ nghiêng đầu, tựa như để chào hỏi. “Ta thấy ngươi đã bắt đầu công việc của mình. Chắc chắn ngươi sẽ có những thắc mắc này nọ, cứ hỏi ta đừng ngại. Nhưng trước hết, chúng ta hãy dùng bữa điểm tâm, sau đó chúng ta sẽ bàn về những bộ sưu tập.” Qua ánh sáng lờ mờ của gian sảnh, tôi thấy một tia sáng lấp lánh trên mặt hắn, có lẽ là ánh sáng lóe lên từ mắt. Hắn dẫn đường với những sải bước không phải của con người nhưng đầy vẻ trịch thượng trở về bên cạnh lò sưởi, ở đó tôi thấy đồ ăn thức uống nóng sốt đã bày sẵn, có cả một tách trà còn bốc hơi khiến tôi cảm thấy dễ chịu khi cầm lên trong đôi tay lạnh cóng của mình. Dracula ngồi nhìn ngọn lửa không tỏa khói, đầu dựng thẳng trên bờ vai rộng. Dù không muốn, tôi cũng chợt nghĩ đến cái xác bị chặt đầu của hắn – chi tiết tương đồng trong tất cả những bản miêu tả cái chết của hắn. Làm thế nào hắn có lại được cái đầu kia, phải chăng tất cả những gì ở đây đều là ảo ảnh? Cổ chiếc áo đẹp đẽ hắn đang mặc dựng cao đến tận cằm, những lọn tóc quăn đen phủ quanh cổ áo và xõa xuống tận vai.

“Nào,” hắn lên tiếng, “giờ chúng ta hãy dạo quanh một vòng.” Hắn lại châm sáng tất cả các cây nến, tôi bước theo hắn hết bàn này qua bàn khác trong lúc hắn thắp những ngọn đèn lồng trên bàn. “Chúng ta sẽ phải đọc qua một số thứ.” Tôi cố nhìn vào các tựa sách thay vì nhìn mặt hắn vì chẳng thích cái cách ánh sáng nhảy múa trên gương mặt mỗi khi hắn cúi xuống mỗi ngọn đèn mới thắp. Hắn bước đến bên cạnh khi tôi đang đứng trước các dãy sách và bản thảo tiếng Ả-rập. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi hắn vẫn còn cách hơn một mét, nhưng mùi hăng nồng tỏa ra từ người hắn khiến tôi phải cố giữ cho mình khỏi bị choáng váng. Phải giữ bình tĩnh, tôi nghĩ; đêm nay chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. “Ta thấy ngươi đã phát hiện một trong các phần thưởng của ta,” hắn nói. Vẻ hài lòng hiện rõ trong giọng nói lạnh lùng. “Đây là những tài sản ta có được từ tay bọn Thổ. Một số rất cổ xưa, từ những ngày đầu tiên của cái đế quốc quỷ quái ấy, và riêng kệ sách này chứa những cuốn từ thập niên sau cùng của bọn chúng.” Hắn mỉm cười trong ánh sáng lập lòe. “Ngươi không thể hình dung ta vui mừng thế nào khi chứng kiến nền văn minh của chúng lụi tàn đâu. Tất nhiên, đức tin của chúng chưa chết, nhưng bọn vua chúa thì vĩnh viễn tiêu đời, và ta đã tồn tại lâu hơn bọn chúng.” Tôi thoáng nghĩ hắn sẽ bật cười, nhưng hắn lại nói tiếp với vẻ nghiêm trọng. “Đây là những pho sách tuyệt vời soạn cho tên Quốc vương kia, viết về những vùng lãnh thổ của hắn. Còn đây” – hắn sờ vào mép một cuộn sách – “là lịch sử về Mehmed, cầu cho hắn nát thây trong địa ngục, do một tên sử gia Thiên Chúa giáo nhưng đã trở thành kẻ bợ đít tên Quốc vương Mehmed viết, ta cũng cầu cho hắn thối thây trong địa ngục luôn. Ta cố tìm ra hắn, cái thằng sử gia đó, nhưng hắn đã chết trước khi ta sờ tới gáy hắn. Đây là những bản tường thuật các chiến dịch của Mehmed và sự thất thủ của Thành phố Vĩ đại, do chính những tên nịnh thần của hắn soạn ra. Ngươi không biết đọc chữ Ả-rập ư?”

