Giờ thứ 7 của 45
Đối với Percey Clay, ngôi nhà an toàn mà cô đến chẳng có vẻ gì là thực sự an toàn.
Đó là một công trình ba tầng xây bằng đá hộc màu nâu giống như rất nhiều ngôi nhà dọc khối phố này, gần thư viện Morgan.
“Đây rồi”, một đặc vụ vừa nói với cô và Brit Hale vừa hất đầu ra ngoài cửa sổ chiếc xe thùng. Họ đậu xe trong con hẻm rồi cô và Hale bị đẩy nhanh qua lối vào dưới tầng hầm. Cánh cửa sắt đóng sầm lại. Hai người nhận ra mình đang đứng trước mặt một người đàn ông xởi lởi khoảng bốn mươi tuổi, cao gầy với mái tóc màu nâu đang hói dần. Anh ta đang ngoác miệng cười.
“Xin chào”, anh ta nói và chìa ra tấm phù hiệu NYPD với hình chiếc khiên màu vàng của mình. “Tôi là Roland Bell. Kể từ bây giờ hai người gặp bất kỳ ai, kể cả với một người trông quyến rũ như tôi, hãy yêu cầu họ cho xem giấy tờ chứng minh và nhớ bảo đảm rằng ảnh dán trên đó phải giống mặt thật 100%.”
Percey chăm chú nghe cái giọng kéo dài bắn như súng liên thanh của anh ta và hỏi, “Đừng nói với tôi… anh là người Tarheel[58]đấy?”.
”Chính xác là thế”. Anh ta cười phá lên. “Trước thì sống ở Hoggston – không hề nói đùa một chút nào – cho đến khi chuyển sang Chapel Hill khoảng bốn năm. Theo tôi biết thì cô là người Richmond.”
“Trước kia thôi. Lâu lắm rồi.”
“Còn anh, anh Hale?”, Bell hỏi. “Anh cũng từ bỏ lá cờ Sao và Vạch ngang[59]à?”.
“Người Michigan”, Hale nói và bắt bàn tay cứng cáp của viên thám tử. “Gốc Ohio.”
“Ồ, đừng lo, tôi sẽ tha thứ cho các anh vì sai lầm nhỏ hồi những năm 1860 ấy”.
“Nếu là tôi có lẽ tôi đã đầu hàng rồi”, Hale nói đùa. “Hồi đó không ai hỏi ý kiến tôi cả.”
“Ha ha. Được rồi, tôi là một thám tử hình sự nhưng tôi cũng thường phụ trách những vụ bảo vệ nhân chứng loại này vì tôi có sở trường trong việc giữ gìn mạng sống cho người khác. Vậy là anh bạn thân mến Lon Sellitto đã đề nghị tôi giúp anh ta vụ này. Tôi sẽ là người trông nom quý vị một thời gian.”
Percey hỏi, “Vậy còn người thám tử kia hiện ra sao rồi?”.
“Jerry à? Theo như tôi nghe nói thì cậu ta vẫn đang ở trong phòng mổ. Chưa có thông tin gì mới cả.”
Giọng nói của người cảnh sát có vẻ hơi chậm và kéo dài nhưng đôi mắt anh ta thì vô cùng nhanh nhẹn, lướt qua cơ thể hai người như điện xẹt. Tìm kiếm gì chứ? Percey tự hỏi. Kiểm tra xem họ có mang theo vũ khí không à? Có giấu máy ghi âm trong người không à? Sau đó anh ta quan sát hành lang. Trước khi lia mắt ra ngoài cửa sổ.
“Được rồi”, Bell nói, “tôi là một người dễ tính nhưng tôi cũng có thể là một người khó chịu khi động đến việc bảo vệ những người tôi được phân công chịu trách nhiệm”. Anh khẽ mỉm cười nhìn Percey. “Trông cô cũng có vẻ là một người cứng đầu đấy, nhưng hãy nhớ là tất cả những gì tôi yêu cầu cô làm cũng đều là vì lợi ích của chính cô thôi. Được chứ? Được rồi. Mà này, tôi dám chắc chúng ta sẽ chung sống hòa thuận cho mà xem. Còn bây giờ, để tôi cho hai người thấy nơi ăn ở hạng A này của quý vị nhé.”
Khi họ đang đi lên tầng trên anh lại nói, “Có lẽ hai người đang thèm muốn chết được biết nơi này an toàn như thế nào…”.
