Viên công chứng Kirkwood hỏi Emily Trefusis:
– Thưa tiểu thư thân mến, cô muốn vào biệt thự “Hazelmoor” định để tìm thứ gì? Tất cả số vật dụng cá nhân, ông thiếu tá Burnaby đem đi hết rồi. Cảnh sát đã lục soát mọi ngóc ngách khắp ngôi biệt thự. Tôi biết tiểu thư nóng lòng muốn tìm bằng chứng giải oan cho cậu James Pearson, nhưng tiểu thư vào biệt thự ấy sẽ chẳng còn tìm thấy được thứ gì đâu.
– Thưa ông công chứng, tôi vào đấy không vì hy vọng thấy được gì, bởi cảnh sát đã rà đi rà lại quá nhiều lần. Nhưng hiện giờ tôi chưa thể nói để ông công chứng hiểu tôi muốn thứ gì trong đó… Tôi chỉ đơn giản muốn mường tượng ra… khung cảnh nơi xảy ra vụ án mạng. Xin ông cho tôi mượn chìa khóa ngôi biệt thự. Có vậy thôi. Và tôi nghĩ, chuyện ấy không có gì phiền cho ông công chứng.
– Tiểu thư nói đúng, không phiền gì hết.
– Nếu vậy, xin ông cho tôi mượn.
Viên công chứng Kirkwood cười thoải mái, đưa chìa khóa cho cô gái trẻ. Thậm chí ông ta ngỏ ý sẵn sàng đi cùng với Emily đến ngôi biệt thự, nhưng để tránh những rắc rối, cô khéo léo và kiên quyết khước từ.
Sáng hôm đó, trước khi đi Exter, Emily đã nhận được của bà Belling, chủ khách sạn Ba Vương Miện lá thư sau đây:
Tiểu thư Emily Trefusis thân mến,
Tiểu thư có nói tôi thường xuyên báo tiểu thư biết những tình hình mới nhất xung quanh cái chết của đại úy Trevelyan.
Điều tôi sắp kể ra chắc không quan trọng gì nhiều, nhưng tôi vẫn thấy có bổn phận thông báo cho tiểu thư biết, hy vọng thư này sẽ đến tay tiểu thư vào chuyến phân phát bưu phẩm cuối cùng trong ngày hôm nay, hoặc chậm lắm là chuyến đầu tiên sáng mai.
Cháu tôi, vợ anh Evans, gia nhân của ông đại úy vừa cho tôi biết một chi tiết có thể không quan trọng chút nào, nhưng rất lạ, và chắc làm tiểu thư quan tâm. Cảnh sát đã khẳng định trong biệt thự không bị mất thứ gì, ít nhất thì cũng không mất vật gì có giá trị. Vậy mà lời khẳng định đó hóa ra sai. Mất một đôi ủng của ông đại úy! Thằng cháu rể tôi lúc đến giúp thiếu tá Burnaby thu dọn đồ đạc cá nhân của đại úy Trevelyan, đã phát hiện ra là mất một đôi ủng, loại bằng da dầy, bôi dầu kỹ, mà đại úy Trevelyan thường xỏ chân vào mỗi khi đi ra ngoài trời tuyết.
Ai đã lấy đôi ủng đó? Hiện chưa biết là ai. Việc mất này chỉ là chuyện nhỏ, tôi xin nhắc lại với tiểu thư, nhưng tôi vẫn thấy cần báo để tiểu thư biết.
Rất mong tiểu thư không quá coi trọng những chuyện không may liên quan đến tình trạng bi thảm của vị hôn phu của tiểu thư.
Tôi cố giữ tình cảm yêu mến và tận tụy với tiểu thư.
J. BELLING
Emily đọc đi đọc lại lá thư, rồi đưa chàng nhà báo Enderby xem.
– Đôi ủng à? – Enderby suy nghĩ – Thư này chẳng liên quan đến gì hết.
– Tôi lại nghĩ khác. Tại sao chỉ mất một đôi ủng?
– Rất có thể đây là chuyện cậu Evans bịa ra.
– Anh ta bịa ra để làm gì? Nếu định bịa, thì thiếu gì thứ để bịa giá trị hơn việc mất một đôi ủng?
