Vụ bí ẩn Vách đá rực lửa

CHƯƠNG 10 – MẮC BẪY!



Ba Thám Tử Trẻ ăn sáng ở cái bàn dài trong nhà bếp trang trại, cùng với Elsie Spratt, Hank Detweiler và số nhân viên còn lại của ông Charles Barron. Bữa ăn im lặng, mỗi người đều chìm đắm trong suy nghĩ riêng. Khi tủ lạnh đột nhiên khởi động lúc Elsie dọn món súp, Bob giật mình như bắn tên.
– Có điện lại à? – Peter hỏi.
– Tôi cho chạy máy phát điện. – John Aleman trả lời.
– Ồ, đúng rồi, – Peter kêu – cháu quên mất.
Hank Detweiler nhìn chằm chằm vào Peter.
– Đừng quên rằng ông Barron đã có mệnh lệnh về các cậu – Detweiler nói – Các cậu phải tránh xa bãi cỏ. Chúng tòi đã phân vài người canh giữ xem các cậu làm gì.
– Như vậy nghĩa là sao? – Elsie hỏi – Ông Barron thật sự lo lắng cho ba cậu bé hay ông ấy mong một chuyến viếng thăm khác của người ngoài hành tinh?
– Có lẽ là cả hai – Detweiler nói – Ông ấy tin rằng cái đĩa bay sẽ quay lại bởi vì họ đã bỏ lại vài người của họ đâu đây.
– Kẻ tấn công tụi cháu phải không ạ? – Hannibal hỏi.
Detweiler ra vẻ bực mình.
– Tôi không tin chuyện xảy ra – Detweiler thông báo – Tôi sẽ ra xem thử, tìm xem kẻ mặc đồ vũ trụ có thể ở đâu, hắn và đồng bọn hắn.
– Có thể họ đã leo lên vách đá. – Hannibal gợi ý.
– Có thể. – Detweiler thừa nhận rồi không chịu nói về đề tài ấy nữa.
Bữa ăn tiếp tục trong im lặng. Khi ăn xong, Ba Thám Tử Trẻ xin phép rời khỏi bàn ăn, rồi ra sau nhà. Ba thám tử đang ngồi đó, thì thấy Charles Barron đóng sập cửa nhà, bước đi về hướng chuồng ngựa.
Barron đứng lại khi nhìn thấy ba thám tử.
– Đừng đi lung tung nữa – Ông cảnh cáo – Nếu tôi mà nghe được các cậu đã lên trên bãi cỏ, hay lảng vảng gân đó, thì tôi sẽ cho nhốt các cậu lại.
– Dạ. – Hannibal kêu.
Barron đi tiếp. Chẳng bao lâu người phụ nữ tên Maria bước ra khỏi nhà lớn. Bà mỉm cười với ba thám tử khi đi ngang qua để trở về nhà.
Khi Maria đi mất rồi, Hannibal đứng dậy, dẫn đầu cả ba ra phía trước ngôi nhà lớn.
Bà Barron đang chờ ở sân hiên, ở đó có một số ghế và bàn bằng gang, được sơn trắng đúng kiểu cách, trông như có gai châm chích và không tiện nghi với kiểu họa tiết lá và cây leo cuộn quanh. Bà Barron đang ngồi trên một cái ghế như thế. Hai tay bà nghiêm nghị chấp trên vạt váy, nhưng mắt bà long lanh vì kích động. Hannibal đoán bà xem việc khám xét nhà mình như một cuộc phiêu lưu.
Sáng nay ba thám tử đã quyết định rằng chỉ một mình Hannibal sẽ xem qua nhà ông bà Barron cùng với bà Barron. Trong khi Hannibal ở trong nhà, Bob và Peter sẽ cố gắng tìm hiểu xem đám lính canh giữ con đường ra sao.
– Hẹn gặp các cậu sau, – Hannibal nói với Bob và Peter – và nhớ cẩn thận khi đến gần hàng rào.
– Đương nhiên rồi. – Peter trả lời.
Hannibal bước lên các bậc thềm trước nhà ông bà Barron. Bà Barron đứng dậy, ra đón thám tử trưởng ở sảnh.
Khi Hannibal đóng cửa lại, cả hai đứng một hồi, lắng nghe tiếng đồng hồ kêu tích tắc.
– Bắt đầu từ đâu? – Bà Barron nói.
– Chỗ nào cũng được. – Hannibal trả lời.
Thám tử trưởng liếc nhìn vào phòng khách nghiêm trang với thảm Thổ Nhĩ Kỳ, ghế bành nhung và trường kỷ ở trong đó, Hannibal không thấy gì để một tên trộm có thể thèm muốn. Hannibal quay đi, bước vào phòng nhạc, nơi có cây đàn dương cầm, vài chiếc ghế dát vàng, vài cái tủ chứa đầy giấy nhạc và vài hình vẽ trẻ con.
– Của các con trai tôi vẽ khi còn đi học – Bà Barron nói – Tôi cho là rất đẹp.
– Dạ, đẹp thật. – Hannibal trả lời nhưng thầm nghĩ hình vẽ xấu hoắc.
Hannibal bỏ đống hình vẽ trở vào tủ, nơi vừa mới lấy ra, rồi bước sang phòng ăn. Tủ ở đó chứa ít đồ bạc.
– Bạc rất quý, – Hannibal nói – nhưng cháu không nghĩ đồ bạc của cô đáng giá để dàn dựng một vụ lừa bịp tinh vi như thế. Nếu tên trộm lấy muỗng nĩa bạc, hay bộ tách cà phê bạc của cô, rồi phải đi bán lại, thì sẽ không được bao nhiêu.
– Tôi cũng nghĩ thế. – Bà Barron nói.
Trong nhà bếp có những tủ chứa đầy đồ hộp và mứt được làm ở trang trại. Các nhãn đều có ghi ngày và không có cái nào để quá một năm.
Khi khám nhà bếp xong, Hannibal mở cánh cửa dẫn xuống tầng hầm. Bà Barron bật đèn phía dưới lên, rồi cả hai bước xuống một nơi đầy bóng tối và bụi bặm, chứa toàn củi và than.
– Y như ở Wisconsin – Bà Barron nói, huơ tay về hướng cái lò sưởi to cạnh thùng than – Anh Charles muốn mọi thứ phải giống như trong trí nhớ anh ấy: lò sưởi và mọi thứ.
Qua một chỗ hở trên vách tường phía sau, Hannibal nhìn thấy một loạt những bậc thềm khác dẫn ra khỏi tầng hầm, thẳng ra bên ngoài. Đó là lối xuống tầng hầm theo kiểu cổ xưa, với một tấm gỗ dán có bản lề ngay phía trên cầu thang vừa dùng làm cửa đóng, vừa dùng làm mái.
Rồi mắt Hannibal để ý một chỗ rào trong góc phòng hầm, từ sàn lên trần, làm bằng lưới kim loại nặng nề, có cửa sắt kiên cố và khóa móc. Hannibal tò mò băng qua phòng hầm, nhìn qua lưới thấy những cây súng dự phòng xếp đứng trên giá tựa vào tường. Dưới sàn có những hộp đạn, và có cả thuốc nổ. Một giá súng thứ nhì ở vách tường xa hơn chứa súng lục.
– Một kho chứa vũ khí đạn dược ghê quá – Hannibal nói – Cũng y như tầng hầm ở Wisconsin à?
Bà Barron lắc đầu, nét mặt buồn bả.
– Cái này mới, – Bà nói – anh Charles đã cho làm cách đây sáu tháng. Anh ấy… anh ấy nghĩ rằng sắp đến thời kỳ ta phải tự vệ.
– Cháu hiểu. – Hannibal nói.
Thám tử trưởng quay đi khỏi chỗ để súng, tiến hành mở những cái hòm xung quanh. Chúng đều trống rỗng, hộp và thùng thưa cũng vậy.
– Không có gì. – Cuối cùng Hannibal nói.
– Đúng – Bà Barron nói lại – Chúng tôi không mấy khi sử dụng tầng hầm.
Hannibal và bà Barron leo lên cầu thang trở vào nhà bếp, rồi bà Barron dẫn đường lên lầu.
Gần thềm nghỉ có phòng gia nhân, nhưng để trống và không dùng. Trong các phòng khác có những cái giường to lớn kiểu xưa phủ tấm trải bằng gấm thêu lộng lẫy. Bà Barron vào phòng mình, mở tủ và ngăn kéo ra.
– Không có gì cả, thật đấy, kể cả nữ trang dỏm cũng không. Tôi rất ít khi đeo nữ trang ở trang trại, – Bà nói – tôi chỉ giữ một xâu ngọc trai và chiếc nhẫn đính hôn. Còn tất cả những thứ còn lại đều để trong két sắt ngân hàng.
– Có phòng mái không ạ? – Hannibal hỏi – Thế còn tranh? Trong nhà này có bức tranh nào đáng giá không? Còn giấy tờ? Ông Barron có loại giấy tờ nào có thể mồi một tên lừa đảo không?
Bà Barron mỉm cười.
– Tranh của chúng tôi đều là chân dung gia đình, nhưng không có giá trị, dĩ nhiên là chỉ có giá đối với anh Charles. Còn về giấy tờ, thì thật ra tôi cũng không biết nữa. Tôi không hiểu gì về tài chính kinh doanh. Anh Charles giữ tất cả trong văn phòng.
Bà Barron đi qua cầu thang phía trước, Hannibal đi theo. Có một gian nhỏ ở góc Đông nam ngôi nhà trông còn nghiêm trang và cổ xưa hơn những gian mà thám tử trưởng đã nhìn thấy. Phòng được bố trí như một văn phòng với bàn viết có ngăn kéo, ghế bành phủ da, ghế xoay bằng gỗ sồi, và tủ hồ sơ cũng bằng gỗ sồi. Trong phòng có lò sưởi, phía trên mặt lò sưởi là một tấm bảng thép khắc hình một nhà máy.
– Hình Barron International đó – Bà Barron nói, chỉ về hướng tấm bảng khắc – Nhà máy từng làm cho người đầu tiên trong dòng họ Barron trở nên giàu có. Tôi không thường vào đây, nhưng…
Bà Barron ngưng nói. Bên ngoài có ai đang gọi tên bà. Bà bước ra cửa sổ, kéo khung kính trượt lên.
– Bà Barron ơi! – Một phụ nữ đứng trên con đường phía dưới kêu – Xin bà ra nhanh! Nilda Ramirez bị té cây và đang chảy máu tay.
– Tôi đến ngay! – Bà Barron trả lời.
Bà đóng cửa sổ lại.
– Cậu cứ tiếp tục tìm kiếm đi – Bà nói với Hannibal – Chắc chắn cậu không cần có tôi lẩn quẩn bên chân đâu. Để tôi đi lấy túi cứu thương rồi xuống xem con bé Ramirez ra sao. Cậu đừng xem lâu quá. Anh Charles sắp về rồi.
– Cháu sẽ làm nhanh. – Hannibal hứa.
Bà Barron bước ra, Hannibal nghe tiếng bà lục lạo trong phòng tắm lớn bên cạnh. Rồi bà xuống dưới nhà, đi ra ngoài. Hannibal ra cửa sổ trước nhìn qua bãi cỏ và khóm cây chanh, rồi nhìn phía bên kia đường. Không thấy ai cả.
Hannibal rời cửa sổ, tiến thẳng đến lò sưởi. Thám tử trưởng lấy bảng khắc hình nhà máy Barron International xuống khỏi tường, mỉm cười.
– Cuối cùng cũng tìm thấy! – Thám tử trưởng nói to.
Có két sắt dưới tấm hình, một két sắt kiểu cũ, không có khóa mã số, mà mở bằng chìa khóa.
Hannibal đoán rằng bà Barron không biết gì về két sắt. Hannibal tự hỏi không biết có phải ông Barron tìm thấy két sắt trong một cửa hàng bán đồ cổ, rồi lắp đặt vào nhà ngay sau khi dời về Californie. Hannibal xoay thử tay cầm. Két sắt được khóa chặt, như thám tử trưởng dự đoán. Ngăn kéo tủ và tủ hồ sơ cũng khóa.