Hale hỏi với vẻ ngơ ngác, “Xin lỗi anh vừa nói gì cơ?Thèm muốn chết?”.
“À ừ, ý tôi là nóng lòng ấy mà. Chắc tại tôi vẫn nói theo kiểu miền Nam. Mấy anh bạn ở One Police Plaza[60]– có nghĩa là ở trụ sở chính ấy mà – thỉnh thoảng vẫn lôi tôi ra trêu chọc. Họ vẫn nhắn tin thông báo là vừa tóm cổ được tên vai u thịt bắp nào đó và muốn nhờ tôi làm phiên dịch. Nhân tiện cũng khẳng định là nơi này rất tốt và an toàn. Mấy anh bạn của chúng tôi bên Bộ Tư pháp, ối chà, họ làm việc đâu vào đấy lắm. Trông rộng hơn là nhìn từ bên ngoài nhỉ?”
“Rộng hơn một chiếc cabin, nhỏ hơn một đường băng rộng”, Hale nói.
Bell cười khùng khục. “Mấy cái cửa sổ ở phía trước à? Chắc lúc mới lái xe đến đây hai người cảm thấy chúng không được chắc chắn cho lắm?”
“Đó là một chuyện…”, Percey bắt đầu.
“Chà, phòng phía trước đây rồi. Hãy thử nhìn mà xem.” Anh đẩy một cánh cửa mở hẳn ra.
Hoàn toàn không có cửa sổ nào. Những tấm thép đã được gắn chặt phủ lên chúng. “Rèm che ở phía bên kia”, Bell giải thích. “Nhìn từ ngoài phố ai cũng tưởng đây là những căn phòng tối. Tất cả các cửa sổ còn lại đều lắp kính chống đạn. Nhưng hai người không được lại gần trong bất kỳ tình huống nào. Và phải luôn nhớ kéo rèm xuống. Lối thoát hiểm trong trường hợp hỏa hoạn và mái nhà đều được trang bị các thiết bị cảm ứng, ngoài ra chúng tôi còn lắp đặt hàng tấn máy quay bí mật xung quanh nhà. Bất kỳ ai tới gần đều bị chúng tôi phát hiện và vô hiệu hóa ngay trước khi họ kịp đặt chân tới cửa trước. Phải là một bóng ma mắc bệnh chán ăn mới có thể lọt vào đây.” Anh bước dọc theo một hành lang rộng. “Hãy theo tôi bước qua phía này một chút… Được rồi, đây là phòng của cô đấy, cô Clay.”
“Nếu như chúng ta chuẩn bị sống cùng nhau, có lẽ anh nên gọi tôi là Percey vậy.”
“Nhất trí ngay. Còn anh ở bên này, anh…”
“Brit.”
Những căn phòng đều nhỏ bé, hơi tối và vô cùng yên tĩnh – khác xa văn phòng của Percey trong góc của chiếc hangar ở Hudson Air. Cô chợt nhớ đến Ed, người chỉ thích có một văn phòng trong tòa nhà chính, bàn làm việc luôn được bài trí gọn gàng, ảnh những chiếc B-17 và P-51 treo ngay ngắn trên tường, những cục chặn giấy Lucite đặt trên mỗi chồng tài liệu. Percey thích ngửi mùi xăng máy bay, và tiếng nhạc nền cho một ngày làm việc bận rộn của cô là âm thanh đinh tai nhức óc của những chiếc cờ lê công nghiệp chạy bằng bình khí nén. Cô nhớ đến những lúc hai người còn bên nhau, anh ngồi vắt chân trên bàn làm việc của cô, cùng chia sẻ từng ngụm cà phê. Cô cố xua đưổi những ý nghĩ đó ra khỏi đầu trước khi những giọt nước mắt lại bắt đầu trào ra.
Bell đang nói vào chiếc bộ đàm của anh ta. “Các nhân viên vào vị trí.” Một lát sau hai cảnh sát mặc sắc phục xuất hiện ngoài hành lang. Họ gật đầu chào rồi một người lên tiếng. “Chúng tôi sẽ đứng ở ngoài này. Suốt thời gian các vị ở đây”. Kể cũng lạ, kiểu giọng mũi đặc sệt New York của họ dường như cũng không hề khác gì giọng nói kéo dài ồm ồm của Bell.
“Như thế là tốt đấy”, Bell nói với Percey.
Cô nhướng mày.
