“Cô tìm được những gì rồi?”, Lincoln Rhyme hỏi.
Sachs vừa về đến nhà Rhyme. Cô và Mel Cooper đang bắt đầu xem xét những bằng chứng thu thập được tại hiện trường. Sachs và đội SWAT đã lần theo những dấu chân vào trong một đường hầm dẫn hệ thống cáp điện ngầm của hãng Con Ed, đến đây thì họ mất dấu tên Vũ công và đồng bọn của hắn. Trông có vẻ như cả hai tên đã trèo lên mặt phố và tẩu thoát qua một miệng lỗ cống.
Sachs đưa cho Cooper dấu vân tay mà cô tìm thấy ở ngay lối vào đường hầm. Người kỹ thuật viên cho quét mẫu vân tay vào máy tính và gửi nó tới cơ sở dữ liệu của liên bang để đối chiếu qua hệ thống AFIS.
Rồi cô giơ cao hai bản in tĩnh điện lên cho Rhyme kiểm tra. “Đây là những dấu chân trong đường cống. Đây là dấu chân của tên Vũ công.” Cô cầm một tấm phim lên – trong suốt, như một bức chụp X-quang. “Nó ăn khớp với dấu chân trong văn phòng người bác sĩ tâm thần trên tầng một mà hắn đã đột nhập.”
“Hắn đi đôi giày loại của các công nhân nhà máy cỡ trung bình”, Rhyme nói.
“Chẳng lẽ anh hy vọng hắn lại đi ủng lính nữa sao”, Sellitto làu bàu.
“Không, nếu thế thì lại lộ liễu quá. Giày công nhân có đế cao su để tăng ma sát và có cả mũi bọc thép ở đầu ngón chân. Chúng cũng tốt chẳng kém gì ủng lính trong trường hợp người dùng không cần đỡ thêm cho mắt cá. Giữ tấm kia lại gần đây, Sachs.”
Dấu giày nhỏ hơn mòn vẹt hẳn đi ở gót và lòng dưới bàn chân. Có một vết thủng khá to ở chiếc giày bên phải và thậm chí qua cái lỗ này còn thấy nguyên cả một mảng da với những nếp nhăn chạy chằng chịt.
“Không đi tất. Có lẽ bạn hắn là người vô gia cư.”
“Tại sao hắn phải cần có người đi cùng làm gì?” Cooper hỏi.
“Không biết”, Sellitto nói. “Nghe nói hắn toàn hành sự đơn độc. Hắn sử dụng người khác nhưng hắn không bao giờ tin họ.”
Người ta cũng buộc tội mình hệt như vậy, Rhyme tự nhủ. Anh nói, “Và để lại dấu vân tay ở hiện trường ư? Tên này không phải dân chuyên nghiệp. Chắc chắn hắn phải có điều gì đó mà tên Vũ công cần đến.”
“Con đường thoát ra khỏi tòa nhà, như thế chẳng hạn”, Sachs phỏng đoán.
“Cũng có thể là một khả năng.”
“Và có lẽ lúc này anh ta cũng chết rồi”, Sachs nói thêm.
Có lẽ, Rhyme thầm đồng ý.
“Những dấu giày”, Cooper nói. “Trông chúng khá nhỏ. Theo tôi thì chỉ khoảng cỡ tám của nam giới.”
Kích thước của gót chân chưa chắc đã tỷ lệ thuận với cỡ giày vả lại càng không nói lên điều gì về vóc dáng của người đi đôi giày đó, nhưng dù sao cũng có thể phỏng đoán rằng đồng bọn của tên Vũ công không lấy gì làm cao lớn cho lắm.
Quay sang với những bằng chứng vi lượng, Cooper cho các mẫu vật lên một tấm kính và đặt nó dưới ống kính hiển vi điện tử. Anh chuyển hình ảnh từ kính hiển vi qua màn hình máy tính của Rhyme.