“Lõm bõm thôi,” tôi thú nhận.

“À, ra vậy,” hắn có vẻ thích thú. “Ta đã có cơ hội học ngôn ngữ và chữ viết này khi là tù nhân của chúng. Chắc ngươi cũng biết là ta từng bị bọn chúng giam cầm chứ?”

Tôi gật đầu, cố không nhìn vào hắn.

“Đúng vậy, cha ta đã để ta lại ở chỗ cha của Mehmed, như một lời cam kết rằng chúng ta sẽ không phát động chiến tranh chống lại Đế quốc. Ngươi hình dung xem, Dracula – một con tốt đen trong tay những kẻ vô đạo. Ta đã không bỏ phí thời gian ở đó – ta học hỏi mọi thứ có thể về chúng để vượt chúng về mọi mặt. Đó là lúc ta đã thề sẽ làm nên lịch sử chứ không phải là nạn nhân của nó nữa.” Giọng hắn sôi sục đến độ tôi không thể nào không liếc nhìn hắn dù chẳng muốn chút nào, và thấy vẻ căm hận trên mặt hắn, cái nhếch mép cay độc dưới bộ ria dài. Rồi hắn bật cười, giọng cười nghe cũng ghê rợn. “Ta đã chiến thắng và bọn chúng đã chết sạch cả rồi.” Hắn đưa tay chạm vào một gáy sách bọc da trang trí hình rập nổi. “Tên Quốc vương kia sợ ta đến độ đã thành lập một đội hiệp sĩ để săn đuổi ta. Hiện vẫn còn một vài tên, ở đâu đó tại Tsarigrad – cũng là một mối rầy rà. Nhưng bọn chúng càng ngày càng ít đi, vị thế của chúng cũng suy yếu chẳng còn gì, trong khi trên khắp thế giới người của ta càng lúc càng đông hơn.” Hắn vươn thẳng cơ thể cường tráng của mình. “Đi nào. Ta sẽ cho ngươi xem những vật báu khác của ta, và ngươi phải cho ta biết ngươi định lập danh mục cho kho báu này như thế nào.”

Hắn dẫn tôi từ khu vực này sang khu vực khác, chỉ trỏ những vật đặc biệt quý hiếm, tôi nhận thấy phỏng đoán của mình về trật tự bộ sưu tập của hắn là chính xác. Đây là một cái tủ to tướng đầy những cuốn hướng dẫn cách tra tấn, một số có niên đại thời cổ đại. Các cuốn hướng dẫn này rất đa dạng, từ các nhà tù ở Anh thời Trung cổ, đến những phòng tra tấn của Tòa Dị giáo, rồi những thử nghiệm thời Đệ tam Quốc xã Đức. Một số cuốn thời Phục hưng có những bức tranh khắc gỗ mô tả các dụng cụ tra tấn, các cuốn khác có biểu đồ cơ thể người. Một khu vực khác trong phòng dành cho biên niên ký về những kẻ dị giáo của Giáo hội, đối tượng để áp dụng nhiều phương pháp tra tấn nói trên. Một góc khác dành cho thuật giả kim, một góc nữa dành cho phép phù thủy và ma thuật, một góc dành cho các loại triết lý rắc rối khó hiểu nhất.