“Thì cô vừa kiểm tra phù hiệu của anh ta còn gì. Sẽ không ai qua mặt được cô đâu.”
Cô gượng cười đáp lại.
Bell nói với Percey. “Hiện tại chúng tôi cũng đã cử hai người bảo vệ mẹ chồng cô ở New Jersey. Cô còn người thân nào trong gia đình cần được bảo vệ nữa không?”
Percey trả lời không, ít nhất thì cũng là trong khu vực này.
Anh lặp lại câu hỏi với Hale, anh ta trả lời với một nụ cười rầu rĩ, “Không có ai, trừ khi một người vợ cũ cũng vẫn được coi là người thân trong gia đình. Hừm, những người vợ thì đúng hơn.”
“Tốt rồi. Thế có mèo hay chó gì cần cho ăn không?”
“Không”, Percey nói, và Hale lắc đầu.
“Nếu vậy chúng ta có thể ung dung thư giãn được rồi. Không được gọi điện thoại di động, trong trường hợp các vị có máy. Chỉ được sử dụng đường dây điện thoại cố định đằng kia. Nhớ những gì tôi nói về cửa sổ và rèm che. Ở đằng kia có một chiếc nút báo động khẩn cấp. Trong trường hợp mọi chuyện không thể nào tồi tệ hơn được nữa, hãy bấm nút và nằm sát xuống sàn nhà. Còn bây giờ, nếu hai người cần bất kỳ điều gì, cứ việc nói với tôi một tiếng là xong.”
“Thực ra thì tôi có đấy”, Percey nói. Cô giơ cao chiếc chai bẹt của mình lên.
“Ái chà chà”, Bell kéo dài, “nếu cô muốn tôi giúp cô dốc cạn nó thì e là tôi đang trong ca trực. Nhưng dù sao cũng rất cám ơn cô đã mời. Còn nếu cô muốn tôi giúpđổ đầynó, ok, coi như xong rồi”.
Kế hoạch của họ không xuất hiện trên bản tin năm giờ chiều.
Nhưng bù lại đã có ba lần phát sóng không gây nhiễu trên tần số sóng bộ đàm cảnh sát toàn thành phố, thông báo cho các đồn cảnh sát về Kế hoạch số 10-66 nhằm tăng cường an ninh tại Đồn Cảnh sát Hai mươi và phát thêm Kế hoạch số 10-67 về việc giải tỏa giao thông và những đoạn phố cần phong tỏa trong khu vực Upper West Side. Tất cả những đối tượng tình nghi đang bị giam giữ trong Đồn Cảnh sát Hai mươi đều phải được chuyển thẳng đến Trại Tạm giam Trung tâm hoặc Nhà giam Liên bang ở khu Hạ Manhattan. Không một ai được phép ra vào đồn mà không có sự cho phép đặc biệt của FBI hoặc của FAA – theo ý của Dellray.
Trong khi những thông tin này đang được phát đi, các đội 32-E của Bo Haumann triển khai vào vị trí xung quanh đồn cảnh sát.
Lúc này Haumann đang phụ trách chiến dịch mai phục. Fred Dellray lo việc huy động một đội giải cứu con tin liên bang trong trường hợp họ phát hiện ra danh tính của người phụ nữ nuôi mèo và căn hộ của cô ta. Rhyme, cùng với Sachs và Cooper, tiếp tục phân tích các bằng chứng được tìm thấy tại hiện trường.
Không có thêm đầu mối nào, nhưng Rhyme vẫn muốn Sahcs và Cooper kiểm tra lại những gì họ đã phát hiện được. Đây là phạm trù khoa học hình sự – bạn tìm kiếm, tìm kiếm và tìm kiếm, để rồi, khi không thể tìm kiếm thấy bất kỳ thứ gì, bạn lại tiếp tục tìm kiếm. Và ngay cả khi đâm sầm vào một bức tường gạch khác, bạn vẫn phải tiếp tục tìm kiếm.