– Vì đôi ủng liên quan đến vết chân – Enderby gợi ý.
– Tôi công nhận, nhưng tuyết rơi đã xóa hết mọi vết giày trên mặt đất. Giá không có mưa tuyết tối hôm đó ấy, có phải ta biết thêm được nhiều thứ nữa không?
– Rất có thể đại úy Trevelyan đem đôi ủng cho một kẻ lang thang nào đó, và chính hắn đã giết ông ấy.
– Theo tôi biết, đại úy Trevelyan không phải là loại cho ai cái gì bao giờ. May lắm ông ta có thể cho kẻ nghèo một đồng xu, chứ còn cho một đôi ủng tốt là điều không nằm trong tính cách ông ấy.
Sau đó Emily bèn đi Exhampton, đến thẳng khách sạn Ba Vương Miện. Tại đây, bà Belling, chủ khách sạn mừng rỡ tiếp đón cô.
– Vậy là vị hôn phu của tiểu thư vẫn phải chịu khốn khổ trong tù? Một điều đáng hổ thẹn cho cơ quan pháp luật! Tôi tin chắc cậu ấy không phải thủ phạm, và tôi nói điều này ra cho tất cả mọi người. Tiểu thư đã nhận được thư của tôi phải không? Tiểu thư muốn gặp thằng Evans, cháu rể của tôi chứ gì? Nhà nó ở chỗ đường ngoặt kia, số nhà 85, phố Fore. Rất tiếc tôi không đưa tiểu thư đi được, vì không thể giao nhà này cho ai. Nhưng nhà nó rất dễ tìm, tiểu thư sẽ tìm ra ngay ấy mà.
Emily bèn đi ngay đến nhà Evans. Người đầy tớ cũ của đại úy Trevelyan đi vắng, nhưng chị vợ anh ta ra tiếp, mời cô vào nhà. Emily ngồi xuống ghế và bảo chị ta cũng ngồi xuống. Cô hỏi ngay vào chuyện.
– Tôi đến gặp hai anh chị về chuyện đôi ủng của đại úy Trevelyan. Anh ấy đã kể chuyện này với bà Belling.
– Chuyện lạ quá, tiểu thư có thấy không?
– Nhưng chồng chị không lầm đấy chứ?
– Lầm sao được ạ? Đại úy Trevelyan đi đôi ủng ấy suốt cả mùa đông. Đôi ủng ấy rộng, cho phép ông chủ tôi đi hai đôi tất len dầy.
– Hay ông đại úy đã đưa thợ giầy để đóng lại đế chẳng hạn? – Emily gợi ý.
– Nếu vậy, tất chồng tôi phải biết chứ!
– Chị nói đúng.
– Tôi nghi đôi ủng ấy có liên quan đến cái chết của ông chủ tôi. Từ hôm đó, cảnh sát đã phát hiện thêm được điều gì mới không, thưa tiểu thư?
– Được vài điều, nhưng chưa có điều gì cơ bản.
– Hình như ông thanh tra ở thị xả Exter hiện đang ở đây, tôi đoán ông ấy vẫn tiếp tục điều tra – chị vợ Evans nói.
– Chị nói ông thanh tra nào? Thanh tra Narracott ấy à?
– Vâng, thưa tiểu thư.
– Vậy là ông ấy đi cùng chuyến tàu với tôi?
– Không, ông thanh tra đi ôtô. Thoạt đầu ông ấy đến khách sạn Ba Vương Miện, hỏi anh Tom về những hành lý của ông khách trẻ.
– Ông khách nào?
– Cái ông nhà báo vẫn đi cũng với tiểu thư ấy.
Emily trợn mắt ngạc nhiên.
Chị vợ Evans nói tiếp.
– Tôi đến khách sạn thì anh Tom kể rằng ông thanh tra đó vừa ở đó ra được một lúc. Tom còn kể rằng trên hành lý của ông nhà báo có hẳn hai loại nhãn, một nhãn đi Exter, một nhãn đi Exhampton.
