Vụ Giết Người Bí Ẩn

Chương 4 – Phần 1



Do phóng như bay, tôi về tới Paradise City chỉ ít phút trước sáu giờ chiều. Rất may là Chick vẫn còn đang dọn dẹp bàn làm việc.

– Mẹ kiếp! – Anh ta thốt lên khi thấy tôi bước vào phòng làm việc. – Nghe đây Dirk, mình có hẹn với một cô bé, không thể tới chậm được.

– Cậu đúng là chả biết cóc khô gì. Cậu càng bắt họ đợi lâu, họ càng kích thích. Cậu có tin gì cho mình không?

– Cậu xem mình là ai vậy? Một thầy phù thủy chắc? Dù sao mình cũng có cái gì đó cho cậu đây. Nhưng không giúp ích lắm đâu. (Anh ta sốt ruột xem đồng hồ, rồi mở ngăn kéo bàn). Này, cầm lấy. Đây là một tờ báo cáo về Syd Watkins. Cho tới tận bây giờ mình vẫn chưa tìm được đầu mối gì về đám cưới của Mitch Jackson và sự ra đời của thằng bé. Theo sổ đăng ký của quân đội thì hắn độc thân, nhưng quân đội cũng có thể nhầm chứ.

– Thế Johnny Jackson không có đăng ký khai sinh à?

– Mình không biết gì hết. (Anh ta chìa cho tôi một bản báo cáo đánh máy). Cậu cầm lấy đi. Mình chuồn đây.

– Gượm đã nào, Chick. Cậu đã từng là quân cảnh trong trung đoàn của Parnell. Đơn vị của cậu có bao nhiêu phần trăm người nghiện ma túy?

– Lạy Chúa! Cái đầu của cậu đang suy nghĩ gì vậy? Cậu đang được giao nhiệm vụ tìm thằng cháu nội Jackson cơ mà.

– Đừng mất thời gian nữa, Chick. Có bao nhiêu phần trăm người nghiện ma túy trong trung đoàn của Parnell?

– Đó là câu chuyện cũ rích rồi, nhưng thật đáng lo ngại. Ở đó tất cả các trung đoàn đều vấp phải vấn đề này. Nhưng không liên quan đến mình. Có cả một êkíp của phòng chống ma túy lo chuyện đó. Họ là những người chuyên nghiệp mà.

– Thế họ không gửi báo cáo về trung đoàn của cậu à?

– Mình nghĩ là có, nhưng nó được thông báo trực tiếp cho đại tá.

– Trưởng kíp chống ma túy là người như thế nào?

– Đó là đại tá Jefferson Haverford. Ông ấy là bạn lớn của đại tá Parnell.

– Hiện ông ta sống ở đâu?

Chick nhíu mày nhìn tôi.

– Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra trong óc cậu vậy? Đại tá không muốn người ta đào bới chuyện đó đâu. Ông vốn rất kiêu hãnh về trung đoàn của mình và ông hoàn toàn có cơ sở để làm vậy.

– Mình có thể gặp đại tá Haverford ở đâu?

– Ông ấy hiện sống ở đây, cậu có thể tìm theo danh bạ điện thoại. Nhưng phải thận trọng, Dirk ạ. Đại tá sẽ không hài lòng việc cậu đào bới lại chuyện cũ đâu. Mình phải đi đây, kẻo không cô bồ của mình sẽ bóp nát của gia bảo mình mất.

Đoạn, anh ta vụt chạy ra cửa. Tôi châm thuốc, rót một ly vừa nhâm nhi vừa đọc bản báo cáo ngắn về cuộc sống quân ngũ của Syd Watkins.

Bản báo cáo cho biết Syd Watkins nhập ngũ và được biên chế vào một đơn vị cung cấp bom cho máy bay. Anh ta làm việc trong suốt bốn năm tại một căn cứ không quân ở Việt Nam. Sau khi giải ngũ anh ta về Mỹ cùng với các đồng đội khác. Địa chỉ cuối cùng của anh ta mà quân đội nắm được là một ngôi nhà ở phía đông New York. Sau đó anh ta mất tăm. Báo cáo dừng lại ở đó.