“Chế độ chỉ huy, kéo con trỏ sang trái”, Rhyme ra lệnh vào mic của mình. “Dừng lại. Nháy đúp chuột.” Anh căng mắt nhìn trên màn hình máy tính. “Thêm những mẩu vữa vụn từ khối tường bê tông. Bụi bẩn và đất… Cô lấy những cái này ở đâu vậy, Sachs?”
“Tôi cạo nó ra từ xung quanh những khối gạch bê tông và hút bụi trên sàn đường cống ngầm. Tôi cũng tìm thấy một cái tổ đằng sau mấy cái hộp carton mà có vẻ như đã có người ẩn nấp ở đó một thời gian.”
“Tốt lắm. Được rồi, Mel cho phân tích bằng sắc ký khí. Có rất nhiều chất ở đây mà tôi không nhận ra.”
Máy phổ kế khối lượng rùng rùng khởi động, phân tích thành phần các hợp chất rồi gửi kết quả là những quầng khí sang máy sắc ký khí để xác định thành phần hóa học. Cooper chăm chú theo dõi màn hình.
Anh thở phù một hơi dài với vẻ ngỡ ngàng. “Kể cũng thật ngạc nhiên là bạn của hắn vẫn còn bước được.”
“Nói cụ thể một chút đi, Mel.”
“Hắn là cả một hiệu thuốc,Lincoln. Ở đây chúng ta có secobarbital, phenobarbital, dexedrine, amobarbital, meprobamate, chlordiazepoxide, diazepam.”
“Lạy Chúa”, Sellitto thốt lên. “Hồng phiến, ma túy tổng hợp, thuốc lắc…”
Cooper nói tiếp, “Cả hai loại đường lactose và sucrose nữa. Calcium, vitamin, các loại enzyme thường thấy ở sản phẩm sữa”.
“Sữa bột cho trẻ em”, Rhyme thốt lên. “Dân buôn dùng nó để trộn lẫn với ma túy.”
“Có nghĩa là đồng bọn của Vũ công là một thằng nghiện. Sao lại thế nhỉ?”
Sachs nói, “Ở đó có không biết bao nhiêu văn phòng của các bác sĩ… Chắc chắn tên này đã mò vào để ăn cắp thuốc.”
“Truy cập vào chương trình FINEST ngay”, Rhyme ra lệnh. “Lập danh sách tất cả những tên nghiện và buôn thuốc mà họ có.”
Sellitto bật cười, “Như thế có mà bằng cả một tập dày như quyển Danh bạ điện thoại,Lincoln”.
“Có ai bảo đây là việc dễ dàng đâu, Lon.”
Nhưng trước khi viên cảnh sát kịp gọi điện thì Cooper nhận được một email. “Đừng mất công làm gì.”
“Sao thế?”
“Muốn nghe kết quả báo cáo AFIS về dấu vân tay không?” Người kỹ thuật viên gõ gõ lên màn hình. “Cho dù tên này có là ai chăng nữa, hắn cũng không hề có trong hồ sơ lưu ở thành phốNew Yorkhay của bang và tại NCIC[84]”
“Chết tiệt!”, Rhyme lầm bầm chửi. Anh cảm thấy như bị nguyền rủa. Chẳng lẽ mọi việc không thể dễ dàng hơn chút nào hay sao? Anh càu nhàu, “Còn dấu vết nào nữa không?”.
“Còn một chút đây”, Cooper nói. “Một mẩu gạch men màu xanh, phía sau có trát vữa, hình như là để gắn vào bề mặt tường bê tông.”
“Hãy kiểm tra thử xem.”
Cooper đặt mẫu vật vào vị trí quan sát của ống kính hiển vi.
Cổ anh giật giật, gần như rơi hẳn vào một cơn co thắt ngoài tầm kiểm soát, nhưng Rhyme vẫn cố chúi về phía trước và chăm chú nhìn lên màn hình. “Được rồi, gạch men ốp trên tấm khảm lâu năm. Bằng gốm, men rạn, lớp men có gốc chì. Theo tôi thì tuổi đời của nó ít nhất cũng phải sáu hay bảy chục năm gì đó.” Nhưng anh không thể đưa ra suy đoán liều lĩnh nào từ mẫu vật này. “Còn gì nữa không”, anh cáu kỉnh.