Hannibal ngồi xuống ghế bành, thử tưởng tượng mình là Charles Barron, ông sẽ cat gì trong két sắt? Ông có mang theo chìa khóa két sắt khi ra ngoài không? Hay ông sẽ bỏ lại ở nhà? Hay ông có chìa khóa thứ nhì?
Nét mặt Hannibal sáng lên khi ý nghĩ này nảy ra. Charles Barron rất cẩn thận. Thế nào cũng phải có một chìa khóa thứ nhì giấu trong nhà.
Hannibal lấy can đảm rồi bắt đầu tìm kiếm. Thám tử trưởng quỳ xuống sờ thử mặt dưới ghế và bàn. Hannibal mò mẫm mép trên hai cửa sổ và cửa vào. Hannibal nhìn phía sau các tủ hồ sơ. Cuối cùng Hannibal kéo mép thảm lên và nhìn thấy một tấm ván sàn nhà ngắn hơn so với những ván khác. Thám tử trưởng dùng móng tay kéo tấm ván này lên dễ dàng. Phía dưới có cái hốc với chìa khóa.
– Không được khôn lắm, ông Barron ơi. – Hannibal nói khẽ.
Thám tử trưởng lấy chìa khóa, có tất cả ba chìa trên xâu, mở két sắt ra. Trong két sắt có những hộp nhung, là hộp nữ trang. Hannibal mở từng hộp, kinh ngạc nhìn đống ngọc bích, kim cương và hồng ngọc. Có xâu đeo cổ, nhẫn, đồng hồ, kim kẹp cà vạt và vòng đeo tay. Phần lớn có kiểu dáng xưa. Hannibal đoán đây là nữ trang xưa kia thuộc bà mẹ ông Barron.
Vậy nữ trang không có trong két sắt thuê ở ngân hàng như bà Barron nghĩ. Ngoài Charles Barron ra, không biết có ai khác biết điều này không? Chắc chắn số nữ trang rất đáng để ăn cắp. Nhưng có đáng với một màn lừa bịp dàn dựng công phu không? Hannibal nghĩ là không. Hannibal thắc mắc không hiểu tại sao số nữ trang được dời về nhà. Rồi thám tử trưởng nhận ra rằng đây chỉ là thêm một dấu hiệu về việc ông Barron mất lòng tin vào thế giới mình đang sống. Charles Barron không tin tưởng ngân hàng, ông tin vào đất và vàng.
Hannibal khóa két sắt lại, trở ra bàn viết.
Chìa khóa thứ nhì mở được ngăn kéo bàn viết. Vật đầu tiên mà Hannibal nhìn thấy khi kéo ngăn ra là cái kẹp kim loại đã được tìm thấy ngoài bãi cỏ sáng nay. Hannibal lật tới lật lui trong tay. Thám tử trưởng ngồi xuống chiếc ghế xoay, tiến hành xem qua những quyển ngân phiếu chất đống trong bàn viết.
Các quyển ngân phiếu thuộc một số ngân hàng ở vài thành phố: Ngân hàng Prairie ở Milwaukee, Deseret Trust Company ở Salt Lake City, Riverside Trust Company ở New York và Ngân hàng Central Illinois National ở Springfield. Hannibal lật qua các cùi ngân phiếu ở mỗi quyển và nhận thấy rằng ngân phiếu cuối cùng xuất đối với từng tài khoản để rút toàn bộ số dư. Barron đã khóa sổ mọi tài khoản trừ một ngân khoản còn lại là của Barbara Merchants Trust, số ghi cuối cùng trên cùi ngân phiếu đối với tài khoản này cho thấy rằng Charles Barron có hơn mười ngàn đô-la tiền gửi.
Hannibal tựa lưng vào ghế, bắt đầu xem qua các cùi ngân phiếu quyển này và xém huýt sáo vì ngạc nhiên.
Hàng triệu đô-la đã được gửi vào cơ quan tài chính Santa Barbara trong hai năm vừa qua, và những tờ ngân phiếu khổng lồ đã được xuất trên tài khoản này. Một số tiền được chi trả cho trang thiết bị trang trại. Rồi có các ngân phiếu cho một công ty thức ăn, ngân phiếu cho một vài công ty dầu khí và ngân phiếu cho các cửa hiệu bán ôtô để mua xe tải và các gara sửa xe. Có những ngân phiếu thanh toán cho các công ty kỹ thuật về việc mua thiết bị tưới tiêu và các công ty xi măng để mua cát sỏi và xi măng. Barron đã chi tiêu những khoản tiền rất lớn để trang bị cho trang trại.
