Raymond đang trên đường đến nghị viện thì nghe được bản tin qua chiếc radio trên xe. Không thấy điều này được đề cập đến trong phần tin của các tờ báo buổi sáng, vì vậy điều này đã phải xảy ra vào ban đêm. Bắt đầu là bản tin nhanh – chỉ với các thông tin vừa đủ. HMS Broadsword, chiếc tàu cao tốc loại T.K 22, đang chạy qua vịnh Surt nằm giữa Tunis và Benghazi thì bị một nhóm lính đánh thuê đổ bộ lên. Chúng giả bộ là các nhân viên bảo vệ bờ biển lên tiếp nhận tàu dưới tên của Đại tá Libi Muarmmar. Người phát thanh viên nói rằng các chi tiết sẽ được nói rõ hơn vào bản tin của họ vào hồi 10 giờ.
Cả buổi sáng trực bên cạnh radio, Raymond được biết rằng tàu HMS Broadsword hiện đang nằm trong tay hơn một trăm lính du kích. Họ yêu cầu trả tự do cho những tù nhân Libi trong các nhà tù Anh để đổi lấy 217 người khỏe mạnh hiện đang bị giam giữ làm con tin ở trong hầm máy.
Vào bữa trưa, các nghị viên xúm quanh chiếc máy điện báo ở hành lang với những chiếc cổ nghển cao, phòng ăn đông đến mức một số người phải bỏ đi mà không ăn nổi.
Cũng điện Weminster hầu như bị nêm chặt và luôn khuấy động với từng mẩu tin mới. Các phóng viên thời sự chờ đợi những tin truyền trong hành lang và tìm kiếm những quan điểm từ bất cứ một nhà chính trị gia nào đối với cuộc khủng hoảng này khi họ đi qua để vào phòng họp. Một vài người vội đến mức nói một vài điều mà sáng ngày hôm sau phải giải thích lại.
Vào lúc 3 giờ 27 phút, Thủ tướng cùng với Bộ trưởng bộ Ngoại giao và Bộ trưởng bộ Quốc phòng vào Nghị viện và ngồi vào chỗ trên hàng ghế đầu. Cả ba người đều trông có vẻ rầu rĩ.
Vào 3 giờ 30 phút ngài Chủ tịch Nghị viện đứng lên thực hiện nhiệm vụ.
– Các tuyên bố của Nghị viện, – Ông tuyên bố với phong thái quân sự và quả quyết, – Sẽ có hai bản tuyên bố về HMS Broadsword truớc khi Nghị viện tranh luận về sự việc xứ Wales.
Sau đó ông mời Bộ trưởng bộ Quốc phòng phát biểu.
Simon Kerslake đứng lên từ hàng ghế truớc và đặt bản tuyên bố được chuẩn bị sẵn lên bục nói ở trước mặt.
– Thưa ngài Chủ tịch, với sự cho phép của ngài và của Nghị viện, tôi muốn được trình bày về sự việc con tàu cao tốc HMS Broadsword. Vào hồi 7 giờ 40 phút giờ GMT sáng sớm nay tàu HMS Broadsword khi đang đi qua vịnh Surt nằm giữa Tunis và Bonghazi thì bị một nhóm du kích giả làm nhân viên gác biển đặc nhiệm đổ bộ lên và bắt giữ viên thuyền trưởng, ngài chỉ huy Lowrence Packard, và bắt giữ tất cả mọi người. Những người du kích tuyên bố đại diện cho Quân đội nhân dân Libi đã giữ ngài Packard và mọi người trong hầm máy. Cho đến nay mọi tìm hiểu chính xác nhất từ Sứ quán của ta ở Tripoli cho biết không có ai bị thiệt mạng ở đây, không có một giả thiết nào khác ngoài việc con tàu thực hiện những công việc hoàn toàn hợp pháp. Hành động dã man này phải được xem như một vụ cướp biển theo hiệp uớc Geneva trên đại dương. Những du kích này đòi thả những tù nhân người Libi đang ở trong nhà tù Anh để đổi lại con tàu HMS và toàn bộ những người trên tàu. Ngài Bộ trưởng bộ Nội vụ cánh hữu đáng kính, người bạn của tôi đã cho biết rằng hiện nay, chỉ có bốn tù nhân Libi hiện đang trong nhà tù Anh quốc. Trong số họ, hai người bị kết án ba tháng vì tội ăn cắp liên tục ở các cửa hàng, còn hai người kia còn nghiêm trọng hơn bị buộc tội buôn bán thuốc phiện. Chính phủ đáng kính của chúng ta không thể và sẽ không can thiệp trong các vụ xét xử về luật pháp và cũng không có ý định giải phóng những tù nhân này.
Những tiếng “Nghe thấy, đã nghe thấy” vang đến từ mọi ban của Nghị viện.
– Ngài Ngoại trưởng đã đệ trình chính phủ chúng ta bản kiến nghị đến sứ quán Libi đề nghị giải thích, đặc biệt Chính phủ không thể chờ đợi một sự tha thứ về sự đối xử với mọi việc và mọi sự sở hữu riêng của Anh quốc. Chúng ta yêu cầu và chờ đợi những hành động ngay lập tức từ phía Chính phủ Libi.
Simon ngồi xuống trong tiếng ồn ào tán đồng kéo dài truớc khi đến lượt Raymond đứng lên. Cả tòa nhà Nghị viện trở nên im lặng vì người nào cũng rất muốn biết đường lối của đảng Lao động.
– Thưa ngài Chủ tịch, Raymond bắt đầu – đảng Lao động của chúng tôi cũng nhìn nhận hành động dã man này như một vụ cướp biển. Nhưng tôi có thể được hỏi ngài Bộ trưởng bộ Quốc phòng, liệu ông đã có kế hoạch gì cho giai đoạn đầu của cuộc tìm kiếm tàu Broadsword chưa?
Simon lại đứng dậy. “Chúng tôi đã có, thưa ngài Chủ tịch, hiện tại chúng tôi đang tìm một giải pháp ngoại giao. Nhưng tôi vừa gặp ông trưởng ban tổ chức và tôi đang kiếm một bản đệ trình tiếp theo trình Nghị viện vào ngày mai”.
Raymond từ hàng ghế trên lại đứng lên. “Nhưng có thể ngài bên phe cánh hữu của chúng ta sẽ nói cho Nghị viện biết ông sẽ kéo dài cuộc thương lượng bao nhiêu lâu khi chúng ta thông qua giới ngoại giao đã biết rằng Qaddafi là bậc thầy của sự trì hoãn, đặc biệt nếu chúng ta nằm trong sự xét xử của Liên hợp quốc về vấn đề này”.
Có vẻ như đã số thành viên Nghị viện chia sẻ với quan điểm này khi ồn lên tán đồng ý kiến đòi hỏi của Raymond.
Simon đứng lên trả lời: “Tôi đồng ý với điểm quý ngài vừa nói nhưng như ngài biết, khi chính ngài cũng là Bộ trưởng trong Chính phủ, tôi không có quyền được tiết lộ bất cứ một tin tức nào có thể ảnh huởng nghiêm trọng đến sự an toàn của tàu Broadsword”. Raymond gật đầu ưng thuận.
Câu hỏi liên tục được gửi tới Simon. Anh trả lời với sự tự tin khó ai có thể tin rằng anh mới được mời tham gia vào Chính phủ Nội các năm tuần truớc.
Vào hồi 4 giờ 50’, sau khi Simon đã trả lời câu hỏi cuối cùng mà ngài Chủ tịch cho phép, anh về chỗ ở hàng ghế trên nghe lời phát biểu của bộ Ngoại giao. Nghị viện lại một lần nữa lặng im khi Bộ trưởng bộ Ngoại giao đứng dậy và chuẩn bị tờ giấy lớn hai trang truớc mặt. Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào người đàn ông cao lớn, lịch lãm đọc bản tuyên bố đầu tiên của mình kể từ khi anh nhận chức.
– Thưa ngài Chủ tịch, với sự cho phép của ngài và của Nghị viện, tôi muốn được đọc lời tuyên bố liên quan tới HMS Broadsword. Ngay khi tin tức về cảnh ngộ của con tàu Broadsword đến bộ Ngoại giao. Bộ chúng tôi đã có một bản tuyên bố với những lời mạnh mẽ gửi tới chính phủ Libi. Ông đại sứ Libi đã được mời đến bộ Ngoại giao và tôi sẽ gặp lại ông ta ngay sau bản tuyên bố này và những câu hỏi được phát sinh ra từ nó đã được hoàn chỉnh.
Raymond nhìn lên khu vực của khách từ chỗ ngồi của mình tại hàng ghế truớc. Thật là một điều châm biếm của nền ngoại giao hiện đại khi ông đại sứ của Libi ngồi tại Nghị viện Anh ghi chép trong khi ngài Bộ trưởng bộ Ngoại giao Anh đọc diễn văn. Anh cũng không thể tưởng tượng nổi đại tá Qaddafi có mời ông đại sứ Anh ghi chép khi ông ngồi trong nhà mình ngắm những bông hoa. Raymond thấy thú vị khi nhìn thấy một người phụ tá đề nghị ngài Đại sứ dừng ghi chép, lệnh cấm đã được ban ra từ khi Nghị viện thấy cần giữ những bí mật của mình. Mắt anh quay lại dừng ở hàng ghế trước và anh tiếp tục nghe Charles Hampton.
– Ngài Đại sứ của chúng ta đã đệ trình lên Liên hiệp quốc một giải pháp sẽ được đưa ra tranh luận vào trưa hôm nay, và đề nghị những người đại diện các nuớc ở đó ủng hộ Anh quốc chống lại những bạo lực vi phạm Hiệp ước 1958 ở đại dương. Tôi tin tưởng chờ đợi sự ủng hộ của thế giới Tự do. Chính phủ chúng ta sẽ làm mọi điều để vừa giữ quan hệ ngoại giao vừa giữ được tính mệnh của 217 con tin trên tàu.
Simon quay về bộ Quốc phòng để tiếp tục thảo luận với ông Trưởng ban Tổ chức, trong khi đó, Charles được xe đưa ngay đến bộ Ngoại giao.
Khi về đến bộ, Charles được bảo rằng ngài đại sứ Libi đã đợi anh.
– Ông ta có điều gì mới nói với chúng ta không? – Charles hỏi.
– Thẳng thắn mà nói – không.
– Mời ông ta vào.
Charles tắt điếu thuốc và đứng cạnh lò sưởi duới bức chân dung của Palmerston. Mới nhận chức tại bộ Ngoại giao có năm tuần nên anh chưa một lần gặp ông đại sứ.
Ông Kadir – đại sứ Libi – tóc đen, mặc đồ trắng muối, với chiều cao khoảng 1m60 bước vào phòng.
– Ngài Bộ trưởng bộ Ngoại giao? – Ông Kadir mở đầu. Charles lùi ngay lại trong giây phút khi anh nhận thấy chiếc cà vạt Etonia của ngài Đại sứ. Anh giấu ngay điều đó.
– Chính phủ chúng tôi muốn một lời giải thích rõ ràng với Chính phủ của các ngài, – Charles bắt đầu, không cho phép Đại sứ tiếp tục, – rằng chúng tôi xem xét hành động chiếm và giữ con tàu Broadsword như một cuộc cướp biển ở giữa đại duong.
– Cho phép tôi nói? – Ông kadir lại thử bắt đầu.
– Không, ông chưa được nói – Charles đáp – Và sẽ không nói cho đến khi con tàu của chúng tôi sẽ được giải phóng. Chúng tôi sẽ làm mọi điều trong quyền lực của mình để gây áp lực của hai mặt Ngoại giao và Kinh tế với Chính phủ của các ông.
– Nhưng tôi chỉ muốn nói? – Ông kadir lại cố thử.
– Thủ tướng của chúng tôi cũng muốn ông biết rằng bà muốn nói với lãnh đạo nuớc ông với mọi khả năng cho phép nhất, vì vậy tôi muốn nghe câu trả lời từ ông trong vòng một giờ.
– Vâng, thưa ông Bộ truởng, nhưng tôi có thể…
– Và ông có thể báo cáo tiếp rằng chúng tôi sẽ có quyền dùng bất cứ một biện pháp nào chúng tôi thấy thích hợp nếu các ông thất bại trong việc giải phóng an toàn tàu HMS Broadsword và hành khách của nó đang bị giam vào 12 giờ, giờ GMT trưa ngày mai. Tôi có giải thích rõ ràng không?
– Rõ thưa ngài Bộ truởng, nhưng tôi vẫn muốn hỏi?
– Chúc một ngày tốt lành, ông Kadir.
– Bây giờ chúng ta làm gì? – Anh hỏi khi vị Thứ trưởng quay lại sau khi đã tiễn Kadir đến thang máy.
– Chúng ta đang chơi một trò chơi ngoại giao cổ điển.
– Anh muốn nói gì? – Charles hỏi.
– Chính sách ngồi và đợi của chúng ta. Chúng ta cực kỳ giỏi điều đó, – Thứ trưởng nói, – nhưng khi đó chúng ta đã đợi chờ gần 1000 năm.
– Được rồi, trong khi chúng ta ngồi đợi, ít nhất chúng ta hãy thực hiện vài cú điện thoại. Tôi sẽ bắt đầu với ông Bộ trưởng bộ Ngoại giao Kirkpatric ở Washington và sau đó tôi muốn nói với ngài Grumuko của Moscow.
Khi Simon quay trở về bộ Quốc phòng từ Nghị viện, anh được thông báo rằng ban Tổ chức đã tập hợp ở trong phòng của anh để chuẩn bị cuộc họp chiến luợc vào ngày mai. Khi anh bước vào phòng và ngồi vào bàn, các Trưởng ban Tổ chức đứng dậy.
– Xin chào các ngài – Simon nói – xin mời ngồi. – Có thể cho tôi biết các tin tức cập nhật về tình trạng mới nhất, ông John?
Đô đốc hải quân, ngài John Fieldhouse, tham mưu trưởng bộ Quốc phòng sửa lại cặp kính và chỉnh lại những tờ giấy truớc mặt ông.
– Rất ít sự thay đổi trong giờ cuối, thưa ngài. – Ông bắt đầu – văn phòng Thủ tướng vẫn chưa đạt được kết quả nối liên hệ với đại tá Qaddafi. Tôi e rằng chúng ta phải xử lý việc bắt giữ tàu Broadsword như một hành động khủng bố trắng trợn. Trong trường hợp như vậy, chúng ta có thể hoặc đấu khẩu hoặc chiến tranh. Với những suy nghi này, ủy ban có thể lập một kế hoạch chi tiết để giải phóng HMS Broadsword.