“Mấy sợi lông.” Cooper đặt chúng lên tấm kính để quan sát. Anh cúi đầu xuống ghé mắt vào ống kính.
Rhyme cũng kiểm tra những sợi lông mảnh hiện ra trên màn hình máy tính.
“Lông động vật”, anh nhận định.
“Lại là lông mèo à?” Sachs hỏi.
“Để xem nào”, Cooper nói, đầu vẫn cúi gằm xuống.
Nhưng mấy sợi lông này không phải lông động vật họ mèo. Mà là lông của loài thú gặm nhấm. “Chuột”, Rhyme kết luận. “Rattus norvegicus. Loài chuột cống thường thấy.”
“Tiếp tục đi. Có gì trong cái túi kia vậy, Sachs?” Rhyme hỏi không khác gì một cậu bé đang đói bụng lùng sục tìm kẹo sôcôla trên giá bày hàng của một cửa hàng bánh kẹo. “Không, không. Kia cơ. Đúng rồi, cái đó.”
Bên trong túi đựng bằng chứng là một tờ khăn giấy hình vuông với vết bẩn lem nhem màu nâu nhạt.
“Tôi tìm thấy bó trên tảng bê tông, đúng tảng mà hắn đã di chuyển. Tôi nghĩ có thể nó đã dính trên tay hắn. Không có dấu vân tay nhưng những vết này có thể đã do một bàn tay tạo ra.”
“Tại sao cô lại nghĩ vậy?”
“Vì tôi đã xoa tay bàn tay mình lên một ít đất rồi ấn vào một tảng gạch bê tông khác. Dấu vết để lại cũng giống hệt luôn.”
Đó mới đúng là Amelia của mình, anh thầm nghĩ. Trong thoáng chốc, tâm trí anh chợt quay lại với đêm hôm trước – hai người nằm bên nhau. Anh cố xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu.
“Cái gì vậy, Mel?”
“Hình như là mỡ. Dính đầy cả bụi, đất bẩn, những mẩu gỗ vụn và những vật chất hữu cơ. Thịt động vật, tôi nghĩ vậy. Tất cả đều rất lâu rồi. Hãy nhìn kỹ phía góc bên trên kìa.”
Rhyme chăm chú nhìn những đốm màu bạc trên màn hình máy tính của mình. “Kim loại. Được giũa hoặc mài ra từ cái gì đó. Cho phân tích sắc ký khí đi. Cứ kiểm tra cho thật chắc chắn.”
Cooper làm theo.
“Chất hóa dầu”, anh trả lời. “Được lọc qua loa, không có phụ gia… Đó là mạt sắt cùng với những vi lượng manganese, silicon và carbon.”
“Chờ chút”, Rhyme nói to. “Còn nguyên tố nào khác không – chromium, cobalt, đồng, nickel, tungsten?”
“Không.”
Rhyme đăm đăm nhìn lên trần nhà. “Kim loại à? Đó là thép cũ, được luyện từ gang ở một lò luyệnBessemer. Nếu là thép mới thì kiểu gì trong đó cũng phải có những nguyên tố như tôi vừa nói.”
“Còn cả cái này nữa đây. Nhựa than đá.”
“Creosote!” Rhyme reo lên. “Tôi hiểu rồi. Sai lầm nghiêm trọng đầu tiên của tên Vũ công. Đồng bọn của hắn là một tấm bản đồ di động.”
“Dẫn tới đâu?” Sachs hỏi.
“Tới tàu điện ngầm. Vết mỡ đó đã lâu năm, vụn thép cũng từ những thanh tà vẹt và đinh đóng đường ray cũ, chất creosote là từ những thanh tà vẹt. À, còn những mẩu gạch men là từ một tấm tranh khảm. Rất nhiều những nhà ga tàu điện ngầm cũ được ốp gạch men – trong đó có những bức tranh miêu tả khung cảnh gì đó liên quan đến từng khu vực.”