Dracula dừng lại trước một kệ sách lớn, để tay lên kệ với vẻ trìu mến. “Đây là mối quan tâm đặc biệt của ta, ta nghĩ rồi cũng sẽ là mối quan tâm của ngươi. Đây là những cuốn tiểu sử của chính ta.” Mỗi cuốn sách ở đây đều liên quan theo một cách nào đó với cuộc đời hắn. Có những tác phẩm do các sử gia Byzantine hoặc Ottoman viết – một số là những bản gốc vô cùng hiếm – và cả những tái bản của chúng trong suốt các thời đại khác nhau. Có những tập sách mỏng thời Trung cổ của Đức, Nga, Hungary, Constantinople, tất cả đều ghi chép về tội ác của hắn. Nhiều thứ trong số đó tôi chưa hề nhìn thấy hoặc nghe nói đến trong suốt cuộc nghiên cứu của mình, và tôi chợt cảm thấy dậy lên một sự hiếu kỳ vô lý trước khi nhớ ra rằng giờ đây mình không còn lý do gì để hoàn tất nghiên cứu đó nữa. Ngoài ra, còn có vô số những cuốn sách về văn hóa dân gian, từ thế kỷ mười bảy trở về sau, bao gồm những truyền thuyết về ma cà rồng – tôi sững sờ vì khiếp sợ và cảm thấy kỳ quái khi Dracula, một cách rất thẳng thắn, xếp những thứ này giữa những cuốn tiểu sử của hắn. Hắn đặt bàn tay to tướng lên ấn bản đầu tiên cuốn tiểu thuyết của Bram Stoker rồi mỉm cười, nhưng không nói gì. Sau đó, hắn im lặng đi qua một khu vực khác.

“Đây cũng sẽ là mối quan tâm đặc biệt của ngươi,” hắn lên tiếng. “Những tác phẩm này là lịch sử thế kỷ của ngươi, thế kỷ hai mươi. Một thế kỷ tươi đẹp – ta đang mong đợi những năm tháng còn lại của nó. Vào thời của ta, một ông hoàng có thể loại bỏ những nhân tố phiền nhiễu chỉ được mỗi lần một người. Ngày nay, các ngươi có thể làm việc đó với một khả năng lớn vô hạn. Ví dụ như, hãy nghĩ đến sự tiến bộ vượt bậc từ viên đại bác đáng nguyền rủa đã phá vỡ tường thành Constantinople đến loại hỏa lực tuyệt diệu mà quê hương thứ hai của ngươi đã ném xuống các thành phố Nhật Bản mấy năm trước.” Hắn khẽ nghiêng người như chào tôi, đầy vẻ lịch sự và tán thưởng. “Chắc hẳn ngươi đã đọc rất nhiều trong số này, giáo sư ạ, nhưng có lẽ ngươi nên lướt nhìn trở lại với một nhãn quan mới.”

Sau cùng, hắn lại bảo tôi ngồi xuống gần lò sưởi, tôi nhận ra có thêm một cốc trà đang bốc hơi ở ngay khuỷu tay mình. Hắn quay sang tôi lúc cả hai đang ngồi nghỉ trên ghế. “Ta cũng sắp phải kiếm đồ giải khát cho riêng mình rồi,” hắn nói, vẻ bình thản. “Nhưng trước hết, ta sẽ hỏi ngươi một câu.” Dù không muốn, tay tôi bắt đầu run lên. Cho đến lúc đó, tôi đã cố đối đáp với hắn bằng giọng càng nhỏ nhẹ càng tốt để tránh không phải gánh chịu cơn thịnh nộ của hắn. “Ngươi đang hưởng lòng hiếu khách của ta, theo như khả năng ta có thể ở nơi này, và hưởng cả lòng tin vô bờ của ta đối với tài năng của ngươi. Ngươi sẽ hưởng một cuộc sống vĩnh cửu mà chỉ một ít sinh linh có thể đạt được. Ngươi được tự do sử dụng cái văn khố chắc chắn là tuyệt vời nhất trong những văn khố cùng loại trên mặt đất này. Thực vậy, đang mở ra trước mặt ngươi là những cuốn sách quý hiếm mà hiện nay không thể nhìn thấy ở bất kỳ nơi nào khác. Tất cả những gì ở đây là của ngươi.” Hắn ngọ nguậy trên ghế, tựa như giữ cho cái thân xác to lớn, không chịu chết của hắn bất động lâu là một việc khó khăn. “Hơn nữa, ngươi là người có trực giác và khả năng tưởng tượng ít ai sánh bằng, có óc phán đoán chính xác và sâu sắc. Ta đã học hỏi nhiều từ phương pháp nghiên cứu, cách tổng hợp nguồn tư liệu và trí tưởng tượng của ngươi. Vì tất cả những phẩm chất đó, cũng như kiến thức uyên bác tuyệt vời mà ngươi đã được truyền thụ, ta mang ngươi về đây, về cái kho báu của ta.”

