Vụ Giết Người Bí Ẩn

Chương 8 – Phần 3



Khi tôi dừng xe trước khách sạn Jumping Frog, đồng hồ đã chỉ mười rưỡi đêm. Trước khi tới Searle, tôi đã suy nghĩ về những điều đã xảy ra. Rõ ràng là người ta đã định giết tôi. Tôi tự nhủ từ nay về sau phải hết sức thận trọng. Tôi vẫn băn khoăn không biết Benbolt có nói với Raiz về việc tôi đã biết về mạng lưới buôn bán ma túy không.

Có thể lắm.

Tôi khoan khoái nghĩ tới bản báo cáo và hộp đùi ếch đang đợi đại tá trở về.

Tôi gặp ông già Abraham ở quầy tiếp tân. Ông mỉm cười chào tôi.

– Peggy đâu? – Tôi hỏi.

– Ở đây. Đang trong văn phòng. Cô ấy đang làm việc với ông Willis Pollack, công chứng viên của chúng tôi. Anh đã biết tin gì chưa? Peggy giàu to rồi.

– Bố Peggy đâu?

Nụ cười của ông già tắt hẳn.

– Ông ấy đang nằm trong giường. Tội nghiệp ông chủ. Chắc đận này ông ấy không qua khỏi mất.

Tôi vòng qua quầy tiếp tân, gõ cửa văn phòng và bước vào.

Ông già Pollack đang ngồi trên tràng kỷ, còn Peggy đứng sau bàn. Họ đang chúc nhau sâm-panh.

– Chào Dirk! – Peggy cười hết cỡ. – Anh ở đâu mấy hôm nay? Chúng tôi đang ăn mừng đây. Hãy cùng vui với chúng tôi nhé.

– Cám ơn, – tôi nói. – Hai người đang ăn mừng gì vậy?

– Em đã bán xong cái nhà máy đóng hộp ếch rồi! Harry đã di chúc để lại cho em tất cả. Em giàu rồi!

Tôi kéo ghế ngồi xuống.

– Các vị đừng để mất thời gian nữa. Người ta đã chôn Weatherspoon đâu.

– Hãy kể cho anh ấy nghe đi, ông Pollack. Tôi muốn anh ấy biết. – Peggy nói và rót sâm-panh cho tôi. – Anh thấy đấy, anh Dirk, anh hoàn toàn có quyền được ăn mừng như em mà!

Tôi cầm lấy cốc, nâng lên và uống một ngụm rồi đặt xuống bàn.

– Bán rất được giá, anh Wallace ạ. – Pollack nói. – Peggy đã làm một việc rất đúng là đã xin ý kiến tôi.

– Khi ông Benbolt cho em biết nội dung bản di chúc của Harry và nói rằng ông ta có thể bán được nhà máy, em đã phóng ngay tới gặp ông Pollack. Ông Pollack có mặt cùng với em khi Raiz tới.

Ông Pollack nhìn tôi cười.

– Nói thật lòng, anh Wallace ạ, tôi không ưa anh ta lắm, nhưng hắn có vẻ là người làm ăn đứng đắn. Hắn nói rằng hắn muốn mua nhà máy, nếu để muộn, sẽ phải giải tán nhân sự và sẽ mất khách ở những nhà hàng lớn. Tôi thấy cũng có lý. Anh ta đề nghị hai trăm năm mươi ngàn đô. Tôi thấy cái giá đó là được rồi. Anh ta đề nghị trả trước năm mươi ngàn bằng tiền mặt, hai trăm ngàn còn lại sẽ trả khi bản di chúc có hiệu lực. Nếu Peggy chấp nhận, anh ta sẽ cho người tới nhận nhà máy ngay ngày mai. Khi đó sẽ giữ nguyên nhân sự của nhà máy và giữ được khách hàng. Đó là đề nghị chấp nhận được và tôi khuyên Peggy ký giấy đồng ý. Bắt đầu từ ngày mai, Raiz sẽ là ông chủ của nhà máy, mặc dù bản di chúc còn chưa có hiệu lực. Cuối cùng, sau một hồi bàn tính, tôi đã buộc Raiz phải chấp nhận nếu kết cục không thành thì số tiền năm mươi ngàn đặt trước sẽ thuộc về Peggy. Vậy là dù có chuyện gì đi nữa thì trong tay cô bé này cũng đã có năm mươi ngàn đô.