Sachs nói, “Đúng rồi – như ở gaAstor Placevẫn còn những bức khảm hình các loại động vật mà Jonh Jacob Astor đã từng mua bán”.
“Gạch gốm tráng men ốp tường. Vậy ra đó chính là lý do tên Vũ công cần đến gã này. Một nơi để lẩn trốn. Đồng bọn của tên Vũ công có thể là một gã vô gia cư nghiện ma túy sống ở đoạn đường tránh tàu, hay hầm ngầm, hoặc thậm chí là nhà ga cũ bỏ không ở đâu đó.”
Rhyme chợt nhận ra mọi người trong phòng đều đang quay ra nhìn bóng một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa. Anh cũng im bặt.
“Dellray?” Sellitto lúng túng lên tiếng.
Khuôn mặt tối sầm, u ám của Fred Dellray đang trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Có chuyện gì thế?” Rhyme hỏi.
“Chuyện về Innelman. Họ đã khâu cho cậu ấy. Tất cả là hơn ba trăm mũi. Nhưng cũng đã quá muộn. Mất quá nhiều máu. Cậu ấy vừa mới qua đời.”
“Tối rất tiếc”, Sachs nói.
Viên đặc vụ giơ hai cánh tay lên đầu chán nản, những ngón tay dài lòng khòng trông như những cái que nhọn hoắt.
Mọi người trong phòng đều biết về người cộng sự lâu năm của Dellray – người bị giết trong vụ đánh bom Tòa nhà Liên bang ở thành phốOklahoma. Và Rhyme còn nghĩ đến Tony Panelli – bị bắt cóc ngay giữa trung tâm thành phố cách đây vài ngày. Có lẽ lúc này anh ta cũng đã chết, đầu mối duy nhất liên quan đến số phận tay đặc vụ xấu số là những hạt cát bí ẩn.
Và giờ đây lại một người bạn khác của Dellray đã ra đi.
Viên đặc vụ lồng lên đi đi lại lại trong phòng một cách đầy đe dọa.
“Mọi người có biết tại sao cậu ấy bị rạch khủng khiếp đến thế không – Innelman ấy?”
Tất cả đều biết; nhưng không ai trả lời.
“Một cách đánh lạc hướng. Đó là lý do duy nhất trên đời này. Để ngăn chúng ta bám theo hắn. Mọi người có tin được không? Một thủ đoạn đánh lạc hướng khốn kiếp.” Đột nhiên anh đứng sững lại. Anh chằm chằm nhìn Rhyme với đôi mắt đen ngòm đáng sợ của mình. “Tóm lại là anh đã có đầu mối nào chưa,Lincoln?”
“Không nhiều lắm.” Rhyme bắt đầu giải thích về người bạn vô gia cư của tên Vũ công, về các loại ma túy, cái xó xỉnh mà hắn đang náu mình trong đường tàu điện ngầm. Ở đâu đó.
“Thế thôi sao?”
“Tôi e là thế. Nhưng chúng ta vẫn còn một số bằng chứng cần xem xét tiếp.”
“Bằng chứng”, Dellray khẽ lầm bầm với vẻ khinh bỉ. Anh rảo bước ra cửa, rồi dừng lại. “Một thủ đoạn đánh lạc hướng. Đó đếch phải là lý do chó chết khiến một người tốt phải chết. Đếch phải là lý do gì hết.”
“Fred, khoan đã… chúng tôi cần anh.”
Nhưng viên đặc vụ không nghe thấy, hoặc có nghe thấy thì anh cũng phớt lờ lời gọi của Rhyme. Anh hầm hầm lao ra khỏi phòng.
Một lát sau cánh cửa dưới nhà đóng sập lại với một tiếng cạch lạnh lùng.
Chú thích
[82]Richard III (1452-1485): Vua nước Anh, vị vua cuối cùng của nhàYork, thường được miêu tả là một vị vua có hình dung quái dị, lưng gù.
[83]Jackson Pollock (1912-1954): Họa sĩ nổi tiếng người Mỹ, theo trường phái trừu tượng.
[84]NCIC (viết tắt củaNationalCrimeInformationCenter): Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia.