Vũ Điệu Của Thần Chết

PHẦN II: KHU VỰC TIÊU DIỆT – CHƯƠNG 10



Một con chim ưng, cho dù có được thuần hóa và trung thành đến đâu chăng nữa, vẫn là một con vật hoang dã trong những điều kiện và thói quen nhất định của một con vật chung sống với con người. Và trên tất thảy, nó là một con chim săn mồi.
CƠN THỊNH NỘ CỦA CHIM ƯNG, STEPHEN BODIO
Tôi ở đây rồi, Rhyme”, cô thông báo.
Sachs bước ra khỏi chiếc RRV và xỏ đôi găng cao su vào hai bàn tay rồi quấn những dải sao su quanh đôi giày của mình – để bảo đảm cho dấu chân của cô không lẫn với dấu chân của hung thủ, đúng như những gì Rhyme đã dạy cô.
“Nhưng màở đâylà ở đâu, Sachs?”, Rhyme hỏi.
“Tại giao điểm giữa hai đường dẫn máy bay. Giữa một dãy hangar. Đây là nơi mà có lẽ máy bay của Carney đã phải dừng lại.”
Sachs bồn chồn liếc nhìn về phía rặng cây phía xa xa. Đó là một ngày nhiều mây, ẩm ướt. Một cơn bão nữa đang đe dọa ập đến. Cô cảm thấy thật trống trải. Có thể lúc này tên Vũ công đang ở đây – có thể hắn quay lại để hủy những bằng chứng hắn bỏ lại, có thể là để giết một cảnh sát và gây khó khăn cho quá trình điều tra. Cũng giống như quả bom ở phố Wall cách đây vài năm, quả bom đã giết chết những kỹ thuật viên của Rhyme.
Hãy bắn trước…
Quỷ tha ma bắt anh đi, Rhyme, anh làm tôi thấy sợ rồi! Tại sao anh cứ làm như tên này có thể đi xuyên qua hết bức tường này đến bức tường khác và phun ra chất độc vậy?
Cô nhấc chiếc hộp đèn PoliLight và cái va li to đùng ở phía sau thùng xe xuống. Cô mở va li. Bên trong là cả trăm thứ dụng cụ của cái nghề này: tuốc nơ vít, cờ lê, búa, kìm cắt dây thép, dao, thiết bị thu thập mẫu vân tay, ninhydrin[50], kẹp nhíp, chổi cọ, panh, kéo, búa nhổ đinh, một bộ thu thập dư chất thuốc súng, bút chì, túi nhựa và túi giấy, dải băng khoanh vùng khu vực bằng chứng…
Bước một, thiết lập vành đai phong tỏa khu vực cần kiểm tra.
Cô chăng dải băng cảnh sát màu vàng quanh toàn bộ khu vực.
Bước hai, tính toán đến cánh báo chí và tầm hoạt động của ống kính máy ảnh cũng như mic ghi âm.
Không thấy cánh báo chí. Ít nhất cũng là chưa. Tạ ơn Chúa.
“Cái gì cơ, Sachs?”
“Tôi đang tạ ơn Chúa là chưa có tay phóng viên nào.”
“Một lời cầu nguyện khôn ngoan đấy. Nhưng hãy cho tôi biết cô đang làm gì.”
“Vẫn đang khoanh vùng hiện trường.”
“Hãy để mắt đến…”
“Lối vào và đường tẩu thoát”, cô nói.
Bước ba, xác định lối vào và đường tẩu thoát của hung thủ – chúng có thể trở thành những hiện trường thứ cấp.
Nhưng cô hoàn toàn không biết chúng có thể ở chỗ nào nữa. Hắn có thể tới đây từ bất kỳ đâu. Rình mò quanh những góc đường băng, hoặc lái một chiếc xe chuyên chở hành lý, hoặc xe téc chở xăng vào đây…
Sachs đeo kính và bắt đầu quét chiếc đèn PoliLight trên bề mặt đường băng. Không được hiệu quả như khi ở trong một căn phòng tối, nhưng với bầu trời ầm ì toàn mây xám xịt cô cũng có thể nhìn thấy những vết lốm đốm và dấu chạy ngang dọc sáng lên dưới ánh đèn màu xanh-vàng ma quái. Tuy nhiên, không thấy dấu chân nào.
“Cho phun sạch sẽ chỗ này từ đêm qua rồi”, giọng nói vang lên phía sau lưng cô.