Lúc này Rhyme đã đẩy chiếc xe lăn đến sát máy tính và đang ra lệnh cho nó phóng đại hình ảnh của thiết bị hẹn giờ được tìm thấy trong xác chiếc máy bay của Ed Carney. Bản thân chiếc đồng hồ có thể là chẳng giúp ích được gì, vì nó quá phổ biến, nhưng Rhyme vẫn băn khoăn biết đâu nó lại chẳng chứa một chút dấu vết nhỏ hoặc thậm chí là một dấu vân tay nào đó. Những thủ phạm đánh bom vẫn tin rằng dấu vân tay sẽ bị phá hủy khi quả bom phát nổ nên chúng không mấy bận tâm đến việc dùng găng tay khi chạm đến những bộ phận nhỏ li ti của thiềt bị nổ. Nhưng bản thân vụ nổ chưa chắc đã phá hủy các dấu vân tay. Lúc này Rhyme đang ra lệnh cho Cooper đặt chiếc đồng hồ vào khung SuperGlue để phun hóa chất phát hiện vân tay và sau khi phương pháp này không ăn thua, dùng Magna-Brush để quét qua bề mặt, một kỹ thuật làm nổi dấu vân tay bằng cách sử dụng bột từ tính mịn. Lần này anh cũng không phát hiện được gì.
Cuối cùng anh ra lệnh bắn phá mẫu vật này bằng nit-yag, một từ lóng để chỉ máy chiếu laser hồng ngoại, loại thiết bị hiện đại nhất dùng để phát hiện những dấu vân tay khó nhìn. Cooper đang quan sát hình ảnh này dưới ống kính hiển vi trong lúc Rhyme kiểm tra nó trên màn hình máy tính.
Rhyme bật ra một tiếng cười ngắn, nheo mắt lại, rồi lại chăm chú nhìn, phân vân không biết có phải anh đang bị thị giác của chính mình đánh lừa không.
“Có phải kia không?… Nhìn kìa. Góc dưới bên phải ấy!” Rhyme reo lên.
Nhưng cả Sachs và Cooper đều không nhìn thấy gì.
Hình ảnh phóng to trên màn hình máy tính của anh đã làm lộ ra điều gì đó mà ống kính quang học của Cooper không nhận thấy. Trên lớp vỏ kim loại bảo vệ chiếc đồng hồ hẹn giờ khỏi bị nổ tung thành từng mảnh vụn là một vệt lưỡi liềm mờ mờ gồm những đường lượn sóng đứt đoạn, những đường cắt ngang và rẽ nhánh. Chiều rộng của nó chưa đến 1/16 inch và có lẽ cũng chỉ dài khoảng nửa inch là cùng.
“Đúng là dấu vân tay rồi”, Rhyme nói.
“Không đủ để so sánh”, Cooper nói, mắt dán chặt vào màn hình máy tính của Rhyme.
Trong mỗi dấu vân tay của từng người có tất cả khoảng 150 đặc điểm đường lượn khác nhau nhưng một chuyên gia có thể xác định được dấu vân tay trùng khớp từ tám đến mười sáu đường lượn. Thật không may, mẫu dấu tay này thậm chí còn không có đến một nửa con số tối thiểu đó.
Dù sao Rhyme cũng vô cùng phấn khích. Nhà hình sự học tàn phế không đủ khả năng vặn nút điều khiển trên ống kính hiển vi điện tử lại phát hiện ra cái mà người khác không nhìn thấy. Một điều mà có lẽ anh bỏ sót nếu như anh còn là người “bình thường”.
Anh ra lệnh cho máy tính khởi động một chương trình phân tích hình ảnh, sau đó anh cho lưu dấu vân tay lại dưới dạng file đuôi .bmp, thay vì nén nó dưới dạng file đuôi .jpg, để tránh rủi ro làm biến dạng hình ảnh ban đầu. Anh in ra một bản dạng ảnh giấy bằng máy in laser của mình rồi bảo Thom dán lên lên bên cạnh tấm bảng bằng chứng hiện trường vụ nổ.
Điện thoại đổ chuông và với hệ thống mới của mình, Rhyme dễ dàng nhận cuộc gọi và bật loa ngoài lên.
Đó là cặp Sinh đôi.
Cũng còn được biết đến với danh xưng trìu mến là “Những Chàng trai Dũng cảm”, cặp thám tử trọng án hình sự này làm việc trong One Police Plaza. Họ là những chuyên gia thẩm vấn kiêm chuyên gia vận động – những cảnh sát có nhiệm vụ phỏng vấn người dân trong khu vực, nhân chứng, khách vãng lai sau mỗi vụ án – và hai anh em này, với những nét giống nhau như hai giọt nước, được coi là xuất sắc nhất trong lực lượng cảnh sát thành phố. Ngay chính Lincoln Rhyme, vốn rất hoài nghi đối với khả năng quan sát và trí nhớ của con người, cũng phải tôn trọng họ.
Bất chấp cái kiểu tranh nhau nói của họ.
“Ê, thám tử. Ê, Lincoln”, một người lên tiếng. Tên của hai anh em là Bedding và Saul. Khi ngặp trực tiếp cũng khó có thể phân biệt ai là ai. Qua điện thoại, Rhyme thậm chí còn không có ý định thử đoán xem ai đang nói.
“Các anh có gì rồi?”, anh hỏi. “Tìm được cô nàng nuôi mèo chưa?”.
“Vụ này dễ ợt ấy mà. Đã gọi cho bác sĩ thú y, hai cơ sở khám chữa bệnh cho thú cưng…”
“Kiểm tra cả những cơ sở này cũng lý thú thật. Và…”
“Chúng tôi còn rà soát qua ba công ty chuyên dẫn thú cưng đi dạo. Mặc dù…”
“Chẳng có ai lại dẫn mèo đi dạo, đúng không? Nhưng họ cũng cung cấp dịch vụ cho ăn, cho uống và lau dọn chất thải khi người chủ vắng nhà. Theo tôi thì cẩn thận như vậy cũng không hại gì.”
“Ba trong số các bác sĩ thú y có đưa ra một số cái tên phỏng đoán nhưng họ cũng không chắc lắm. Vì họ có rất nhiều khách hàng mà.”
“Trong khu Upper West Side này có không biết bao nhiêu là động vật nuôi. Kiểu gì chắc các anh cũng phải ngạc nhiên. Nhưng chắc là không.”
“Và thế là chúng tôi phải gọi cho tất cả các nhân viên đang nghỉ ở nhà. Các anh biết đấy, bác sĩ, trợ lý, người tắm rửa…”
“Đó cũng là một nghề đấy. Tắm cho thú cưng. Cuối cùng, có một cô lễ tân làm việc tại cơ sở của một bác sĩ thú y trên phố Tám mươi hai cho rằng đó rất có thể là vị khách hàng có tên Sheila Horowitz. Cô ta khoảng ngoài ba mươi tuổi, tóc ngắn tối màu, người phục phịch. Có ba con mèo. Một con màu đen, một con màu vàng. Màu của con thứ ba thì không ai nhớ cả. Cô ta sống trên phố Lexington, giữa phố Bảy mươi tám và Bảy mươi chín”.
Tức là cách nhà Percey bảy khối nhà.
Rhyme cảm ơn hai người và bảo họ giữ máy, rồi anh quay ra hét toáng lên, “Gọi cho các đội của Dellray tới đó ngay! Cả cô nữa, Sachs. Dù hắn còn ở đó hay không chúng ta cũng sẽ có một hiện truờng cần kiểm tra. Tôi nghĩ là chúng ta sắp tóm được hắn rồi. Mọi người có cảm thấy thế không? Chúng ta sắp tóm được hắn rồi!”.
Percey Clay đang kể cho Roland Bell nghe về chuyến bay một mình đầu tiên của cô.
Lần đó mọi việc không hoàn toàn diễn ra như những gì cô dự tính.
Cô cất cánh từ một đường băng nhỏ phủ cỏ nằm cách Richmond khoảng bốn dặm đường, tận hưởng cảm giác khừng khực quen thuộc khi bánh của chiếc Cessna nẩy tưng tưng trên mặt đất lồi lõm trước khi cô đạt đến vận tốc V1. Rồi cô kéo giật cần lái về phía sau và chiếc Cessna 150 nhỏ xíu bay thẳng lên trời. Một buổi chiều mùa xuân ẩm ướt, cũng giống như chiều hôm nay.
“Chắc phải phiêu lưu lắm”, Bell nhận xét, với vẻ mặt ngờ vực, tò mò.
“Còn hơn thế nhiều”, Percey nói, rồi tu một hớp rượu từ cái chai bẹt.
Hai mươi phút sau khi cất cánh động cơ đột ngột ngừng hoạt động ngay lúc đang bay trên khu Hoang dã ở phía đông Virginia, một cơn ác mộng với những bụi mâm xôi và rặng thông rậm rạp. Cô cho chiếc máy bay hạ cánh xuống một con đường mòn, tự mình làm sạch đường ống dẫn nhiên liệu rồi lại cất cánh lần nữa, quay về nhà, bình yên vô sự.