Simon chăm chú nghe ông John trình bày lại bản kế hoạch chiến luợc cụ thể. Ngồi xung quanh bàn là tám vị chuyên gia quân sự từ ban Tham mưu của quân đội, hải quân và không quân, và ngay cả bản dự thảo đầu tiên này cũng mang dấu ấn của 300 năm kinh nghiệm quân sự. Trong một tiếng, anh hỏi các vị tham mưu quân sự từ những câu hỏi đon giản nhất đến những câu hỏi làm sáng tỏ cả bên trong vấn đề. Khi Simon rời phòng đến tham dự cuộc họp Nội các tại số 10, các vị tham mưu đã cập nhật hầu như toàn bộ vấn đề. Simon chậm rãi đi bộ từ bộ Quốc phòng đến phố Downing, viên thám tử đi bên cạnh. Downing chật những con người nghiêm nghị đến quan sát những vị bộ trưởng có liên quan đến cuộc khủng bố này đến và đi. Simon ngạc nhiên thấy nhiều phóng viên lúc bình thuờng hay hoài nghi, chỉ trích nay cũng hét lên “Chúc may mắn” và “Hãy đưa các chàng trai của chúng ta trở về”.
Cửa ngoài mở, anh đi thẳng qua hành lang bên ngoài vào phòng họp của Nội các Chính phủ, nơi 22 đồng nghiệp của anh đang đợi. Một phút sau, bà Thủ tướng bước vào, ngồi cùng phía với Charles và đối diện với Simon.
Bà Thatcher bắt đầu bằng việc thông báo cho các đồng sự của bà rằng bà chưa thể liên lạc với Đại tá Qaddafi và họ phải quyết định tại đây một đuờng lối hành động không tính đến sự ưng thuận của ông ta. Bà mời Bộ trưởng bộ Ngoại giao thông báo tình hình truớc tiên.
Charles nhắc lại những việc mà bộ Ngoại giao đã thực hiện. Anh thuật lại cuộc gặp của anh với đại sứ Kadir và những kết luận được đề nghị tại Liên hợp quốc và đã được thảo luận tại phiên họp khẩn cấp của Đại hội đồng.
Anh vui mừng thông báo với chính phủ rằng các ngoại trưởng của cả hai nuớc Mỹ và Nga đều đồng ý ủng hộ Anh trong các nỗ lực ngoại giao một cách lâu dài khi còn chưa có hành động trả đũa. Charles kết thúc bằng sự nhắc nhở các đồng sự về tầm quan trọng của việc xử lý toàn bộ việc như một vụ cướp biển hơn là một hành động gây tổn hại do bàn tay của chính phủ Libi gây nên.
Một sự tinh tế hợp pháp, Simon nghĩ khi ngắm những bộ mặt của các đồng nghiệp đang ngồi xung quanh bàn. Họ bị ấn tượng rõ ràng vì Charles đã được hai cuờng quốc cùng ủng hộ. Bộ mặt của bà Thủ tướng vẫn giữ bí hiểm. Bà mời Simon trình bày tin tức của anh.
Theo báo cáo của Simon tàu Broadsword, kể từ cuộc họp cuối của chính phủ, đã đi vào vịnh Surd và bỏ neo; không có hy vọng đổ bộ lên tàu bằng đuờng biển. Ngài chỉ huy tàu và nhóm 217 con tin vẫn bị giam giữ trong hầm máy. Từ bản báo cáo xác nhận mà Simon nhận được vào giờ cuối, mọi người trên tàu bị trói và bịt miệng, hệ thống quạt gió cũng tắt.
– Tôi cho rằng – Simon tiếp tục – ở đây, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc dựng lên một chiến dịch cứu trợ. Chúng ta càng gác lâu quyết định này lại, trách nhiệm của chúng ta càng nặng nề thêm.
– Nhưng nếu kế hoạch của các anh bị thất bại? – Charles ngắt lời – chúng ta có thể bị đe dọa mất không chỉ con tàu Broadsword và hành khách của nó, mà còn những mong muốn tốt đẹp của thế giới Tự do.
– Chúng ta có thể là ngốc nếu nắm giữ sự mạo hiểm vô ích trong khi chúng ta có những ý kiến ủng hộ của thế giới đứng về phía chúng ta – Charles phản đối – chúng ta hãy đợi thêm ít nhất vài ngày nữa.
– Tôi sợ rằng nếu chúng ta đợi – Simon đáp lại – mọi người sẽ bị chuyển từ tàu sang một nhà tù quân sự, và sẽ gây ảnh huởng đến kết quả của hai mục tiêu tập trung của chúng ta, và lúc đó, Qaddafi có thể ngồi khoanh chân vòng tròn trong sa mạc đợi bao lâu ông ta muốn.
Simon và Charles còn tiếp tục cân nhắc những yếu tố phản và thuận của sự việc, trong lúc đó bà Thủ tướng ngồi nghe và để ý nhìn cách tiếp nhận hay phản đối của các đồng nghiệp khác của bà. Sau ba tiếng đồng hồ, khi đã hết các ý kiến, bà đã ghi được 14-9 vào tờ giấy truớc mặt.
– Tôi nghĩ rằng chúng ta đã tranh luận kỹ, thưa các ngài, – bà nói – tôi thấy chúng ta cần phải nghiêng cán cân cho phép ngài Bộ trưởng bộ Quốc phòng, tiến hành chiến dịch với cái tên “Shoplifter”. Tôi cũng đề nghị luôn ở đây rằng ngài Bộ trưởng bộ Ngoại giao, Bộ trưởng bộ Quốc phòng, ngài Chưởng lý và tôi sẽ tạo thành một tiểu ban có sự giúp đỡ của một đội ngũ các chuyên viên sẽ xem xét kế hoạch của các ngài tham mưu. Và, cùng với tiểu ban, các ngài Bộ trưởng sẽ quay về các bộ của mình và tiến hành các công việc thường ngày của họ. Xin cám ơn các ngài. – Bà Thủ tướng đề nghị Simon và Charles cùng về phòng làm việc của bà.
Ngay sau khi đóng cửa lại, bà nói với Charles: “Xin hãy cho tôi biết về thời điểm anh nghe thấy các kết quả của cuộc bầu cử ở Đại hội đồng. Bây giờ, khi chính phủ ta ưu tiên sáng kiến quân sự, điều rất quan trọng là anh đã được coi như người yêu cầu cho giải pháp ngoại giao”.
– Vâng, thưa Thủ tướng – Charles đáp không phấn khởi.
Sau đó Thủ tưởng quay sang Simon. – “Khi nào tôi có thể xem mọi chi tiết của kế hoạch của các nhà tham mưu?”.
– Chúng tôi định bàn bạc qua đêm và tôi có thể sẽ có một bản tường trình đầy đủ trước bà vào 10 giờ sáng mai.
– Simon, không được muộn hơn. – Bà Thủ tướng nhắc, còn bây giờ, vấn đề tiếp theo của chúng ta là cuộc tranh luận khẩn cấp được đưa ra ngày mai.
Hai người đàn ông nhìn nhau, trong một khoảng khắc cùng chung một sự bực bội với ý nghĩ đã phải lãng phí hàng tiếng đồng hồ quý báu trong Nghị viện.
– Charles, anh phải chuẩn bị để mở một cuộc tranh luận cho chính phủ và anh, Simon, anh sẽ phải thổi lên. Cuối cùng thì cuộc tranh đấu của chúng ta vào trưa thứ Năm, bằng cách này một vài đồng nghiệp của chúng ta có thể sẽ về nhà nghỉ cuối tuần, dù thẳng thắn thì tôi nghi ngờ điều đó. Nhưng với một sự may mắn bất kỳ chúng ta sẽ có một thắng lợi tinh thần đảm bảo ở Liên Hợp Quốc và chúng ta sẽ giữ cho mọi suy nghĩ của phe Đối lập tập trung vào đó. Khi anh tóm tắt, Simon, chỉ trả lời câu hỏi đặt ra trong cuộc tranh luận. Không được thêm một đề xuất nào nữa.- Sau đó bà nói thêm – Hãy báo bất cứ một tin nào thẳng cho tôi, tối nay tôi sẽ không thể ngủ được.
Charles quay trở lại văn phòng bộ Ngoại giao và thầm cám ơn rằng ít nhất là lúc này Amanda cũng đã đi đâu đó ở Nam Phi.
Simon quay trở về với những tham mưu của mình và thấy tấm bản đồ hải phận của Libi đã được ghim lên bảng đen. Các vị tướng, các đô đốc và thống chế đang nghiên cứu các đường ranh giới và độ sâu của đại dương giống như những đứa trẻ đang chuẩn bị cho bài kiểm tra địa lý. Mọi người đều đứng cả dậy khi Simon bước vào. Họ nhìn anh trong sự chuẩn bị trước, những con người hành động đang nghi ngờ câu chuyện. Khi Simon kể lại cho họ quyết định của Nội các ủng hộ Bộ trưởng bộ Quốc phòng, nụ cười đã nở ra trên mặt ông John. ” Có lẽ cuộc đấu tranh này sẽ là cuộc đấu tranh nặng nề nhất của chúng ta”. Ông nói chỉ vừa đủ cho mọi người nghe.
– Hãy nói lại cho tôi kế hoạch này lần nữa, – Simon nói và không để ý tới lời bình luận của ông John. – Tôi phải trình duyệt lên Thủ tướng vào 10 giờ sáng mai.
Ông John chỉ chiếc que gỗ dài và mô hình của tàu HMS đang nằm trải dài trong nước của vùng vịnh được bảo vệ kỹ càng.
Khi Charles đến Bộ, trên bàn anh đã có một chồng những điện báo và điện tín ủng hộ giái pháp ngoại giao. Thứ trưởng thường trực đã báo cáo rằng cuộc tranh đấu ở Liên hiệp quốc đã nghiêng hẳn về một phía nên anh đoán trước đã được đa số áp đảo khi họ phải bỏ phiếu bầu. Charles sợ rằng tay anh đã bị buộc chặt, anh cần phải được thông qua bản kiến nghị, ngay cả do các nhân viên của anh cho dù anh vẫn chưa từ bỏ hy vọng làm hỏng kế hoạch của Simon. Anh mong muốn sự việc được kết thúc với chiến thắng của bộ Ngoại giao mà không phải của những người thích chiến tranh ở bộ Quốc phòng.
Sau khi đã thảo luận với Thứ trưởng, anh đã chỉ định một lực lượng có nhiệm vụ chóng Libi bao gồm một vài quan chức lớn tuổi của bộ Ngoại giao có kinh nghiệm về Qaddafi. Oliver Milar, cựu đại sứ ở Libi cũng đã được lôi từ ngôi nhà nghỉ hưu tiện nghi của mình ở Wilshire tới ở một căn phòng nhỏ gần bộ Ngoại giao để Charles có thể dùng tới sự hiểu biết của ông về Libi bất cứ lúc nào, ngày hoặc đêm.
Charles đề nghị Thứ trưởng liên lạc cho anh với đại sứ của Anh ở Liên hiệp quốc và tiếp tục tìm cho ra Qaddafi.
Simon nghe ông John trình bày lại lần cuối chiến dịch Shoplifter. Ba mươi bảy người từ đội tầu đặc nhiệm rất thiện chiến, một nhánh còn lại của SAS đã từng tham gia cuộc vây hãm quảng trường St.James vào tháng Tư 1984 hiện đang ở Rosyth trên bờ biển Scotland để chuẩn bị lên tàu HMS Brilliant, con tàu anh em với tàu Broadsword. Những người này sẽ lên từ con tàu ngầm cách một dặm phía ngoài cảng Roysth và sẽ bơi chìm nửa người dưới nước một dặm còn lại đó cho tới được con tàu. Họ sẽ phải đổ bộ lên tàu Brilliant và phải chiếm lại được Brillian từ một nhóm người giả làm người Libi trong thời gian đã xác định là mười hai phút. Tàu Brillian sau đó sẽ neo ở khoảng cách một hải lý cách bờ biển Scotland và toàn bộ chiến dích cần phải được hoàn thành trong sáu mươi phút. Nhóm SBS đặt kế hoạch diễn tập quá trình trên tàu Brillian ba lần trước khi rạng sáng và họ hy vọng sẽ giảm toàn bộ thời gian diễn tập được dưới một tiếng.
Simon đã được khẳng định rằng hai chiếc tàu ngầm đang được đi hết công suất từ Địa trung hải hướng về bờ biển Libi. Phần còn lại của hạm đội được thấy rõ ràng đang làm những nhiệm vụ hàng ngày của mình, trong khi bộ Ngoại giao đang tìm kiếm một giải pháp ngoại giao.
Yêu cầu của Simon tới ông Trưởng ban Tổ chức chiến dịch không bị coi là một điều ngạc nhiên và được tiếp nhận ngay. Anh gọi điện về nhà giải thích tại sao anh không thể về nhà tối nay. Một giờ sau Bộ trưởng bộ Quốc phòng đã ở trên chiếc máy bay trực thăng và được đưa tới Rosyth.
Charles tuân theo những người tiền nhiệm tại Liên hiệp quốc sống trong Bộ của anh. Vào cuối buổi trình bày cuộc tranh luận một cuộc bỏ phiếu đã được đề nghị. Ngài Tổng thư ký tuyên bố 147-3 về phía ủng hộ Anh quốc, với 22 phiếu chống. Charles tự hỏi với số phiếu liệu áp đảo như vậy có thể đủ để bà Thủ tướng thay đổi quyết định với kế hoạch của Kerslake. Anh kiểm tra danh sách bầu cử lại cẩn thận. Những người Nga, cùng với các nước thuộc hiệp ước Vasava và những người Mỹ đã giữ lời hứa với nước Anh. Chỉ có Libi, nam Yemen và Djibouti bỏ phiếu chống. Charles đã chạy ngay đến Downing để thông báo tin mới. Bà Thủ tướng, dù vui sướng với thắng lợi Ngoại giao vẫn từ chối bỏ cuộc cho đến khi bà nghe được về Qaddafi. Charles bỏ ống nghe xuống và đề nghị ông Thứ trưởng gọi điện mời ngài đại sứ Kardi đến bộ Ngoại giao lần nữa.
– Nhưng đã 2 giờ sáng, thưa ngài Bộ trưởng.
– Tôi hoàn toàn nhận thức được bây giờ là mấy giờ, nhưng tôi không thấy lý do tại sao trong khi chúng ta tất cả đều đang thức thì ông ta có thể lại có một giấc ngủ yên lành.
Khi ngài Kardi xuất hiện ở bộ Ngoại giao, Charles cảm thấy chán ngán phải nhìn thấy người đàn ông bé nhỏ trông vẫn tươi tỉnh và bảnh bao. Rõ ràng là ông ta đã cạo râu và thay áo sơ mi mới.
– Ngài cho gọi tôi, thưa ngài Bộ trưởng? – ngài Kardi hỏi rất lịch sự, như thể ông ta được mời đến dự buổi uống chè buổi trưa.
– Vâng, – Charles đáp, – chúng tôi mong được báo cho ngài biết về cuộc bỏ phiếu tại Liên hiệp quốc một giờ trước ủng hộ Điều luật 12/40 của Anh quốc. Trong cuộc bỏ phiếu này, chính phủ của các ngài đã bị các lãnh đạo của 90% nhân dân toàn thế giới chỉ trích – một tin mà ông Thứ trưởng mới thông tin cho Charles biết vài phút trước khi ông Kardi đến.
– Vâng, ngài Bộ trưởng.
– Thủ tướng của chúng tôi vẫn đợi nghe từ phía những người lãnh đạo của các ngài.
– Vâng, ngài Bộ trưởng.
– Ông đã nối được liên lạc với Đại tá Qaddafi chưa?
– Vâng, ngài Bộ trưởng.
– Nhưng ông có đường dây thẳng nối với ban chỉ huy của ông ấy cơ mà?
– Khi ấy, ngài cũng sẽ được rõ, ngài Bộ trưởng, rằng tôi không thể liên lạc được với ông ấy – Kardi nói với nụ cười giễu cợt.
Charles nhìn thấy vị Thứ trưởng cụp mắt xuống. “Tôi có thể nói với ông từng tiếng một, nhưng đừng có đẩy lòng hiếu khách của chúng tôi đi quá xa.”
– Không, ngài Bộ trưởng.
– Chúc ngủ ngon, ngài Kardi.
– Chúc ngủ ngon, ngài Bộ trưởng.
Ông Kardi quay đi và rời bộ Ngoại giao được xe đưa về sứ quán. Ông nguyền rủa ngài Charles Hampton cánh hữu. Ông ta có biết rằng mình chưa hề quay về Libi kể cả về thăm mẹ, từ khi lên bốn tuổi? Đại tá Qaddafi không đếm xỉa tí gì về vị Đại sứ của mình dù sự việc lớn như ông có thể là Thủ tướng nước Anh. Ông xem lại đồng hồ: đã 2:44.
Chiếc trực thăng chở Simon hạ đất lúc hai giờ bốn mươn nhăm phút. Anh và ông John được chở ngay đến bến tàu và sau đấy lên phà để lên tàu HMS Brillian trong đêm tối mù sương.
– Ngài Bộ trưởng đầu tiên không được đón tiếp bằng tiếng kéo còi tàu. – Ông John nói khi Simon đi với sự khó khăn, cây gậy đầu đen của anh đập trên sàn sắt. Thuyền trưởng chỉ huy tàu không thể tin nổi ở con mắt mình khi nhìn thấy những vị khách không mời, và ông giúp cho họ nhanh chóng qua cầu. Ông John thầm thì một điều gì vào tai thuyền trưởng mà Simon không nghe thấy được.
– Khi nào sẽ diễn ra một cuộc tập kích tiếp theo? Simon hỏi, cố gắng nhìn từ cầu tầu nhưng không thể nhìn xa hơn trước mặt anh vài yard.
– Họ sẽ rời tàu ngầm vào 3.00 – thuyền trưởng trả lời – và có thể sẽ cập tàu Brillian khoảng 3.20.
Simon xem đồng hồ: đã ba giờ kém năm. Anh nghĩ SBS đang chuẩn bị nhiệm vụ của họ, không biết rõ rằng Bộ trưởng và Tham mưu Trưởng bộ Quốc phòng đang ở trên tàu Brillian đợi họ. Anh kéo cổ áo khoác lên. Thình lình, anh bị ném xuống sàn tàu, một bàn tay đen và đầy dầu mỡ bịt lấy mồm anh trước khi anh kịp chống trả. Anh cảm thấy tay anh bị trói giật lại về phía sau và mắt bị một dải băng bịt lại, mồm anh bị giẻ nhét. Anh cố gắng để trả miếng nhưng nhận được một cùi trỏ nhọn vào sườn. Sau đó anh bị ném xuống cầu thang nhỏ và rơi xuống sàn gỗ. Anh nằm giống như một con gà như vậy khoảng 10 phút trước khi anh nghe thấy tiếng máy tàu nổ và cảm thấy sự chuyển động của tàu phía dưới anh. Ngài Bộ trưởng không thể động đẩy thêm khoảng 15 phút nữa.
“Hãy cởi trói cho họ, Simon nghe thấy một giọng Anh – Oxford rõ ràng. Dây trói tay anh được cởi, băng bịt mắt và giả bịt mồm cũng được bỏ ra. Đứng cạnh ngài Bộ trưởng là một người nhái SBS, đen từ đầu đến ngón chân, hàm răng trắng của anh ta lóe lên trong nụ cười toe toét. Simon vẫn còn đang ngạc nhiên khi quay lại và nhìn thấy ngài chỉ huy cũng vừa được cởi trói.
– Tôi phải rất xin lỗi, thưa ngài Bộ trưởng – ông John nói, ngay khi vừa được bỏ giẻ bịt mồm. – Nhưng tôi đã nói để chỉ huy tàu không thông báo cho chỉ huy tàu ngầm biết sự có mặt của chúng ta trên tàu. Nếu tôi mạo hiểm cuộc sống của 217 người, tôi muốn những người từ SBS chắc chắn rằng họ được chuẩn bị đến thế nào. Simon quay khỏi người đàn ông cao hơn một mét tám mươi vẫn còn đang phô nụ cười toe toét.
– Chúng ta đã làm một điều tốt là không đưa bà Thủ tướng cùng đi. – Ông John nói.
– Tôi đồng ý, – Simon trả lời và nhìn vào người chỉ huy đội SBS. – Bà ấy có thể bẻ gãy cổ anh ta. Mọi người đều ồ lên cười, trừ một người mím môi lại.
– Xảy ra chuyện gì với anh vậy?
– Nếu anh ta chỉ có một âm thanh nhẹ trong 60 phút này, anh ta sẽ không được chọn và đội ngũ chiến đấu cuối cùng.
– Đảng Bảo thủ có thể cũng làm điều tương tự như vậy với những Nghị viện từ hàng ghế trái của Quốc hội. – Simon nói – Đặc biệt khi ngày mai tôi đến Nghị viện và giải thích rằng tôi đang không làm một điều gì cả.
Vào 3:45 tàu Brillian lại một lần nữa ra ngoài hải phận.
Những dòng tít lớn trên các tờ báo sáng ngày hôm sau, từ “Chiến thắng ngoại giao” trên tờ Time đến “Qaddafi – tên cướp biển” trên tờ Mirror.
Tại cuộc họp kín của Nội các, Simon báo cáo những kết quả bước đầu của chiến dịch Shoplifter lên Thủ tướng.
Charles nhanh chóng tiếp lời anh: “Nhưng sau cuộc bỏ phiếu áp đảo ủng hộ chúng ta tại Liên hiệp quốc, điều nhạy cảm cho chúng ta là phải dừng ngay lại bất kỳ điều gì có thể được xem như một hành động thẳng thừng của sự xâm lược”.
– Nếu như đội SBS không tiến hành vào sáng mai, thưa Thủ tướng, chúng ta sẽ không bao giờ còn có cơ hội tốt như vậy nữa. Simon nói, ngắt lời.
Mọi cặp mắt đổ dồn về phía Kerslake.
– Tại sao? – Bà Thatcher hỏi.
– Bởi vì ngày lễ Ramandan sẽ kết thúc vào cuối ngày hôm nay, và ngày mai những người Hồi giáo sẽ ngừng những ngày ăn chay của họ. Theo truyền thống thì đó là ngày tiệc tùng liên miên và điều đó cũng có nghĩa là ngày mai sẽ là cơ hội tốt nhất cho chúng ta để bắt giữ những người du kích đang canh gác. Tôi đã kiểm tra toàn bộ chiến dịch ở Rosthy và lúc này đội SBS đang trên đường tới những chiếc tàu ngầm để chuẩn bị tốt cho cuộc tấn công. Mọi điều đều được ăn khớp rất nhịp nhàng tới mức rõ ràng tôi không muốn bỏ đi một cơ hội tốt đến thế, thưa Thủ tướng.
– Đây là một kết luận tốt – Thủ tướng đồng ý – cho tới kỳ nghỉ cuối tuần tới của chúng ta, chúng ta phải cầu nguyện cho sự hỗn loạn này sẽ được kết thúc vào sáng ngày thứ Hai. Hãy để cuộc thương lượng của chúng ta trước Nghị viện vào trưa nay. Tôi trông chờ một buổi trình diễn hết sức thuyết phục của anh, Charles ạ.
Khi Raymond đứng lên lúc 3:30 buổi trưa thứ Năm đề nghị lần thứ hai một cuộc tranh luận khẩn cấp, ngài Chủ tịch chấp nhận yêu cầu của anh, chỉ ra rằng sự cấp bách của vấn đề đảm bảo cuộc tranh luận sẽ bắt đầu vào bảy giờ tối nay.
Phòng họp nhanh chóng trống rỗng vì các Nghị viên rút đi để chuẩn bị các bài diễn văn của họ, dù tất cả họ đều biết rằng chưa đến 2% trong số họ mới hy vọng được nói. Ngài Chủ tịch rời khỏi Nghị viện và không quay lại cho đến bảy giờ kém năm, ngồi vào chiếc ghế mà người phó đưa cho ông.
Vào bảy giờ, khi Charles và Simon đến Nghị viện, 37 người SBS đã ra nước ngoài. Tàu ngầm Conqueror nằm dưới đại dương cách xa bờ biển Libi khoảng 60 hải lý. Chiếc tàu ngầm thứ hai Courageous ở cách 10 hải lý so với con tàu thứ nhất.
Cả hai tàu đều tắt radio thông tin từ 12 giờ.
Thủ tướng vẫn không có tin gì từ đại tá Qaddafi và họ chỉ còn lại 8 giờ cho đến chiến dịch Shoplifter. Simon nhìn quanh Nghị viện. Không khí như của ngày duyệt ngân quỹ của nhà nước, sự im lặng sợ hãi bao trùm khi ngài chủ tịch gọi Raymond Gould lên phát biểu.
Raymond bắt đầu bằng việc giải thích tại sao dưới điều luật hiện hành N.10, vấn đề anh nêu lên lại đặc biệt quan trọng và cần thiết một sự xem xét khẩn cấp. Anh nhanh chóng chuyển sang yêu cầu ngài Ngoại trưởng khẳng định nếu sự thương thuyết với Qaddafi bị thất bại hoặc trắc trở, thì ngài Bộ trưởng bộ Quốc phòng không do dự thực hiện một hành động cần thiết để tìm thấy HMS Broadsword. Simod ngồi trên hàng ghế trước trông ảm đạm và đang lắc đầu.
– Qaddafi không gì hơn là một tên cướp biển – Raymond nói – tại sao lại nói về một giải pháp ngoại giao?
Nghị viện đồng tình với từng câu đã được chuẩn bị kỹ và được Raymond phát ngôn.
Simon nghe chăm chú đồng tình với ý kiến của Raymond và biết rằng nếu vai trò của họ được đảo ngược sẽ không có điều gì khác hơn được xảy ra.
Khi Raymond ngồi xuống, tiếng ồn ào vang lên từ mọi góc của phòng họp và kéo dài vài phút trước khi ngài chủ tịch ổn định lại được trật tự. Ông Kardi ngồi tại gian dành cho khách đặc biệt chăm chú nhìn xuống dưới cố gắng ghi nhớ những điểm chính đã được quyết định và mọi phản ứng của Nghị viện với chúng, và do vậy nếu ông có cơ hội, ông có thể chuyển chúng cho đại tá Qaddafi.
– Ngài Ngoại trưởng. – Ngài chủ tịch mời Charles đứng lên từ hàng ghế của bộ Tài chính. Anh đặt bài diễn văn lên bục phát biểu và chờ đợi. Cả Nghị viện lại rơi vào im lặng.
Charles mở đầu bằng sự nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng cuộc bầu cử tại Liên hiệp quốc như nền tảng cho một sự sắp xếp thương lượng. Anh tiếp tục nói sự ưu tiên hàng đầu của anh là việc cứu mạng 217 con người trên tầu HMS Broadsword, và anh sẽ làm việc không mệt mỏi cho kết thúc đó. Tổng thư ký hội đồng hy vọng nối được liên lạc riêng với đại tá Qaddafi và thông báo cho ông ta biết những cảm xúc mạnh mẽ của mọi đồng nghiệp tại Đại hội đồng. Charles nhấn mạnh việc thực hiện bất kỳ một chiến dịch nào trong thời điểm này sẽ chỉ làm mất đi sự ủng hộ và những điều tốt đẹp từ thế giới tự do. Khi Charles ngồi xuống, anh nhận thấy Nghị viện huyên náo đã không được thuyết phục.
Sự ủng hộ từ những dãy ghế sau đã khẳng định niềm tin của Thủ tướng và Simon rằng họ đã đánh giá đúng mọi cảm xúc của dân tộc, nhưng không một ai cho phép một sự biểu lộ cảm xúc nhỏ nhất trên mặt họ và gây hy vọng cho những người yêu cầu các biện pháp quân sự.
Cho đến thời gian mà Simon đứng lên thuyết phục Chính phủ vào lúc 9:30 tối đó, anh đã trải qua hai tiếng rưỡi trong phòng để nghe những người đàn ông và phụ nữ nói những điều anh cần làm đúng như anh vừa làm. Anh ủng hộ yếu ớt Bộ trưởng bộ Ngoại giao trong việc thuyết phục được giải pháp ngoại giao. Nghị viện đã hồi tỉnh lại, và khi đồng hồ điểm 10 tiếng, Simon ngồi xuống trong tiếng kêu: “Từ chức” từ một vài đồng sự phía anh và nhiều hơn từ bên phía cánh hữu của đảng Lao động.
Raymond quan sát kỹ khi Kerslake và Hampton rời khỏi Nghị viện. Anh tự hỏi điều gì thực sự đang diễn ra đằng sau cánh cửa khép kín của Số 10 Downing.
Khi Raymond quay về nhà sau cuộc tranh luận, Joyce chúc mừng bài diễn văn của anh và nói thêm: “Nhưng nó cũng không gợi lên thêm trách nhiệm từ Simon Kerslake”.
– Anh ấy được chuẩn bị một điều gì đó, – Raymond đáp – Anh chỉ ước mình ngồi trong phòng làm việc của anh ta tối nay và có thể biết được điều đó là gì.
Khi quay trở lại Bộ, Simon gọi điện cho Elizabeth và giải thích rằng anh có thể phải trải qua thêm một đêm nữa tại bộ Quốc phòng.
– Một vài phụ nữ làm mất người đàn ông của mình cho những cố gái lạ lùng nhất, – Elizabeth nói, – tiện thể, con gái anh muốn biết liệu anh có thời gian để xem nó chơi khúc côn cầu buổi kết thúc vào thứ Bảy.
– Hôm nay là ngày thứ mấy?
– Mới có thứ Năm. – Cô đáp – hãy nghĩ xem, chỉ có mình anh là đang có nhiệm vụ của bộ Quốc phòng.
Simon biết rằng những cố gắng của cuộc cứu trợ bằng cách này hay cách khác cũng phải kết thúc vào thời gian của bữa trưa mai. Vậy tại sao anh lại không thể xem buổi chơi khúc côn cầu trên cỏ của con gái anh cơ chứ?
– Hãy nói với Lucy rằng anh sẽ đến đó.
Mặc dù không điều gì có thể đạt được giữa khoảng thời gian từ nửa đêm đến 6 giờ và các tàu ngầm đã ở vào chỗ của mình, không ai từ ban tham mưu rời khỏi phòng điều hành chiến dịch. Sự im lặng của radio liên lạc suốt đêm không một lần bị phá vỡ trong khi Simon cố gắng tạo cho mình công việc bằng những chiếc hộp đỏ phồng những vấn đề đòi hỏi sự chú ý của anh. Anh lợi dụng sự có mặt của ban tham mưu và có hàng trăm câu hỏi chất vấn trong những phút mà bình thường có thể làm mất một tháng của anh.
Vào nửa đêm, những bản in đầu tiên của các tờ báo buổi sáng được mang đến cho anh.
Simon gắn tờ Telegraph lên trên bảng điều hành chiến dịch với hàng tít Kerslake ở Hmammock của mình cho đến khi Armada vĩ đại đến. Bài báo đòi phải biết làm sao vị anh hùng của Bắc Ireland còn có thể trù trừ đến thế, khi các thủy thủ Anh quốc bị trói và nhét giẻ nằm ở hải phận nước ngoài, và kết thúc bằng những từ. Ngài chỉ huy, ngài ngủ dưới đó à? “không chớp mắt” – Simon tự trả lời. “Từ chức” là một đầu đề duy nhất của báo “Daily Express”. Ông John nhìn qua vai ngài Bộ trưởng và đọc trang báo mở.
– Tôi không khi nào hiểu nổi, tại sao lại có người muốn trở thành chính trị gia, – ông nói trước khi báo cáo. – Chúng ta vừa nhận được tin thám báo rằng hai con tàu ngầm Conquer và Courageous đã tiến vào chỗ.
Simon cầm chiếc gậy đầu đen từ cạnh bàn và rời ban tham mưu đi đến phố Downing. Anh đi qua những người quét đường buổi sáng đang trên đường đi làm trước khi London tỉnh giấc và bắt đầu một ngày mới. Họ gọi anh: “Chúc buổi sáng tốt lành, ngài Simon” và “Các ông đã đưa con tàu của chúng ta về chưa?”.
– Hãy hỏi tôi vào lúc ba giờ – anh muốn nói như vậy, nhưng chỉ mỉm cười.
Anh tìm thấy bà Thủ tướng đang ngồi trong phòng Nội các trong chiếc áo tắm.
– Chẳng có ích gì cả, tôi không thể ngủ được. – Bà giải thích. Simon nhắc lại lần nữa kế hoạch cuối cùng với mọi chi tiết lớn, anh giải thích rằng mọi điều đều sẵn sàng và có thể kết thúc vào thời gian ăn sáng.
– Hãy cho tôi biết vào thời điểm mà anh nghe thấy bất cứ điều gì, dù là không đáng kể. – Bà kết thúc trước khi bước vào căn phòng ảm đảm và tiết kiệm từ thời của Wyne Goldley, người cho rằng đồng bảng và đồng đô la có thể là một đôi cân bằng vào năm 1990 – Một ngày nào đó anh sẽ có tất cả những vấn đề này trên vai mình.
Simon mỉm cười và từ biệt bà trở về lại Bộ ở phía khác của Whtchall. Anh dừng lại ngắm bức tượng của Montgomery đứng trên cỏ ở phía trước bộ Quốc phòng và ngẫm nghĩ, biết bao nhiêu vị tướng quân đã thích thú với những cuộc đụng độ để chiếm được chỗ. Vầng trăng tròn chiếu sáng giống như một vòng cung ánh sáng chiếu xuống nhà thờ Thánh Pol khi anh vội bước trở về nơi làm việc.
Vào lúc 1 giờ, anh vào ban tham mưu. Không ai trông có vẻ mệt mỏi, cho dù họ đã cùng thức đêm với các chiến hữu của mình cách xa hai nghìn dặm. Họ nói những câu chuyện về Suer và Falkland và ở đó đã thường xuyên có tiếng cười. Nhưng nó cũng không kéo dài lâu khi mọi cặp mắt của họ lại hướng về chiếc đồng hồ.
Đồng hồ Big Ben điểm một hợp âm, Simon nghe “đã ba giờ ở Libi”. Anh có thể thấy được những người đang nhảy về một bên tàu và chìm sâu vào nước trước khi bắt đầu phải bơi một khoảng cách dài và chậm đến con tàu Broadsword.
Simon quay về bàn làm việc và trải qua một giờ dài nhất của cuộc đời.
Khi chuông điện thoại réo phá vỡ sự im lặng đáng sợ như tiếng còi cứu hỏa, Simon nhấc máy và nghe giọng nói của Charles Hampton.
– Simon, anh nói – cuối cùng tôi cũng nối liên lạc được với Qaddafi, ông ta muốn thương lượng. Simon nhìn đồng hồ, những người đang lặn chỉ còn có 100 yard nữa là đến tàu Broadsword.
– Đã quá muộn, – anh đáp lại – tôi không thể dừng họ lại bây giờ nữa.
– Đừng là một anh ngốc khát máu như vậy, hãy ra lệnh để họ quay trở về. Anh không hiểu rằng chúng ta đã có một chiến thắng ngoại giao rồi à?
– Qaddafi có thể thương quyết với chúng ta một tháng rồi kết thúc chúng ta nhục nhã. Không, tôi sẽ không quay lại.
– Chúng ta sẽ thấy Thủ tướng xử lý sự ngạo nghễ của anh như thế nào? – Charles nói và quẳng ống nghe xuống.
Simon ngồi cạnh điện thoại chờ nghe tiếng chuông réo. Anh tự hỏi anh có thể đi khỏi và mang đi những lời nguyền rủa. Anh chỉ cần thêm vài phút, chỉ vài phút nữa, nhưng chuông điện thoại réo ngay giây sau. Anh cầm lên và nghe một giọng nói không thể nhầm được.
– Anh có thể ngừng họ lại, nếu tôi yêu cầu không?
– Anh cân nhắc lời nói dối: “Vâng, thưa Thủ tướng” – anh trả lời.
– Nhưng anh có vẻ vẫn muốn tiếp tục, có phải không?
– Tôi chỉ cần thêm có vài phút nữa, thưa Thủ tướng.
– Anh có hiểu hậu quả nếu mọi việc sẽ thất bại, khi mà Charles vừa mới tuyên bố về thắng lợi Ngoại giao không?
– Bà sẽ có được đơn xin từ chức của tôi trong vòng một giờ.
– Tôi cho rằng cả đơn vị của tôi cũng phải sẽ có lúc đó, – bà Thatcher nói thêm – trong trường hợp đó, nhất định Charles vào giờ này sáng mai sẽ là Thủ tướng.
Một phút lặng im trước khi bà tiếp tục: “Qaddafi đang ở trên một đường dây khác, và tôi sẽ nói cho ông ta biết tôi sẽ thương lượng”. Simon thấy bị đánh bại. – “Có thể điều đó sẽ cho anh đủ thời gian, và hãy hy vọng chính Qaddafi là người phải buồn phiền về cuộc thương lượng vào bữa sáng”.
Simon gần như reo lên mừng rỡ.
– Anh có biết điều khó khăn nhất tôi phải thực hiện trong toàn bộ chiến dịch là gì không?
– Không, thưa Thủ tướng.
– Khi Qaddafi gọi điện tới vào lúc nửa đêm. Tôi phải giả như đang ngủ say để ông ta không nhận ra rằng tôi đang ngồi chờ bên điện thoại.
Simon bật cười.
– Chúc anh may mắn, Simon. Tôi sẽ gọi điện giải thích quyết định của tôi cho Charles.
Đồng hồ chỉ 2h:30.
Khi anh quay trở lại, các nguyên soái người thì nắm tay thành quả đấm gõ vào bàn, người thì đi lòng vòng xung quanh và Simon bắt đầu cảm thấy những người Israel đã phải trải qua cảm giác nào khi họ chờ đợi tin tức từ Entebbe.
Chuông điện thoại lại réo. Anh biết rằng đó không phải là của Thủ tướng, vì bà là người phụ nữ Anh quốc không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Đó chính là Charles Hampton.
– Tôi muốn điều này rõ ràng, ngài Simon, tôi cho anh biết tin Qaddafi muốn có cuộc thương lượng vào 2h20. Nó được ghi băng lại, vì vậy sẽ chỉ có một đơn xin từ chức của Bộ trưởng vào sáng sớm mai.
– Tôi biết chính xác điều gì anh cần, Charles, và tôi tin chắc rằng dù bất cứ điều gì xảy ra, anh vẫn đi qua đống phân của anh được bốc mùi hoa hồng. – Simon nói và quẳng ống nghe xuống khi đồng hồ điểm ba tiếng. Không có nguyên nhân nào nhưng mọi người trong phòng bỗng đứng lên, rồi qua một vài phút, họ lại từng người ngồi xuống.
Vào bốn giờ bảy phút, sự im lặng của radio được phá vỡ bằng những từ: “Đã bắt được Shoplifter, nhắc lại: đã bắt được Shoplifter”.
Simon quan sát các ngài trong ban tham mưu vui mừng như những phản ứng của các cậu học trò trước bàn thắng trong trận đá bóng. Broadsword đã ở ngoài khơi tại hải phận quốc tế. Anh ngồi vào bàn và đề nghị nối dây tới số 10. Bà Thủ tướng đến ngay nghe điện “Shoplifter đã bị bắt”, anh nhắc lại.
– Xin chúc mừng, hãy tiếp tục như đã định, – đó là tất cả những điều bà nói.
Bước tiếp theo là phải chắc chắn thực hiện việc đưa các tù nhân Libi bắt được trên tàu xuống Malta và trao trả nguyên vẹn họ về nhà. Simon sốt ruột đợi radio lại liên lạc theo thỏa thuận lúc 5 giờ sáng. Ngài thuyền trưởng tàu đã điện về đúng lúc Big Ben điểm 5 tiếng. Ông báo cáo toàn bộ chiến dịch cho Simon. Một du kích Libi đã bị chết và mười một người khác bị thương. Ba mươi bảy người của SBS đã quay trở về trên những con tàu ngầm Conqueror và Courageous. Tàu HMS đã đang trên con đường trở về. Chúc đã cứu rỗi Nữ hoàng.
Simon chúc mừng ngài thuyền trưởng và quay đến Downing St. Khi anh ra ngoài đường đã có những nhóm phóng viên tuy không có một tin tức gì về điều mới nhận được vẫn luôn tụ tập phía ngoài của số 10. Lại lần nữa Simon không trả lời một câu hỏi nào. Khi anh vào phòng Nội các, anh thấy Charles đã ở cạnh cùng Thủ tướng. Anh nói cho cả hai biết về những tin mới nhất. Lời chúc mừng của Charles vang lên không chân thành.
Đã thỏa thuận rằng Thủ tướng sẽ đọc lời phát biểu vào lúc 7 giờ. Bản thảo đã được chuẩn bị và duyệt trước khi bà Thủ tướng bước đến Downing St. Thông báo cho giới báo chí đang chờ đợi những tin tức nổi bật đã xảy ra trong sáu giờ trước.
Ánh sáng của các máy quay truyền hình và máy ảnh chớp lóe lên vài phút trước khi bà Thatcher có thể nói được. Khi bà đọc bài diễn văn, Charles Hampton đứng bên phải và Simon Kerslake đứng bên trái bà, giờ đây họ là những địch thủ tất nhiên để là người kế tục bà.
– Em cần phải chấp nhận rằng quan điểm về Charles Hampton của em đã thay đổi – Elizbeth nói khi đi trên xe đến xem trận đấu khúc côn cầu của con gái Lucy.
– Em định nói gì? – Simon hỏi.
– Họ vừa phỏng vấn anh ấy trên truyền hình. Anh ấy nói rằng đã ủng hộ sự phán đoán của anh trong suốt thời gian phải giả như đang tiến hành một cuộc thương lượng không kết quả. Anh ta đã có một đường dây tốt tạo hiện quả rằng đây là lần đầu tiên trong cuộc đời anh ấy thấy sự vinh dự trong lời nói dối.
Elizabeth không hiểu câu trả lời của chồng: “Bốc mùi hoa hồng”, anh nói giọng sắc nhọn.
Simon thích thú quan sát con gái bị đánh bại trong vũng bùn khi anh đứng xem dưới mưa phía ngoài sân, chỉ một giờ sau, sau khi anh cũng đã rất lo sợ rằng Qaddafi cũng có thể làm được điều tương tự với anh. “Đó là một thắng lợi hoàn toàn”, anh nói với bà hiệu trưởng khi đội của Lucy bị thua bốn bàn ở hiệp một.
– Có thể nó sẽ giống anh và làm chúng ta kinh ngạc vào hiệp hai. – Bà hiệu trưởng trả lời.
Vào 8 giờ sáng ngày thứ Bảy tiếp theo Simon ngồi tại Bộ và nghe bản tin rằng tàu Broadsword đã tăng hết công suất và vận tốc để đến Porstmouth vào khoảng ba giờ – đúng thời gian một tuần sau khi con gái anh đã thua trận đấu với tỷ số 0-8. Chúng không có một hiệp hai may mắn. Simon cố gắng an ủi cô bé rầu rĩ và có thể đã có kết quả nếu cô bé không phải là người giữ gôn.
Anh đang mỉm cười thì người thư ký cắt đứt dòng suy nghĩ bằng cách nhắc nhở anh cần có mặt ở Porstmouth trong một giờ nữa. Khi anh vừa đến cửa, chuông điện thoại lại réo. “Hãy giải thích hộ, dù bất kỳ là ai là tôi đang bị muộn”. Anh nói.
Thư ký của anh trả lời: “Tôi sợ rằng tôi không thể, thưa ngài”.
Simon quay lại, hỏi: “Ai vậy?”.
” Nữ hoàng tôn kính!”.
Simon quay trở về bàn, cầm ống nghe lên và nghe đấng quân vương. Khi bà kết thúc, Simon cám ơn và hứa sẽ chuyển lời của bà tới chỉ huy Packard ngay khi anh tới Porstmouth. Trong khi bay, Simon nhìn ra ngoài trực thăng và quan sát sự tắc nghẽn giao thông từ bờ biển tới London của những người đang đến để chào đón tàu Broadsword trở về. Chiếc trực thăng hạ đất sau một tiếng.
Ông Bộ trưởng bộ Quốc phòng đứng trên cầu tầu và cố tìm thấy con tàu cao tốc qua cặp kính ống nhòm. Nó phải còn khoảng một tiếng nữa mới cập bờ nhưng đã bị một hạm đội thuyền nhỏ bao bọc vì vậy rất khó khăn để xác định được nó.
Ông John nói với anh rằng, chỉ huy tàu Packard đã đánh điện hỏi ngài Bộ trưởng có muốn cùng ông đứng trên boong tàu khi họ vào cảng không. “Không, xin cám ơn”. – Simon nói. “Đây là ngày của anh ấy, không phải là của tôi”.
– Rất tốt khi ngài Ngoại trưởng không ở cùng chúng ta, ông John nói. Một biên đội Tonardos bay phía trên làm át tiếng trả lời của Simon. Khi tàu Broadsword vào cảng, toàn bộ mọi người trên tàu liền đứng nghiêm trang trên sàn tàu trong những bộ đồng phục. Con tàu Broadsword trông giống như chiếc Roll – Royce mới ra khỏi dây chuyền sản xuất.
Khi thuyền trưởng hạ ván cầu, một đám đông khoảng năm trăm ngàn người reo hò ầm ĩ đến mức Simon cũng không nghe thấy mình nói gì nữa. Thuyền trưởng tàu giơ tay chào ngài Bộ trưởng. Simon nghiêng người lên trước và thì thầm vào tai anh: “Chào mừng ông đã trở về, ông phó đô đốc hải quân Lawrence Packard”.