Điều duy nhất khiến tôi quan tâm là Watkins và Mitch ở Việt Nam cùng một thời gian.

Tôi đặt bản báo cáo vào cặp hồ sơ, rồi tìm điện thoại của đại tá Haverford. Đại tá sống trong một căn hộ thuộc tòa nhà ở phố Đại Dương, một khu phố sang trọng ở Paradise City.

Đích thân ông trả lời tôi qua điện thoại.

– Tôi Haverford đây, – ông nói bằng một giọng nghiêm nghị.

– Thưa đại tá, tôi là Dirk Wallace, nhân viên của đại tá Parnell, – tôi tự giới thiệu.

– À, thế hả. Anh là nhân viên mới, phải không? Đại tá Parnell có nói với tôi về anh. Có chuyện gì vậy, Dirk?

– Cháu đang phải đối phó một vấn đề. Bác dành cho cháu ít phút, được không?

– Sao, một vấn đề à?

– Đây là một vụ mà cháu đang điều tra. Cháu có cảm giác là vụ này có liên quan đến việc buôn bán ma túy trong quân đội. Cháu nghĩ bác có thể giúp cháu lần ra manh mối.

– Thôi được, mười phút nữa cháu hãy đến đây. Tôi được mời ăn tối lúc tám giờ.

Nói đoạn, ông gác máy.

Phố Đại Dương chỉ cách văn phòng tôi chừng ba phút lái xe hơi. Bảy phút sau tôi ấn chuông cửa nhà đại tá Haverford.

Người hầu – một bà da đen – dẫn tôi qua một phòng khách lớn tiện nghi sau khi đi qua một hàng hiên nhìn ra đại lộ có hàng cọ ngăn cách với một bãi cát tuyệt đẹp. Haverford đang ngồi trên một chiếc ghế dài. Nhìn thấy tôi, ông đứng dậy. Hồng hào, hơi nhỏ con và béo tròn, Haverford có gương mặt nhà binh, hàng ria bạc trắng được tỉa cầu kỳ và bộ tóc cắt ngắn.

– Wallace hả? – Ông hỏi và chìa tay cho tôi bắt.

– Vâng, – tôi nói.

– Tốt lắm, ngồi xuống đi. Một ly uytski chứ?

– Vâng, cám ơn bác.

Ông đi lấy hai ly ở quầy rượu, đưa đến cho tôi một ly rồi ngồi xuống.

– Nào, có vấn đề gì?

– Cháu nghe nói ở Việt Nam bác chuyên lo về vấn đề ma túy, – tôi nói.

– Đúng vậy.

– Người ta yêu cầu hãng cháu tìm đứa con trai của Mitch Jackson. Trong quá trình điều tra, cháu biết Mitch có bán ma túy.

Rồi ông nhún vai.

– Tôi cũng đã nghĩ rằng, rồi một ngày nào đó chuyện này cũng sẽ tới. Anh nói chuyện với ông chủ của anh chưa?

– Chưa. Đại tá đang ở Washington, cháu chưa thể gặp được. Chính vì thế cháu mới tìm bác. Liệu người ta đã có bằng chứng về Jackson bán ma túy chưa ạ?

– Hãy nghe kỹ đây, anh bạn trẻ. Mọi người hiện đều xem Mitch là một anh hùng. Chúng ta không nên làm vấy bẩn danh tiếng của một người đã hy sinh mình để cứu sống mười bảy mạng người.

– Như vậy đúng là anh ta đã bán ma túy?

Đại tá lưỡng lự một lát, rồi gật đầu.

– Đúng. Chúng tôi sắp bắt anh ta như nhiều kẻ bán ma túy khác. Người trợ lý của tôi đã thu thập đủ bằng chứng về Jackson và đã có lệnh bắt. Đúng lúc đó thì xảy ra chuyện anh ta lao vào rừng cứu người và đã hy sinh một cách bi thảm. Tôi rất căm ghét những kẻ bán ma túy. Nhưng Jackson lại là một chiến sĩ dũng cảm. Anh thử nghĩ xem dư luận sẽ thất vọng ghê gớm tới mức nào nếu chúng ta để lộ ra rằng trước khi chết như một người anh hùng, anh ta là một gã nhơ nhuốc, đại tá Parnell không hề biết chuyện này. Chúng tôi đã lờ chuyện này đi. Đấy, chuyện là như vậy, anh bạn trẻ ạ. Tôi khuyên anh cũng nên làm vậy.

– Đây có thể là chuyện cái lá nho, – tôi nói. – Ý cháu muốn nói là một sự che đậy. Nhưng cháu vẫn muốn tiếp tục điều tra. Bác có biết Jackson đã cưới vợ và có con trai không?

– Theo tài liệu lưu trữ chỗ tôi thì trước khi nhập ngũ, Jackson là một tên du thủ du thực. Hắn có một hồ sơ rất xấu. Nhưng khi trong quân ngũ, hắn được nhận xét rất tốt. Không có một thượng cấp nào nghi ngờ những hoạt động của nó. Nếu không có trợ lý của tôi, đại úy Harry Weatherspoon, truy tìm ráo riết những kẻ bán ma túy, thì Jackson chắc đã hốt bạc.

Tôi ngồi im cố không để lộ rõ những điều tôi đã linh cảm thấy.

– Đại úy Harry Weatherspoon? Hiện nay anh ta ra sao ạ?

– Cậu ta đã giải ngũ. Tôi có nghe nói cậu ta mua một nhà máy liên quan đến ếch nhái gì đấy. Tôi lấy làm lạ vì cậu ta đã từng là một nhân viên xuất sắc của cơ quan chống ma túy của quân đội. (Ông xem đồng hồ). Tôi cần phải thay đồ rồi. Trước khi tiếp tục điều tra nên xin ý kiến Parnell. Tôi không hiểu sao việc tìm đứa con của Jackson lại quan trọng như vậy.

Chúng tôi bắt tay nhau rồi tôi ra về.

Lúc đó đã là bảy giờ kém hai mươi. Tôi quyết định trở về nhà. Tôi cần phải suy nghĩ một cách bình tĩnh và không muốn đi ra ngoài nữa.

Tôi mở cửa phòng, tay lăm lăm khẩu 38 ly. Không có thằng du đãng nào đợi tôi ở đây cả. Tôi khóa trái cửa và nhét súng vào bao. Tôi ngồi xuống ngẫm nghĩ về những điều vừa xảy ra trong ngày. Tôi cảm tưởng công việc đã có tiến triển. Tôi tự nhủ ngày mai sẽ tới gặp Howard và Benbolt – các công chứng viên của Weatherspoon, rồi sẽ quay về Searle. Tôi cũng muốn gặp lại Wally Watkins, nói chuyện với Josh – người bưu tá và tất nhiên cả Weatherspoon nữa.

Trong khi uống uytski, tôi thấy trong tôi đang lớn dần một linh cảm không mấy dễ chịu là Parnell sẽ không cho tôi tiếp tục điều tra nữa, nếu tôi kể cho ông tất cả những điều tôi phát hiện cho tới nay. Tôi mừng là ông đang ở Washington.

***

Sau khi ăn sáng muộn, tôi đi tới văn phòng Howard và Benbolt ở Miami. Họ đều ở tầng năm của một tòa văn phòng rất đẹp ở phố Ba mươi sáu tây bắc. Một người đàn bà cao lớn tóc muối tiêu ngồi ở phòng tiếp tân. Bà nhìn tôi với đôi mắt lạnh và không mấy thiện cảm.

– Tôi muốn gặp ông Benbolt, – tôi mỉm cười nói và đưa cho bà ta danh thiếp.

Bà ta xem danh thiếp của tôi và quẳng ngay xuống, cứ như sợ nó làm bẩn ngón tay.

– Ông có hẹn trước không?

Tôi đáp rằng không.

– Ông Benbolt chỉ tiếp những thân chủ có hẹn trước.

Tôi đáp rằng tôi không phải là thân chủ. Tôi chỉ muốn trao đổi một vài lời với ông Benbolt thôi, tất nhiên nếu ông ấy không quá bận.

– Thế thì ông tới không đúng lúc rồi.

Mụ già làm tôi hơi bực mình. Nhưng tôi vẫn cố tươi cười rằng tôi lấy làm tiếc và hỏi lúc nào có thể tới gặp được.

Bà ta nhìn tôi một lúc dường như xem có phải tôi chế nhạo bà ta không, rồi nhấn máy điện thoại nội bộ:

– Có ông Wallace nào đó của hãng thám tử tư Parnell muốn gặp ông, ông Edward ạ.

Một giọng chân thành vang lên trong máy.

– Cho ông ấy vào gặp tôi, cô Lacey.

Bà gái già tắt máy và giơ ngón tay chỉ cho tôi một cái cửa.

– Sau cửa này, đi theo dọc hành lang vào cửa thứ ba bên phải.

Tôi cám ơn, đi vào một hành lang rộng, rồi gõ cửa thứ ba bên phải. Một giọng vang và chân thành mời tôi vào. To lớn và phương phi, Benbolt cho tôi ấn tượng là một người giàu có. Ông trạc ngoại tứ tuần. Chiếc sơ mi Cardin, cúc măng sét bằng vàng, mái tóc đen bóng nhẫy, gò má hồng hào, tất cả đều toát ra một vẻ giàu có và tự tin.

– Mời ông vào, ông Wallace. (Ông chìa tay cho tôi. Bắt tay ông tôi có cảm giác bàn tay như được làm bằng một thứ bột nhão).

Tôi đoán rằng bàn tay ông ta chỉ quen dùng dao và nĩa.

– Mời ông ngồi. Ông Weatherspoon có điện thoại cho tôi nói rằng ông sẽ qua đây.

Ông ta cười để lộ cả hàm răng có phủ một lớp men đắt tiền.

– Ông ta cũng đã nói với tôi rằng tôi có thể giúp ông giải quyết một vấn đề nhỏ gì đó. Chúng tôi đều biết hãng Parnell, một hãng vào loại tốt nhất bây giờ.

– Chắc Weatherspoon cũng đã nói với ông tôi là đại diện của ông già Fred Jackson quá cố trong việc tìm kiếm đứa cháu nội của ông ấy, – tôi nói.

– Đúng như vậy. Chúng tôi cũng đang thử tìm kiếm nó. Tất cả chuyện này có vẻ bí ẩn thế nào ấy, phải không? Ông Weatherspoon có ý định mua lại khu chăn nuôi ếch của Jackson, nhưng tôi không thể làm gì trước khi tìm được người thừa kế của Jackson.

– Ông có chắc Johnny Jackson là người thừa kế của Jackson không?

– Không còn gì phải nghi ngờ. Tôi đã xem bản sao của tờ di chúc.

– Thì ra có một tờ di chúc?

– Đúng như thế. Ông già Jackson đã di chúc để lại toàn bộ tài sản của mình cho con trai là Mitch và trong trường hợp người này chết thì cho người nối dõi anh ta, nhưng với điều kiện phải là con trai thừa kế.

– Điều này có nghĩa là loại bỏ vợ của Mitch?

– Nếu anh ta có vợ thì đúng là như vậy. Nhưng cho tới nay, không có gì chứng minh là Mitch đã lấy vợ.

– Nhưng trong trường hợp đó Johnny là đứa con ngoài pháp luật. Điều này có cản trở nó được nhận tài sản của ông nó không?

– Không. Khi dùng thuật ngữ “nối dõi” là Jackson đã tính chuyện đó.

– Hiện nay ai là người giữ bản di chúc gốc?

– Ông Willis Pollack, một công chứng viên ở Searle, – Benbolt nói với vẻ kẻ cả. – Tôi đã gọi điện cho ông ta. Ông cho biết rằng Jackson làm di chúc khi Mitch nhập ngũ. Ngoài khu chăn nuôi ếch dường như ông ta chẳng để lại gì. Khu này thực ra chẳng có giá trị mấy và ông Weatherspoon sẵn sàng trả năm ngàn đôla, không hơn một xu.

Tôi nghĩ tốt nhất là không nói với tay công chứng viên lúc nào cũng tươi cười này về cái hố dưới gầm giường của Fred. Tôi gần như chắc chắn là có một khoản tiền lớn đã được giấu dưới đó.

– Thế việc tìm kiếm của ông có tiến triển gì không, ông Wallace?

– Hiện thì chưa. Johnny đã biến mất đã khá lâu rồi. Mọi dấu vết đã lu mờ. Nhưng tôi sẽ cố. Vả lại, tôi mới nhận vụ này được có mấy ngày. Tôi chỉ muốn gặp ông để tin rằng chúng ta không để mất thời gian và tiền bạc khi cùng lần theo một dấu vết.

Cái cớ của tôi khiến ông ta có vẻ hài lòng. Ông gật đầu tỏ ý đồng tình.

– Chúng tôi đã cho đăng thông báo trên các báo. Đúng như ông nói, mọi chuyện đều mới bắt đầu. (Ông ta nhìn chiếc đồng hồ Ômêga bằng vàng). Thôi thế nhé. Ông muốn chúng ta thường xuyên liên lạc với nhau chứ?

Ông ta đứng dậy và chìa tay cho tôi. Tôi bắt tay và nói sẽ liên lạc lại sau. Tôi cũng đề nghị ông cho tôi biết nếu có phản hồi từ các thông báo và đưa cho ông danh thiếp của tôi.

Ba giờ sau tôi đã có mặt ở nhà ăn khách sạn Jumping Frog. Khi tôi đi qua tiền sảnh thấy Bob Wyatt đứng ở quầy tiếp tân. Ông gật đầu thân thiện chào tôi. Tôi ngồi vào một bàn ở mãi trong góc, chào và mỉm cười với mọi người và ăn món gà Maryland tuyệt vời. Ăn trưa xong tôi hỏi Abraham, người quản lý da đen, địa chỉ của Willis Pollack, công chứng viên ở Searle. Sau khi uống xong cà phê, tôi đi tới văn phòng của Willis Pollack được đặt bên trên một cửa hiệu kim khí.

Tôi có cảm giác như mình đang đi vào một trường quay phim dựng lại cảnh từ những năm 1800. Một bà già bé nhỏ tóc trắng như tuyết, mặc bộ đồ đen ngồi sau một chiếc bàn nhỏ với chiếc máy chữ Remington có lẽ thuộc lô xuất xưởng đầu tiên. Căn phòng rộng xếp đầy những chiếc hòm nhỏ đựng hồ sơ không còn dùng nữa. Cạnh cửa sổ là một chiếc bàn rộng hơn của Willis Pollack. Tôi dừng lại ở ngưỡng cửa và đứng nhìn ông.

Willis Pollack đã ngoài tám mươi, vóc người nhỏ thó, bộ ria bạc trắng và đôi mắt nâu còn rất tinh anh. Ông có vẻ như tàn tích của thế kỷ trước.

– A, anh Wallace! – Ông nói. – Mời anh vào đây.

Ông già đứng thẳng dậy, nụ cười chân thành làm rạng rỡ khuôn mặt nhăn nheo và tàn tạ bởi thời gian.

– Bà đây là Daisy, bà vợ yêu quý của tôi. – Ông giới thiệu. – Trong khi tôi chuyện vãn, bà ấy làm đủ mọi công việc.

– Thôi nào, Willis. (Bà nhìn tôi). Ông nhà tôi lúc nào cũng nói quá lên ấy mà! Tôi cứ tự hỏi dân trong vùng này sẽ ra sao nếu không có ông ấy.

Gần như trong mơ, tôi bước vào căn phòng chiếu sáng lờ mờ, tới bắt tay Pollack, rồi bắt tay bà Daisy.

– Tôi giúp gì được anh đây? – Ông hỏi.

– Như bác biết đấy, bác Willis ạ, cháu đang tìm kiếm Johnny Jackson.

Rồi tôi kể cho ông ấy về bức thư của Jackson gửi cho hãng tôi, nói với ông rằng đại tá đã nhận của ông già Jackson một trăm đôla và giao cho tôi điều tra vì Mitch là một người anh hùng.

– Cháu cũng đã tới gặp ông Benbolt và ông ấy cho biết rằng Fred Jackson có soạn một di chúc để ở chỗ bác. Cháu rất muốn biết bản di chúc đã được soạn như thế nào và vào thời gian nào.

Pollack quay người về phía bà vợ.

– Bà cho anh ấy xem bản di chúc đi. – Ông nói âu yếm.

Bà già đi tìm tờ giấy trong hòm tài liệu và đưa lại cho tôi. Lời lẽ trong bản di chúc cực kỳ đơn giản.

Tôi, Fred Jackson, ký tên dưới đây, di chúc để lại toàn bộ động sản và bất động sản của tôi cho con trai tôi là Mitch Jackson. Nếu Mitch chết trước tôi thì toàn bộ tài sản được trao cho những người nối dõi nó là con trai, bất kể trong hay ngoài giá thú. Nếu không có con trai, thì toàn bộ tài sản này sẽ thuộc về Quỹ cựu chiến binh để trợ giúp cho những người bị cụt chân cụt tay như tôi.

Bên dưới là chữ ký vụng về khó mà đoán ra nổi. Có cả chữ ký của Willis và Daisy Pollack với tư cách là người làm chứng.

– Bất kể trong hay ngoài giá thú? – Tôi nói và nhìn Pollack. – Một câu lạ thật.

Ông già vuốt râu cười.

– Chả có gì là lạ cả. Fred thừa biết con trai ông ta không phải loại người thích hợp với hôn nhân. Ông đã dự liệu trước rằng Mitch có thể có con ngoài giá thú. Fred không quan tâm tới con gái. Rồi Johnny tới. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên kể từ khi thằng Mitch ra đi, ông già Fred mới cảm thấy hạnh phúc.

– Thế bản di chúc này được lập khi nào?

– Ngay khi Mitch nhập ngũ, Fred yêu cầu tôi cùng với Daisy tới gặp ông ta vì ông muốn lập di chúc. Chúng tôi đi tới đó. (Ông già lắc đầu). Rất lâu trước kia, tôi và Fred đã từng là bạn thân. Nhưng khi Fred mất đôi chân, ông ấy sống cách ly hoàn toàn. Daisy và tôi bị sốc mạnh khi thấy cảnh ông sống khốn khổ như vậy. Ông nói một cách lạnh lùng và chính xác ông muốn soạn một di chúc như thế nào. Tôi hỏi ông có muốn để lại chút gì cho vợ Mitch, nếu nó lấy vợ không. Fred tỏ ra rất khó chịu nói với tôi rằng di chúc là của ông và cần phải viết đúng như ông đã dự liệu. Tôi viết theo lời đọc của Fred, rồi ông ta ký tên. Tôi và Daisy cũng làm như vậy với tư cách là hai người làm chứng. Tôi tin Fred không để lại tiền bạc gì. Ông ta chỉ có đất đai và ngôi nhà chẳng có giá trị bao nhiêu. Vì vậy tôi không nài ông ta viết chi tiết hơn.

– Điều gì khiến bác nghĩ rằng ông ta không có tiền bạc gì?

– Theo cái cách mà ông ta sống, anh Wallace ạ. Nếu không thiếu tiền thì không ai chịu sống khổ hạnh như vậy. Fred không có tài khoản ở ngân hàng và người ta cũng không tìm thấy tiền ở nhà ông ta.

– Thế ai đã tới tìm?

– Bác sĩ Steed và ông Weatherspoon đã tới đó ngay sau khi Fred qua đời. Bác sĩ Steed nói rằng ông ta đã tìm khắp nơi và không thấy có giấy tờ cũng như tiền bạc gì.

– Thế còn ông Weatherspoon? Ông ta tới đó làm gì?

– Ông ta muốn mua khu đất của Fred. Và cũng do ông ấy với bác sĩ Steed là bạn thân mà. Vả lại bác sĩ Steed nghĩ trong khi khám xét ngôi nhà nên có một người làm chứng.

– Họ có thấy lạ là ông Jackson không để lại giấy tờ gì không?

– Có chứ. Tôi cũng lấy làm lạ. Nhưng Steed nói rằng trước khi tự sát, Fred chắc đã đốt hết mọi thư từ và giấy tờ rồi.

– Bác có ngạc nhiên khi biết Fred tự sát không?

– Có chứ. Đó là một cú sốc lớn đối với vợ chồng tôi. Việc Johnny bỏ đi đã giáng cho ông một đòn chí tử. Ở vào tuổi ông, lại mất đôi chân, chắc ông ấy nghĩ rằng chết là cách giải thoát tốt nhất.

– Như vậy bây giờ phải tìm cho được Johnny. Cám ơn bác đã dành thời gian cho cháu. Sau này nếu cần được giúp đỡ, cháu xin phép được trở lại quấy rầy bác đôi chút.

– Đừng có ngại gì, anh Wallace ạ.

Nói đoạn, ông bắt tay tôi. Tôi tới bắt tay bà Daisy rồi đi xuống cái cầu thang ọp ẹp và bước ra đường phố oi nồng.

Vụ này bắt đầu là một câu đố ghép hình hóc búa. Nhưng rồi dần dần, các mẩu hình đã bắt đầu ăn khớp với nhau.

Tôi tới nhà bưu điện, một cô gái trẻ mặt đầy mụn trứng cá, mang đôi kính dầy cộm ngồi sau lưới mắt cáo. Đúng lúc tôi đến trước mặt thì cô đang ngáp, chợt nhìn thấy tôi cô nở vội một nụ cười đầy hy vọng.

– Chào anh Wallace! Bưu điện Searle sẵn sàng phục vụ anh.

– Cám ơn. – Tôi nói. Ông Josh có đây không?

– Ông ấy đang chọn thư trong kia. (Cô chỉ một cái cửa). Anh đã tìm được Johnny chưa?

– Chưa. Nếu tìm thấy, cô sẽ là người đầu tiên được biết.

Cô gái cười khanh khách.

– Em hiểu. Làm thám tử thích thật đấy.

– Cô nói thật không?

Rồi tôi đi đến cái cửa cô gái đã chỉ. Tôi mở cửa rồi bước vào phòng chia thư.

Đứng trước quầy là một người đàn ông béo tròn và hói đầu, trạc ngoài sáu mươi, đang chia một đống thư. Miệng ông ngậm tẩu và chiếc kính tụt tới gần đầu mũi.

– Ông có thể dành cho tôi ít phút được không? – Tôi hỏi.

Ông ngước mắt nhìn, gật đầu rồi lại cúi xuống chọn thư.

– Tôi là Dirk Wallace. Bill Anderson chắc đã nói với ông về tôi.Tôi đang tìm kiếm Johnny Jackson.

Ông bưu tá gật đầu, mắt vẫn không rời chồng thư.

– Anderson có nói với tôi rằng cứ vào ngày đầu tháng ông lại chuyển một bức thư cho Jackson. Chuyện đó diễn ra từ ngày Mitch chết. Tháng nào cũng như tháng nào trong suốt sáu năm… có đúng vậy không?

Lại gật đầu. Ông bưu tá vẫn không thốt lời nào.

– Những bức thư đó có phải từ Miami tới không? (Lại gật đầu). Và bây giờ không có thư nào tới nữa? (Lại gật đầu). Người ta cũng nói với tôi rằng chính ông đã cho Johnny đi nhờ xe đến nhà ông già Jackson khi nó vừa mới tới Searle.

Lại gật đầu.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.