Sachs giật mình quay ngoắt lại, bàn tay nắm chặt khẩu Glock, đã rút được một nửa ra khỏi bao.
Tôichưa bao giờcăng thẳng như thế này, Rhyme. Tất cả là lỗi của anh.
Mấy người đàn ông mặc áo bảo hộ liền quần đang đứng bên cạnh dải băng vàng. Cô cảnh giác bước lại gần họ và kiểm tra kỹ ảnh của họ trên thẻ tên. Tất cả đều ăn khớp với khuôn mặt của từng người. Bàn tay cô từ từ trượt khỏi báng súng.
“Tối nào người ta cũng dùng vòi phun rửa sạch sẽ đường băng. Nếu như cô đang tìm kiếm thứ gì đó. Cứ tưởng cô đang tìm gì.”
“Dùng vòi phun cao áp”, người thứ hai nói thêm.
Tuyệt thật. Tất cả mọi bằng chứng, mọi dấu chân, mọi mẫu sợi vải liên quan đến tên Vũ công đều đã biến mất.
“Đêm qua các anh có thấy ai ở đây không?”
“Chuyện này chắc có liên quan đến vụ đánh bom?”
“Khoảng bảy giờ mười lăm?”, cô vẫn kiên nhẫn.
“Không. Chẳng có ma nào mò ra đây cả. Những cái hangar này đều bỏ không. Có lẽ sớm muộn gì người ta cũng cho phá đi.”
“Các anh đang làm gì ở đây vậy?”
“Thì nhìn thấy cảnh sát. Cô là cảnh sát đúng không? Và chỉ nghĩ là chúng tôi phải lại xem thử thế nào. Chuyện này có liên quan đến vụ đánh bom phải không? Thủ phạm là ai vậy? Dân Ả Rập à? Hay mấy thằng cặn bã dân quân vũ trang?”
Cô xua họ đi chỗ khác. Rồi cô nói vào mic, “Rhyme, đêm qua họ cho rửa sạch đường băng rồi. Có vẻ là bằng vòi phun nước cao áp”.
“Ôi, không.”
“Họ…”
“Này, đằng ấy.”
Cô thở dài, quay người lại, cứ đinh ninh nhìn thấy hai tay công nhân lúc nãy. Nhưng vị khách mới lần này là một tay cảnh sát vũ trang vênh váo, đội cái mũ hướng đạo sinh kiểu chú gấu Smokey và diện chiếc quần xám là ly thẳng tắp đến đứt tay. Anh ta cúi người luồn qua dải băng.
“Xin thứ lỗi”, cô lên tiếng phản đối, “đây là khu vực cấm ra vào”.
Anh ta đi chậm lại chứ vẫn không chịu đứng yên. Cô kiểm tra thẻ của anh ta. Hoàn toàn khớp. Bức ảnh chụp anh ta đang hơi nhìn nghiêng đi một chút. Một người mẫu trang bìa trên tạp chí thời trang dành cho nam giới.
“Cô là sĩ quan cảnh sát từNew Yorkxuống phải không?”, anh ta cười toe toét. “Phải nói là đồng phục ở trên đó đẹp thật đấy”. Nhìn không chớp mắt vào chiếc quần jean bó sát của cô.
“Khu vực này đã được niêm phong.”
“Tôi có thể giúp đỡ mà. Tôi đã học qua một khóa về khoa học hình sự. Chủ yếu là tôi tuần tra trên đường cao tốc nhưng tôi cũng có kinh nghiệm điều tra trọng án. Tóc cô trôngbắt mắtthật. Đoán là cô đã nghe câu đó nhiều rồi.”
“Tôi thực sự buộc phải yêu cầu anh…”
“Jim Everts.”
Đừng có dại mà sa vào cái bẫy xưng tên riêng; nó dính như giấy bẫy ruồi cho mà xem. “Tôi là sĩ quan Sachs.”
“Vụ này đúng là to chuyện. Đánh bom cơ đấy. Bung bét.”
“Nhìn này, Jim, dải băng này nằm đây là để giữ người khácbên ngoàihiện trường. Còn bây giờ, cách tốt nhất anh có thể giúp tôi là bước lùi lại như cũ, được chứ?”
“Khoan đã. Cô định nói là cả sĩ quan cảnh sát khác cũng bị cấm sao?”
“Đúng, tôi muốn nói thế đấy.”
“Ý cô là cả tôi sao?”
“Chính xác.”
Có năm yếu tố cơ bản làm hỏng hiện trường vụ án: thời tiết, người thân của nạn nhân, nghi phạm, những kẻ thích sưu tập vật lưu niệm, và – tồi tệ nhất – những cảnh sát đồng nghiệp.
“Tôi sẽ không động vào bất kỳ thứ gì. Xin thề đấy. Chỉ là muốn ngắm cô làm việc thôi, bé yêu ạ.”
“Sachs”, Rhyme thì thầm, “bảo hắn biến khỏi hiện trường vụ án của cô ngay”.
“Jim, biến ra khỏi hiện trường vụ án của tôi ngay.”
“Nếu không cô sẽ báo cho cấp trên của hắn.”
“Nếu không tôi sẽ báo cho cấp trên của anh.”
“Ô kìa, cứ nhất định là phải như vậy sao?” Anh ta giơ cả hai tay lên ra dấu hiệu đầu hàng. Câu tán tỉnh cuối cùng tắc lại trong nụ cười nhăn nhở của anh ta.
“Tiếp tục đi, Sachs.”
Taycảnh sát bảnh trai lững thững bước đi đủ chậm rãi để cố vớt vát chút sĩ diện. Anh ta cũng ngoái lại một lần nhưng cái lườm sắc lẹm của cô khiến anh ta phải câm bặt.
Amelia Sachs bắt đầu bước theo khung chia ô.
Có nhiều cách để tiến hành khám nghiệm các hiện trường vụ án. Kiểm tra tổng quát – bước dọc hiện trường theo một đường ngoằn ngoèo – thường được áp dụng cho những hiện trường ngoài trời vì có thể bao quát môt diện tích lớn trong khoảng thời gian ngắn. Nhưng Rhyme không bao giờ chấp nhận cách này. Anh sử dụng cách kiểm tra theo mô hình khung tọa độ vuông – tức là rà soát toàn bộ diện tích hiện trường từ đầu này đến đầu kia theo một hướng, mỗi lần chỉ được bước từng bàn chân một, sau đó rẽ theo một hướng vuông góc và bắt đầu bước tiếp theo chiều đó. Hồi Rhyme còn phụ trách IRD, “bước tọa độ” cũng đồng nghĩa với việc khám nghiệm hiện trường gây án, và có trời mới cứu được bất kỳ nhân viên cảnh sát nào bị Rhyme bắt quả tang đi đường tắt hoặc lơ đễnh khi họ đang bước trên khung tọa độ đó.
Lần này Sachs mất cả nửa tiếng đồng hồ đi đi lại lại. Mặc dù chiếc xe phun nước có thể đã xóa sạch các dấu vân tay và những bằng chứng dấu vết, nhưng nó cũng không thể nào phá hủy được những bằng chứng lớn hơn mà biết đâu tên Vũ công đã làm rơi, vả lại nó cũng xóa mất những dấu chân hoặc dấu cơ thể nằm ép xuống còn in trên bãi lầy bên cạnh đường băng.
Nhưng cô không tìm thấy gì.
“Chết tiệt thật, Rhyme, chẳng có gì cả.”
“Kìa, Sachs, tôi cá là thế nào cũng có. Tôi dám cá là có rất nhiều ấy chứ. Chỉ cần chịu khó nỗ lực hơn một chút so với hầu hết các hiện trường khác. Tên Vũ công không giống những hung thủ khác, hãy nhớ thế.”
Ôi trời, lại làchuyện đó.
“Sachs”. Giọng anh bỗng trầm xuống dỗ dành. Cô bỗng thấy rùng mình. “Hãy nhập vào hắn”, Rhyme thì thầm. “Cô hiểu ý tôi mà.”
Cô hiểu chính xác ý anh là gì. Căm ghét ý nghĩ đó. Nhưng, ôi trời, đúng vậy, Sachs biết. Những nhà hình sự học cừ khôi nhất phải có khả năng tìm thấy một chỗ nào đó trong tâm trí mình, nơi mà ranh giới giữa kẻ đi săn và con mồi dường như không còn tồn tại. Họ bước qua những hiện trường vụ án không phải với cương vị cảnh sát đang đi tìm đầu mối mà là chính bản thân hung thủ, cảm nhận được những dục vọng, khát khao và nỗi sợ hãi của hắn. Rhyme sở hữu khả năng bẩm sinh đó. Và mặc dù Sachs cố gắng phủ nhận thì thực tế là cô cũng có. (Mới tháng trước cô đã khám nghiệm một hiện trường – một người cha đã sát hại vợ và con của mình – và tìm được hung khí gây án sau khi tất cả những người khác đã bó tay. Sau khi vụ án kết thúc, cả tuần liền cô không thể nào làm việc được và liên tục bị hành hạ bởi cảm giác kinh hoàng rằng chính cô là kẻ đã đâm chết các nạn nhân. Chứng kiến khuôn mặt họ, nghe rõ mồn một tiếng gào thét của họ.)
Một thoáng im lặng. “Hãy nói với tôi đi”, anh nói. Và cuối cùng sự gay gắt trong giọng nói của anh biến mất. “Cô chính là hắn. Cô đang bước qua những chỗ hắn đã từng bước qua, cô đang nghĩ hệt như cách hắn đang nghĩ…”
Tất nhiên trước đây anh vẫn nói những lời như vậy với cô. Nhưng lần này – cũng như tất cả những gì liên quan đến tên Vũ công – Sachs có cảm giác Rhyme còn ấp ủ nhiều điều trong đầu chứ không đơn giản chỉ là tìm kiếm những bằng chứng mơ hồ. Không, cô linh cảm thấy anh đang khát khao muốn biết tất cả những gì có thể ở tên giết người này. Hắn là ai, điều gì khiến hắn ra tay như vậy.
Lại một cái rùng mình. Một hình ảnh hiện lên trong suy nghĩ của cô: Quay lại cái đêm hôm đó. Những ánh đèn pha trên sân bay, âm thanh của những động cơ máy bay, mùi xăng cháy phụt ra từ động cơ phản lực.
“Cố lên, Amelia… Cô chính là hắn. Cô là Vũ công Quan tài. Cô biết Ed Carney đang ở trên máy bay, cô biết cô phải gài quả bom lên máy bay. Hãy tập trung một, hai phút nghĩ về điều đó.”
Và cô làm theo, khơi dậy từ đâu đó trong tiềm thức một khát khao được giết.
Anh vẫn tiếp tục, với một giọng nói nghe thật du dương, kỳ ảo. “Cô rất quỷ quyệt”, anh nói. “Cô hoàn toàn không có những rào cản về đạo đức. Cô sẽ giếtbất kỳ ai.Cô sẽ làmbất kỳ điều gìđể đạt được mục đích của mình. Cô đánh lạc hướng, cô lợi dụng người khác… Vũ khí đáng sợ nhất của cô là đánh lạc hướng.”
Tôi nằm chờ đợi.
Vũ khí đáng sợ nhất của tôi…
Cô nhắm nghiền mắt lại.
…là đánh lạc hướng.
Sachs cảm thấy một niềm hy vọng đen tối, một sự cảnh giác, một khát khao săn mồi.
“Tôi…”
Anh khẽ khàng tiếp lời. “Có chỗ nào để đánh lạc hướng không, bất kỳ nơi ẩn nấp nào?”
Lúc này cô mở choàng mắt. “Toàn bộ khu vực này trống trải. Không có gì để đánh lạc hướng các phi công cả.”
“Cô đang trốn ở đâu vậy?”
“Tất cả các hangar đều bị đóng kín. Cỏ mọc xung quanh lại quá thấp nên không thể trốn ở đó được. Không có xe tải hay thùng phuy dầu nào cả. Không ngóc ngách. Không góc khuất.”
Trong thâm tâm cô là sự tuyệt vọng. Mình phải làm gì bây giờ? Mình phải gài quả bom. Mình không còn nhiều thời gian nữa. Đèn pha… đèn pha sáng rực khắp mọi nơi. Cái gì? Mình phải làm gì bây giờ?
Cô nói: “Tôi không thể trốn ở bất kỳ đâu bên ngoài những hangar này. Có rất nhiều công nhân. Địa hình quá trống trải. Chắc chắn họ sẽ nhìn thấy tôi”.
Trong giây lát, Sachs lại chìm đắm vào dòng suy tưởng của mình và cô tự hỏi, như cô vẫn thường làm, tại sao Lincoln Rhyme lại có được quyền năng nhập hồn cô vào người khác. Thỉnh thoảng điều đó khiến cô tức giận. Thỉnh thoảng nó lại làm cô phấn khích.
Đổ phịch người xuống như một kẻ đang cần náu mình, bất chấp cơn đau ở hai đầu gối do chứng viêm khớp đã hành hạ Sachs dở sống dở chết suốt mười năm qua, trong cuộc đời ba mươi hai năm của cô. “Ở đây quá trống trải. Tôi cảm thấy bị phơi ra trần trụi.”
“Lúc này cô đang nghĩ gì?”
“Có rất nhiều người đang săn lùng tôi. Tôi không thể để họ tìm thấy tôi. Tôi không thể!”
Như thế này thật nguy hiểm. Phải lẩn trốn. Phải thấp người xuống.
Không có chỗ nào để trốn.
Nếu mình bị nhìn thấy, tất cả sẽ tan thành mây khói. Họ sẽ phát hiện ra quả bom, họ sẽ biết mình đang bám theo ba nhân chứng kia. Họ sẽ đưa các nhân nhân chứng vào chương trình bảo vệ đặc biệt. Mình sẽ không bao giờ hạ được chúng. Mình không thể để điều đó xảy ra.
Cảm nhận được nỗi hoảng sợ của hắn, cô quay lại đối diện với nơi duy nhất có thể lẩn trốn được. Chiếc hangar ngay bên cạnh đường băng. Trên bức tường trước mặt cô lúc này là một khung cửa sổ duy nhất bị vỡ, kích thước khoảng 3×4 feet. Trước đó cô đã bỏ qua nó vì khung cửa sổ được che kín bằng một tấm gỗ dán mục nát, được đóng đinh chặt với khung cửa từ phía bên trong.
Cô chậm rãi lại gần. Nền đất phía trước được trải sỏi; hoàn toàn không có dấu chân.
“Có một cửa sổ được đóng kín, Rhyme. Chắn bằng gỗ dán từ phía trong. Cửa kính bị đập vỡ.”
“Nó có bẩn không, mảng kính còn lại trên cửa số ấy?”
“Bẩn lắm.”
“Còn mép kính?”
“”Không, rất sạch sẽ.” Cô chợt hiểu tại sao anh lại hỏi câu hỏi đó. “Tấm kính mới bị đập vỡ!”
“Chính xác. Đẩy tấm gỗ đi. Đẩy mạnh vào.”
Nó đổ ập vào bên trong một cách dễ dàng và đập xuống nền nghe đánh rầm một tiếng rất to.
“Tiếng gì vậy?”, Rhyme quát lên. “Sachs, cô không sao đấy chứ?”
“Chỉ là tấm gỗ rơi xuống thôi”, cô trả lời, lại bắt đầu cảm thấy ớn lạnh vì sự bứt rứt và căng thẳng của anh.
Cô rọi chiếc đèn pin halogen của mình vào trong hangar. Nó bị bỏ không.
“Cô thấy những gì, Sachs?”
“Trống trơn. Vài cái hộp bụi bặm. Trên sàn nhà có sỏi…”
“Đúng là hắn rồi!”, Rhyme trả lời. “Hắn phá cửa sổ và ném sỏi vào trong, để hắn có thể đứng trên sàn nhà mà không để lại dấu chân. Đó là một thủ đoạn xưa như Trái Đất. Có dấu chân nào ở phía trước cửa sổ không? Thế nào chả đầy sỏi”, anh chua chát nói thêm.
“Đoán đúng rồi đấy.”
“Được rồi. Kiểm tra cửa sổ. Rồi trèo vào bên trong. Nhưng nhớ đề phòng xem có cái bẫy mìn nào không. Hãy nhớ chuyện thùng rác cách đây vài năm.”
Thôi đi, Rhyme. Thôi ngay đi.
Sachs lại lia đèn pin vào bên trong chiếc hangar một lần nữa. “Sạch sẽ, Rhyme. Không có bẫy gì cả. Tôi đang kiểm tra khung cửa sổ.”
Thiết bị PoliLight không hiển thị được gì ngoài một dấu mờ mờ của ngón tay đi găng vải để lại. “Không có sợi, chỉ có hoa văn của vải bông thôi.”
“Có gì trong hangar không? Bất kỳ thứ gì đáng đánh cắp?”
“Không. Hầu như trống trơn.”
“Tốt lắm”, Rhyme nói.
“Sao lại tốt?”, cô hỏi. “Tôi đã bảo là chẳng có dấu vân tay nào cả.”
“À, nhưng có nghĩa đó đúng là hắn rồi. Sẽ không logic nếu có ai đó khác phá cửa vào đây mà lại còn mang găng tay vải trong khi chẳng có gì đáng để ăn cắp cả.”
Cô thận rọng kiểm tra. Không dấu vân tay, không dấu chân, không có bất kỳ bằng chứng nào. 

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.