Hắn lại dừng lời. Tôi nhìn vào mặt hắn, không thể quay đi nơi khác. Hắn đang chằm chằm nhìn ngọn lửa. “Với tính trung thực không thể lay chuyển của mình, ngươi có thể thấy được bài học của lịch sử,” hắn tiếp tục. “Lịch sử đã dạy cho chúng ta bản chất con người là tuyệt đối xấu xa, ác độc. Cái thiện là cái không thể hoàn hảo, trong khi cái ác thì có thể. Vậy tại sao không sử dụng đầu óc tuyệt vời của mình để phục vụ cho cái có thể hoàn hảo? Ta yêu cầu ngươi, bạn của ta, hãy toàn tâm toàn ý cộng tác trong công cuộc nghiên cứu của ta. Nếu chấp nhận như vậy, ngươi sẽ không còn bị thống khổ cả thể xác lẫn tinh thần, và cũng giúp cho ta thoát khỏi rất nhiều lo âu rắc rối. Cùng nhau chúng ta sẽ đi tiên phong hoàn thành một công trình lịch sử chưa từng có trên thế giới. Không có gì trong sáng bằng sự trong sáng của những nỗi khổ đau trong lịch sử. Ngươi sẽ có cái mà mọi sử gia mong muốn: lịch sử sẽ là thực tại của ngươi. Chúng ta sẽ tẩy rửa tâm trí chúng ta bằng máu.”

Đoạn hắn quay qua nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt uyên thâm đầy những kiến thức cổ xưa rực sáng, đôi môi đỏ nhếch lên. Tôi chợt nghĩ nếu không bị méo mó bởi quá nhiều thù hận thì gương mặt đó hẳn phải là một gương mặt vô cùng thông minh sáng láng. Tôi cố không để mình trở nên yếu đuối, không chạy ngay đến bên hắn, quỳ xuống trước mặt hắn, đặt mình dưới sự sai bảo của hắn. Hắn là một lãnh tụ, là một đấng quân vương. Hắn không chịu được sự xúc phạm. Tôi dồn hết yêu thương với những thứ mình đã từng có trong đời để thốt lên một câu trả lời chắc nịch. “Không bao giờ.”

Gương mặt hắn đầy kích động, tái nhợt, mũi phập phồng và mép giật giật liên hồi. “Giáo sư Rossi ạ, chắc chắn ngươi sẽ chết ở chốn này,” hắn gằn giọng như cố chế ngự giọng nói của mình. “Ngươi sẽ không bao giờ sống sót mà rời khỏi những căn phòng này, dù ngươi sẽ ra khỏi nơi này dưới một cuộc sống mới. Tại sao ngươi lại không chọn lựa nhỉ?”

“Không,” tôi cố gắng nói bằng giọng càng nhẹ nhàng càng tốt.

Hắn đứng dậy, vẻ đe dọa, rồi cười gằn. “Vậy thì ngươi vẫn sẽ phải làm việc cho ta dù không muốn,” hắn gầm gừ. Bóng tối bắt đầu trùm lên trước mắt tôi, và tôi cố giữ chút – cái gì thế nhỉ? Da tôi bắt đầu râm ran ngứa ngáy, mắt nổ đom đóm. Khi hắn bước đến gần hơn, tôi mới nhìn thấy gương mặt thật của hắn, một gương mặt khủng khiếp đến độ giờ đây tôi không thể nào nhớ lại – dù đã cố. Sau đó, tôi không biết gì nữa, trong một thời gian dài.

Tôi tỉnh dậy trong cỗ quan tài đá của mình, trong bóng tối, và lại nghĩ đây là ngày đầu tiên, lần đầu tiên tỉnh dậy ở nơi ấy, cho đến lúc nhận ra tôi đã biết ngay mình đang ở đâu. Lần này tôi yếu hơn, yếu hơn rất nhiều, vết thương trên cổ lại phập phồng và rỉ máu. Tôi đã mất máu, nhưng không nhiều đến mức trở thành hoàn toàn bất lực. Một lúc sau, tôi cố sờ soạng chung quanh, run rẩy leo ra khỏi cái nhà tù của mình. Tôi nhớ lại khoảnh khắc mình bị bất tỉnh. Qua ánh sáng của những ngọn nến còn lại, tôi thấy Dracula lại đang ngủ trong ngôi mộ của hắn. Hai mắt hắn vẫn mở thao láo vô hồn, môi đỏ rực, tay nắm chặt dao găm – tôi quay đi trong nỗi sợ hãi tột độ cả về thể xác lẫn tâm hồn và đến ngồi bên cạnh lò sưởi, cố nuốt trôi đồ ăn tôi thấy ở đó.

Dường như hắn có ý định hủy hoại tôi dần dần, có lẽ để mở cho tôi cơ hội chọn lựa đến giây phút cuối cùng đề nghị mà hắn đã đưa ra tối qua, để tôi có thể tự nguyện toàn tâm toàn lực phục vụ hắn. Hiện tại, tôi chỉ còn một mục tiêu – không, hai mục tiêu chứ: chết khi tinh thần càng nguyên vẹn càng tốt với hy vọng sau này có thể hạn chế được phần nào những hành vi khủng khiếp mà tôi sẽ thực hiện khi trở thành ma cà rồng, và cố sống sót đủ lâu để ghi lại tất cả những gì có thể trong bản tường thuật này, dù có lẽ nó sẽ tan thành tro bụi mà vẫn chưa được ai đọc đến. Những ước nguyện này là điều duy nhất vực dậy tinh thần tôi lúc này. Đó là một số phận quá cay đắng mà tôi không còn đủ sức để khóc than.

Ngày Thứ Ba

Tôi không còn cảm nhận rõ ràng về ngày tháng nữa; tôi bắt đầu cảm thấy có lẽ một số ngày khác đã trôi qua, hoặc tôi đã mơ mơ tỉnh tỉnh nhiều tuần qua, hay tôi bị bắt mang đi đã một tháng rồi. Nhưng dù sao chăng nữa, đây là lần thứ ba tôi ngồi viết. Tôi đã bỏ cả ngày để khảo sát thư viện, không phải để hoàn thành cái tham vọng thiết lập danh mục cho thư viện này của Dracula, mà là để biết thêm bất kỳ thứ gì hữu ích cho bất cứ ai – nhưng xem ra đó là một nỗ lực vô vọng. Hôm nay, tôi chỉ ghi lại khám phá rằng Napoleon đã cho ám sát hai tướng lĩnh của mình trong năm đầu tiên lên ngôi hoàng đế, những cái chết tôi chưa từng thấy được ghi vào sổ sách nào cả. Tôi cũng xem xét kỹ một cuốn sách ngắn của Anna Comnema, sử gia Byzantine, tựa đề “Phương pháp tra tấn được hoàng đế chuẩn thuận vì lợi ích của nhân dân” – nếu tiếng Hy Lạp của tôi chuẩn xác. Tôi cũng tìm thấy trong khu vực thuật giả kim một cuốn sách pháp thuật được minh họa tuyệt đẹp, có lẽ là của xứ Ba Tư. Giữa các ngăn kệ chứa bộ sưu tập về các dòng dị giáo, tôi bất chợt bắt gặp một văn bản về Thánh John của Giáo hội Byzantine, nhưng có điều gì đó không ổn ngay từ phần đầu văn bản – nó nói về sự u ám tăm tối chứ không phải sự trong sáng. Tôi sẽ xem kỹ lại văn bản này sau. Tôi cũng phát hiện ra một cuốn sách tiếng Anh xuất bản từ năm 1521 – niên đại được ghi như vậy – có tên là Triết lý về sự sợ hãi, một tác phẩm về vùng Carpates mà tôi chỉ nghe nói và đã đinh ninh là không còn tồn tại.

Tôi đã quá mệt mỏi và tơi tả, không thể nghiên cứu những cuốn sách này theo như khả năng của tôi – hay đúng ra là như nhiệm vụ của tôi – nhưng mỗi khi nhìn thấy một thứ mới lạ tôi vẫn cứ háo hức cầm lên, quên bẵng tình trạng hoàn toàn vô vọng của mình ở chốn này. Giờ thì tôi phải chợp mắt một lát, trong lúc Dracula vẫn đang ngủ, để có thể đối mặt với thử thách sắp đến, bất chấp đó là thử thách gì.

Ngày Thứ Tư?

Tôi cảm thấy tinh thần bắt đầu suy sụp; cố gắng hết sức tôi cũng không thể theo dõi thời gian một cách chính xác hoặc tiếp tục nghiên cứu cái thư viện kia. Hôm nay tôi cảm thấy mình không chỉ quá yếu mà còn bệnh nữa, tình trạng đó càng làm tôi thấy khổ sở hơn. Tôi đang xem một cuốn sách về tra tấn trong khu lưu trữ độc nhất vô nhị của Dracula thì thấy trong một cuốn sách tiếng Pháp khổ tư xinh xắn mẫu thiết kế một cái máy chặt đầu, có thể chặt đầu người một cách nhanh chóng và gọn gàng. Có một bản khắc vẽ minh họa cái máy đó – các bộ phận máy, người đàn ông ăn mặc lịch sự cùng cái thủ cấp đã bị chặt tách rời khỏi thân hình. Khi nhìn mẫu thiết kế đó, tôi không chỉ cảm thấy kinh tởm công dụng của nó, không chỉ ngạc nhiên về tình trạng hoàn hảo của cuốn sách, mà bất chợt còn thèm muốn được chứng kiến cảnh tượng có thực, được nghe tiếng hò reo của đám đông và nhìn thấy dòng máu phụt ra trên ngực áo viền đăng ten và tấm áo khoác nhung kia. Sử gia nào cũng trải qua nỗi khao khát muốn nhìn thấy cảnh thực tại của quá khứ, nhưng đây là một cái gì đó mới lạ, một loại thèm khát khác hẳn. Tôi ném cuốn sách qua một bên, gục cái đầu nhức bưng bưng xuống bàn, và lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu cuộc sống bị giam cầm, tôi bật khóc. Thực ra, đã nhiều năm rồi tôi chưa hề khóc, chưa phải nhỏ giọt nước mắt nào sau đám tang mẹ tôi. Vị mặn của những giọt nước mắt làm tôi cảm thấy được an ủi đôi chút – vì nước mắt mặn là chuyện bình thường.

Ngày…

Gã quái vật kia cứ ngủ, suốt cả ngày hôm qua hắn không thèm nói gì, chỉ hỏi tôi công việc lập danh mục đang tiến hành thế nào rồi bỏ ra vài phút để xem xét công việc của tôi. Hiện tại tôi quá mệt để có thể tiếp tục nhiệm vụ, hoặc thậm chí đánh máy chữ nhiều hơn. Tôi sẽ ngồi trước lò sưởi và cố tìm lại một chút con người xưa cũ của mình.

Ngày…

Đêm qua, tựa như chúng tôi vẫn còn giữ cách đối xử như những người văn minh lịch sự với nhau, hắn lại bảo tôi ngồi trước lò sưởi và cho biết hắn sắp dời thư viện, sớm hơn dự định ban đầu, vì một mối đe dọa nào đó đang cận kề. “Đây là đêm cuối cùng của ngươi, sau đó ta sẽ để ngươi ở đây một thời gian ngắn,” hắn nói, “nhưng ngươi phải đến chỗ ta khi ta gọi. Lúc ấy, ngươi có thể tiếp tục lại công việc tại một địa điểm mới an toàn hơn. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc đưa ngươi trở lại với thế giới. Để tâm mà nghĩ xem ngươi có thể mang về cho ta những ai để giúp đỡ sứ mạng của chúng ta. Bây giờ, ta sẽ giấu ngươi vào một nơi mà không ai có thể tìm thấy, dù trong bất cứ trường hợp nào.” Hắn cười, nụ cười như làm cho mắt tôi mờ đi, vì vậy tôi cố nhìn vào ngọn lửa. “Ngươi rất ngoan cố đấy. Có lẽ ta sẽ ngụy trang ngươi thành di hài của thánh.” Tôi chẳng thèm hỏi hắn có ý gì khi nói vậy.

Như vậy, chỉ còn là vấn đề thời gian, thời gian rất ngắn, trước khi hắn kết thúc cuộc sống có sinh có tử của tôi. Bây giờ, tôi dồn tất cả năng lượng để củng cố bản thân cho đến những giây phút cuối cùng. Tôi cẩn thận không nghĩ đến những người thân yêu với hy vọng sẽ ít nghĩ về họ trong trạng thái ghê tởm sắp tới của mình. Tôi sẽ giấu tập giấy ghi chép này vào cuốn sách đẹp nhất tôi tìm thấy ở đây – một trong số ít tác phẩm ở thư viện này không gây ra cho tôi một cảm giác vừa thích thú vừa kinh tởm – và tôi cũng sẽ giấu cuốn sách ấy, để nó không còn thuộc về cái kho lưu trữ này nữa. Ước gì tôi có thể để thân xác mình trở thành tro bụi cùng với nó. Tôi cảm nhận thấy hoàng hôn sắp buông xuống, đâu đó bên ngoài cái thế giới mà ánh sáng và bóng tối vẫn còn hiện hữu kia, và tôi sẽ sử dụng tất cả tàn lực để vẫn là chính mình cho đến khoảnh khắc cuối cùng. Tôi đang khơi gợi mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống, trong lịch sử, trong quá khứ của riêng tôi. Tôi khơi gợi chúng với tất cả niềm đam mê mà tôi đã sống cùng.

Chú thích:

1. Machiavelli Niccoio (1469 – 1527): sử gia, triết gia, chính trị gia người Ý; ông viết nhiều tác phẩm về nghệ thuật lãnh đạo và cai trị, trong đó cuốn Quân Vương – The Prince (1532) có ảnh hưởng rất lớn đối với thời đại đó cũng như các thời đại sau này.

2. Thomas Aquinas (1225 – 1274): triết gia, nhà thần học và cũng là tu sĩ người Ý, được phong thánh thuộc dòng Dominique.

3. Hannibal (247 – 183 TCN): một danh tướng người Phoenicia, thuộc vương quốc cổ đại Carthage, nay là khu vực phụ cận của Tunis, thủ đô nước Tunisia, Bắc Phi.

4. Đời chiến đấu của tôi, tác phẩm dạnh hồi ký của Hitler.

5. Nguyên văn: Reign of Terror, ám chỉ cuộc Cách mạng Pháp (09/1793 – 07/1794, trong đó hàng ngàn người dân vô tội đã bị xử tử với tội danh kẻ thù của Cách mạng.)


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.