Nhưng thêm vào đó, có nhừng khoản tiền to đã trả cho những công ty mang những tên mà Hannibal không biết. Một công ty tên Peterson, Benson và Hopwith đã nhận tiền từ Barron hơn một chục lần, với những khoản xê dịch từ năm mươi ngàn đô-la cho đến hơn hai trăm ngàn đô-la.
Có một số ngân phiếu xuất cho hội Trao đổi Tem Pacific với những khoản tiền đáng kinh ngạc.
Hannibal chau mày bỏ quyển ngân phiếu sang một bên. Chưa có gì cho thấy rằng ông Barron quan tâm đến những con tem. Và bà Barron có nói rằng hai vợ chồng bà không sưu tầm bất cứ thứ gì.
Ngoài các quyển ngân phiếu, trong bàn viết còn có giấy tờ: báo cáo của một hãng môi giới có trụ sở ở đại lộ Wilshire tại Los Angeles. Hãng đã bán vài triệu chứng khoán cho ông Barron trong khoảng thời gian tám tháng. Trong các bản bão cáo, không có thông báo nào nêu rằng ông Barron đã mua chứng khoán mới. Ông chỉ có bán đi, và các môi giới chứng khoán chuyển ngân phiếu về cho ông sau mỗi lần bán.
Hannibal bỏ các báo cáo chứng khoán lại chỗ cũ, rồi tiến hành lật một xấp giấy tờ khác. Chỉ là hóa đơn và biên nhận có liên quan đến những gì ông Barron mua cho trang trại. Hannibal kinh ngạc trước số tiền rất lớn mà ông Barron đã chi ra cho pháo đài này. Chỉ một mình hóa đơn bàn ghế ngoài vườn thôi cũng đủ để trang bị đồ gỗ cho một ngôi nhà bình thường từ tầng mái xuống tầng hầm.
Hannibal mỉm cười khi thấy hóa đơn đặc biệt này: bốn mươi ba cái ghế bằng gang, kiểu dây leo Thụy Điển, mười cái bàn cùng kiểu, tất cả đều được chế tạo theo quy cách như đã thống nhất với ông Barron, và phải được giao đến trang trại Valverde trong vòng chín mươi ngày.
Đúng là triệu phú, Hannibal nghĩ bụng, đi đặt mua bàn ghế để ngoài vườn trong khi có thể mua ở bất kỳ cửa hiệu chuyên nào. Nhưng Charles Barron đã quen có mọi thứ đúng theo ý muốn mình. Có thể ông ấy không thích kiểu hoặc không thích trình độ chế tạo thủ công của bàn ghế bán ngoài cửa hàng.
Hannibal bỏ xấp hóa đơn này trở về chỗ cũ, đóng và khóa ngăn kéo bàn viết lại. Thám tử trưởng ngồi yên một hồi, băn khoăn bởi một cảm giác nhỏ khó chịu rằng mình đã nhìn thấy một cái gì đó rất quan trọng. Trong khi đang suy nghĩ xem đó có thể là gì, thì Hannibal nghe một tiếng động ở dưới nhà.
Có ai đã mở cửa nhà bếp và đang bước vào nhà. Có người đang đi băng qua nhà bếp. Tiếng chân bước nghe rất nặng nề, không phải bà Barron đang trở về.
Hannibal đứng dậy, lẳng lặng tiến lên một bước, quỳ xuống cho chìa khóa trở vào hốc dưới sàn nhà. Thám tử trưởng đóng tấm ván trên chỗ giấu, kéo thảm phủ ván lại.
Tiếng chân bước ở dưới vang lên trong phòng ăn, rồi trong sảnh.
Thám tử trưởng hoảng hốt nhìn xung quanh. Tiếng chân bước đang đi lên lầu. Hannibal không còn kịp đi ra tiền sảnh xuống dưới nhà để không bị phát hiện. Hannibal đã bị kẹt!

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.