Tôi nâng cốc chúc sức khỏe của Peggy và uống cạn một hơi.

– Thật là tuyệt vời.

– Sao lại không? Bây giờ em đã có cái để chăm sóc cho ba em, – Peggy nói với đôi mắt bừng sáng. – Từ lâu em đã mong ước được chăm sóc tử tế cho ba em. Rồi em sẽ đưa ba em đến bệnh viện ở Miami. Em rất hy vọng và cầu mong ở đó người ta sẽ điều trị khỏi cho ba em.

Tôi nhìn Pollack và thấy ông buồn rầu lắc đầu.

– Tôi đã báo trước với Peggy rồi, – ông nói. – Sẽ chẳng có hy vọng gì đâu.

– Tôi cóc cần biết! Tôi sẽ đưa ba tôi đến bệnh viện. Tiền bạc để làm gì nếu không giúp cho những người thân yêu của mình?

– Thế còn khách sạn? – Tôi hỏi. – Em cũng sẽ bán chứ?

Cô gái lắc đầu.

– Không phải bây giờ. Em đã đổi ý rồi. Ba em muốn em giữ lại khách sạn. Với số tiền bán nhà máy và cửa hàng thực phẩm, em sẽ tân trang lại. Ông Pollack cũng cho rằng làm như thế là phải.

– Thế kết quả điều tra về cái chết của Weatherspoon thế nào? – Tôi hỏi ông Pollack.

– Tất cả được tiến hành rất nhanh: chết do tai nạn.

Tôi nhún vai. Bác sĩ Steed đã thực sự chứng tỏ lòng trung thành với người bạn già sâu rượu của mình.

– Peggy, một lần nữa xin chúc mừng em! Chúc em có nhiều may mắn hơn.

Tôi bước ra và đi lên phòng. Nằm dài trên giường và vẫn còn hơi choáng về vụ mưu sát. Tôi đã gần như phanh phui một mạng lưới buôn bán ma túy. Nhưng nhiệm vụ chính của tôi là tìm kiếm Johnny Jackson. Vậy tôi lại phải làm theo lời khuyên của cha tôi. “Nếu con bị bế tắc, kệ nó, hãy quay trở về những dữ liệu ban đầu và khi ngẫm nghĩ, có thể con sẽ phát hiện ra đầu mối quan trọng mà trước đó con đã bỏ qua”. Tôi đành quay trở lại những dữ liệu ban đầu và suy nghĩ rất lâu.

Tôi xua đuổi khỏi đầu óc cái mạng lưới buôn bán ma túy, Raiz, Stobart và Stella. Chúng chỉ làm phân tán đầu óc tôi. Tôi cố tập trung chú ý vào ông già tốt bụng trồng hoa hồng Wally Watkins. Tôi hình dung thấy rõ ông mồn một vào lúc tôi hỏi ông gần đây có gặp Johnny không và lúc đó tôi nhớ rằng ông có vẻ lưỡng lự. Một sự lưỡng lự thường thấy ở những người nhân hậu và trung thực mỗi khi họ sắp phải nói dối.

Tôi thấy đói và đi xuống nhà ăn, rồi gọi món chính trong ngày: một miếng sườn bò.

Ăn tối xong, tôi lấy xe đi tới nhà ông Watkins. Tôi rời đường lớn và đậu xe ở cạnh đường, cách nhà ông Watkins chừng vài trăm mét. Qua chỗ ngoặt tôi đã nhìn thấy ngôi nhà.

Tôi lặng lẽ đi vòng quanh ngôi nhà và ra phía sau. Không thấy ánh đèn trong các buồng ngủ. Tôi đã mang theo đèn pin cực mạnh phòng xa. Tôi dừng lại dỏng tai lên nghe.

Tôi phát hiện có một cái cửa nhỏ và tôi đi qua đó vào vườn sau, rồi đi ra phía trước ngôi nhà. Tivi trong phòng khách đang bật. Trước mặt tôi là mấy cái cửa sổ phòng ngủ. Một cánh mở toang. Đó là phòng của ông Watkins. Tôi chiếu đèn pin nhìn vào. Sau đó tôi chiếu vào phòng bên cạnh. Phòng này nhỏ hơn phòng kia, diêm dúa và đầy nữ tính với một chiếc giường đơn. Trong phòng có một bàn trang điểm nhỏ, trên đặt một lọ nước hoa và mấy thứ trang điểm của phụ nữ. Thu hút tôi là một bộ tóc giả dài màu vàng treo trên một cái giá. Tôi cố tìm cách mở cửa sổ này, nhưng nó đóng chặt và cài then bên trong. Tôi quay sang chiếc cửa sổ mở ở phòng ông Watkins, lặng lẽ trườn vào, mở nhẹ cửa và đi vào một hành làng tối om.

Ông Watkins đang mải nghe thời sự. Tôi đi tới phòng phụ nữ, mở cửa và lẻn vào. Tôi khép cửa vào rồi chiếu đèn quan sát phòng. Theo cách bày biện thì đây là phòng của một cô gái trẻ. Có mấy con búp bê đặt trên giá đóng ở tường sau. Một con gấu bông đã sờn đặt trên một chiếc ghế. Tôi chiếu cao đèn thì thấy một cái khung gỗ treo trên đầu giường. Thì ra đó là khung của tấm Huân chương. Đến sát hơn tôi thấy mấy chữ Huân chương Danh dự. Huân chương của Mitch trước kia được treo ở đầu giường ông già Fred, còn bây giờ nó treo ở phòng này. Ai đang sống ở đây? Liệu có phải Johnny. Liệu nó có ái nam ái nữ tới mức dùng bộ tóc giả của phụ nữ, chơi búp bê kia không? Cũng có thể, nhưng tôi hơi ngờ. Tôi đi tới mở tủ quần áo. Có một số bộ váy áo treo ở đây. Tất cả đều là váy của thiếu nữ, loại rẻ tiền. Trên giá tôi còn phát hiện được hai chiếc xu chiêng và ba chiếc quần lót trắng.

Tôi nhìn Huân chương một lần nữa rồi đi sang phòng Watkins và trườn qua cái cửa sổ ra ngoài. Tôi bấm chuông. Tôi nghe tiếng tắt tivi, sau đó im lặng hoàn toàn. Sau một lúc khá lâu, cửa trước mở ra và ông Watkins nhìn tôi ngạc nhiên.

– Chào bác Watkins, – tôi nói. – Cháu là Dirk Wallace đây mà.

– Tưởng ai, – ông già nói và đứng chắn trên ngưỡng cửa. – Anh đến không đúng lúc rồi. Ngày mai anh đến được không?

– Rất tiếc là ngày mai cháu không thể đến được.Cháu muốn nói về con trai bác.

Tôi thấy ông co dúm người lại.

– Anh Wallace ạ, tôi nghĩ là tôi đã nói rằng tôi không quan tâm tới thằng đó nữa rồi mà. Nếu anh có điều gì cần nói với tôi, thì hãy cố đợi đến ngày mai. Xin lỗi, mong anh thông cảm, – ông nói và có ý khép cửa lại.

Tôi cứ bước tới.

– Rất tiếc, bác Watkins ạ. Nhưng đây là vấn đề liên quan tới cảnh sát. Và có thể liên quan tới bác nữa. Tốt nhất là ta nên nói chuyện với nhau.

– Một việc liên quan tới cảnh sát ư?

Ông lùi lại và tôi bước vào hành lang rồi khép lại.

– Đúng như vậy, một lần nữa mong bác thứ lỗi.

Ông lưỡng lự rồi ông mở cửa phòng ăn.

– Nếu vậy thì mời anh vào đây.

Tôi theo ông vào căn phòng tiện nghi, bàn ăn đã được dọn sẵn cho hai người.

– Tôi hy vọng rằng câu chuyện của anh không kéo dài chứ, anh Wallace. Tôi sắp ăn tối mà. Tôi có thể mời anh uống chút gì chứ?

– Không. Cám ơn bác.

Tôi ngồi trên chiếc tràng kỷ.

– Cháu rất tiếc phải nói với bác rằng con trai bác hiện trong tình trạng rất nghiêm trọng. Chỉ vài ngày nữa anh ta sẽ bị bắt vì đứng đầu mạng lưới buôn bán ma túy ở Searle này.

Tôi quan sát và thấy ông già nhảy dựng lên.

– Con tôi? Ở ngay đây? (Rồi ông thả người xuống ghế). Tôi hoàn toàn không hiểu. Syd ở ngay đây ư?

– Không. Anh ta không ở Searle. Anh ta ở Paradise với cái tên Herbert Stobart. Harry Weatherspoon và anh ta tổ chức một mạng lưới buôn bán ma túy mang lại rất nhiều tiền bạc. Hàng năm Harry phải kiếm hơn ba triệu đô.

– Weatherspoon? – Ông già sững sờ hỏi.

– Hãy cho phép cháu giải thích cho bác hiểu, bác Watkins ạ. Điều cháu sắp nói với bác phần lớn là dựa trên các giả thuyết. Nhưng cháu có những bằng chứng khẳng định những giả thuyết đó là chính xác. Tất cả mọi chuyện bắt đầu ở Việt Nam. Weatherspoon lúc đó là nhân viên của cơ quan phòng chống ma túy của quân đội. Trong đám binh lính có rất nhiều tên nghiện ma túy. Weatherspoon đã phát hiện ra một gã chuyên bán ma túy cho đám lính trẻ. Gã này chắn chắn phải có kẻ cung cấp. Và Weatherspoon đã tìm ra kẻ cung cấp đó chính là con trai bác. Trước khi tên bán ma túy – hắn chính là Mitch Jackson – lẽ ra đã bị bắt, thì hắn chết. Weatherspoon hẳn là đã biết số tiền Mitch kiếm được là rất lớn. Vốn là tên hám tiền, hắn liên lạc với con trai bác và hai đứa đã móc ngoặc với nhau. Sau khi cả hai giải ngũ, chúng nghĩ ra cách dùng ếch đóng hộp để ngụy trang cung cấp heroin cho những tay giàu có sa đọa. Ma túy được cho vào túi nylon giả danh là bột pha nước chấm bán kèm với đùi ếch. Đây là một ý tưởng tuyệt vời và chúng không hề phải mạo hiểm chút nào. Con trai bác đã lập cả một danh sách lớn gồm những khách hàng đặt thường xuyên và gửi heroin trong hộp đùi ếch mỗi tháng một lần. Weatherspoon có nhiệm vụ đặt các túi heroin vào hộp đùi ếch và con trai bác lo việc chuyển cho khách hàng và cung cấp heroin. Nhưng rồi giữa chúng đã có chuyện. Chuyện gì thì cháu không biết, nhưng Weatherspoon quyết định rút ra khỏi hội này. Hắn đã để ra được nửa triệu đô và quyết định bỏ không làm tiếp nữa. Có thể là hắn đã bất đồng với con bác, cụ thể thế nào thì cháu không biết. Nhưng điều đó không quan trọng. Cũng như số phận của tất cả những kẻ tham gia trong mạng lưới buôn bán ma túy quyết định từ bỏ không làm tiếp nữa, hắn đã phải bỏ mạng. Nhà máy đóng hộp ếch vừa mới được mua bởi một gã người Mêhicô, Edmundo Raiz, do con trai bác bỏ vốn. Bọn chúng tưởng sẽ vẫn còn tiếp tục được việc buôn bán mờ ám như trước. Nhưng cháu đã thu thập đủ bằng chứng để tống tất cả lũ này vào nhà đá ít nhất là mười lăm năm.

Ông già Watkins ngồi bất động một lúc lâu rồi nhìn tôi.

– Tôi đã nói với anh rằng tôi không muốn dây dưa với thằng con trai tôi nữa. Những điều anh nói với tôi thật kinh khủng. Tôi hy vọng Syd sẽ nhận được những gì xứng đáng với nó. Có lẽ tôi cũng phải cám ơn anh đã cất công đến đây báo cho tôi biết, nhưng tôi không thấy mình có gì liên quan tới vụ này cả. Tất nhiên, điều này khiến cho tôi đau lòng, nhưng Syd đã luôn luôn gây đau khổ cho vợ chồng tôi từ lâu rồi. Anh nói rằng tôi có thể liên quan. (Ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi). Thế thì tôi liên quan ở cái gì?

Tôi không trả lời câu hỏi của ông để ông tiếp tục không giữ được bình tĩnh.

– Cuộc đời nhiều bí ẩn lắm, bác Watkins ạ. – Tôi nói. – Mươi hôm trước hãng chúng cháu nhận được bức thư của Fred Jackson yêu cầu tìm đứa cháu nội của ông ta. Ông già đã thanh toán ngay một trăm đôla và chúng cháu đã nhận nhiệm vụ đó. Chỉ duy nhất bởi vì Jackson đã nhắc nhở đại tá Parnell rằng Mitch, con trai ông, đã phục vụ ở Việt Nam dưới quyền đại tá và đã được truy tặng Huân chương Danh dự. Và đại tá đã giao cho cháu công việc tìm Johnny. Trong quá trình điều tra cháu đã phát hiện ra một mạng lưới buôn bán ma túy. Nhưng đó chỉ là sản phẩm phụ, mặc dù rất quan trọng. Hiện cháu vẫn chưa tìm ra Johnny Jackson. Mấy hôm trước cháu có hỏi bác gần đây có gặp anh ta không. Bác trả lời cháu là không. Nhưng ngay lúc đó cháu đã có cảm tưởng rằng bác đã không nói thật với cháu. Bây giờ cháu lại xin hỏi lại một lần nữa: Gần đây bác có gặp Johnny Jackson không?

Ông già cúi nhìn chăm chú hai bàn tay và không nói gì.

– Gần đây bác có gặp Johnny Jackson không? – Tôi nhắc lại.

Nhìn vẻ rầu rầu của ông, tôi thấy rằng ông đang chuẩn bị nói dối một lần nữa. Nhưng đúng thời điểm đó, cánh cửa đột ngột mở ra và Bêbê Mansel bước vào.

– Xéo khỏi đây ngay, thằng khốn! – Cô ta hét lên. – Đứng lên và xéo ngay đi.

Tôi nhìn cô Bêbê vẫn mặc chiếc áo phông làm nổi rõ bộ ngực căng tròn và chiếc quần bò bó. Mái tóc đen mượt mà thả dài xuống ngang eo. Gương mặt nhỏ trắng trẻo sầm lại như tạc bằng đá.

– Bây giờ thì khỏi phải đuổi tôi cũng đi! – Tôi nói và đứng dậy.

Tôi nhìn Watkins. Ông vẫn ngồi bất động trong ghế phô-tơi và không rời mắt khỏi bàn tay mình.

– Bác Watkins, bác vẫn chưa trả lời câu hỏi của cháu.

Bêbê sấn sổ xông đến tôi, nắm lấy tay tôi và làm cho tôi quay tại chỗ.

– Xéo đi! – Cô ta rống lên.

Tôi nhìn cô ta và bất chợt hiểu ra tất cả. Căn phòng ngủ thứ hai, con gấu bông và lũ búp bê, tủ quần áo con gái và tấm Huân chương Danh dự treo trên tường.

– Tất nhiên rồi, tôi sẽ đi.

Cô gái mở toang cửa.

– Xéo ngay khỏi đây!

Khi đi ngang qua cô, tôi tóm lấy một lọn tóc đen và mượt rồi giật mạnh. Bộ tóc giả tung ra. Cô gái hét lên và giơ tay định tát tôi, nhưng tôi chộp được cổ tay cô.

Tôi nhìn mái tóc vàng cắt ngắn như của con trai của cô, rồi mỉm cười:

– Chào Johnny Jackson, – tôi nói. – Thế là cuối cùng tôi đã tìm ra cậu.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.