Emily cười thầm. Cô chợt nghĩ, nếu như Enderby gây ra vụ án chỉ cốt để cung cấp cho tờ báo của anh ta một đề tài giật gân. Giá nhà văn nào dùng cốt chuyện đó viết thành một truyện ngắn hài hước thì thú đấy – cô thầm nghĩ – Giết người để bán báo chạy!
Đồng thời Emily cũng cảm phục lương tâm nghề nghiệp của thanh tra Narracott, ông kiên trì kiểm tra lại từng chi tiết. Hẳn là sau khi gặp mình xong, ông ta vội đến đây thật mau. Xe ôtô nhanh hơn xe lửa nhiều. Chưa kể cô còn nán lại ăn trưa ở Exter rồi mới đi, tất nhiên phải đến đây chậm hơn ông thanh tra nhiều.
– Sau đấy ông thanh tra đi đâu, chị có biết không?
– Đi Sittaford. Anh Tom kể với tôi là có nghe thấy ông thanh tra nói với người lái xe là chở ông ấy đi Sittaford.
– Có nói rõ là đến lâu đài Sittaford không? – Emily hỏi.
Bởi cô biết Biran Pearson hiện đang nghỉ trong nhà phu nhân Willett.
– Không, thưa tiểu thư, mà đến nhà ông Duke.
Lại ông Duke! Emily cảm thấy khó chịu. Vẫn cái ông Duke ấy!… Cô tính, khi nào lên làng Sittaford, nhất định phải đến gặp con người bí ẩn này mới được.
Cảm ơn chị vợ của Evans xong, Emily bèn đến văn phòng ông công chứng Kirkwood mượn chìa khóa ngôi biệt thự “Hazelmoor”.
Lúc đúng trong gian tiền sảnh của ngôi biệt thự, Emily cảm thấy một nỗi xúc động rất mạnh, tim đập thình thình.
Cô chậm rãi bước lên thang gác, vào phòng đầu tiên của tầng hai, rõ ràng là phòng ngủ của đại úy Trevelyan.
Như công chứng viên Kirkwood báo trước, mọi đồ đạc cá nhân của người đã khuất đều được đem đi hết. Chăn và khăn trải được gấp lại xếp thành một chồng. Các tủ đều rỗng không. Tủ đựng giầy dép chỉ còn những ngăn gỗ trơ trụi.
Emily thở dài, xuống tầng dưới, vào phòng khách, nơi nạn nhân bị hung thủ giết. Cửa sổ để hé mở thì bị tuyết chất đầy bên trên. Emily dùng trí tưởng tượng hình dung diễn biến vụ án. Kẻ nào đã giết đại úy Trevelyan và nhằm mục đích gì? Có đúng vụ án mạng này xảy ra lúc năm giờ hai mươi nhăm như mọi người đoán không?… Liệu lời khai của James có đúng không? Hay anh ấy gõ của trước nhưng không thấy trả lời, bèn vòng ra cửa sổ phòng khách, ngó vào bên trong, rồi nhìn thấy xác ông cậu, hốt hoảng bỏ chạy? Phải chăng chỉ một mình Emily cho rằng như thế? Theo luật sư Dacres thì cho đến nay, James vẫn khăng khăng giữ lời khai lúc đầu của anh ấy. Biết tin ai bây giờ?
Theo gợi ý của cụ già Rycroft, thì trong lúc hai cậu cháu to tiếng với nhau, trong nhà đã có một người thứ ba, hắn nghe thấy, bèn lợi dụng luôn thời cơ ấy để giết ông đại úy và đổ sự nghi ngờ lên đầu James.
Câu chuyện đôi ủng có tác dụng gì trong chuyện này? Liệu lúc James ở đây, có một kẻ thứ ba nấp trong phòng ngủ của đại úy Trevelyan không?
Emily ghé vào phòng ăn xem xét một lúc. Cô thấy hai chiếc hòm đã buộc dây sẵn, chờ đem đi. Trong tủ ly không còn ly tách và giải thưởng thể thao của ông đại úy nữa. Những thứ đó đã được đem về nhà thiếu tá Burnaby.
Nhân tiện Emily lật xem cả ba cuốn tiểu thuyết giải thưởng cuộc thi đại úy Trevelyan đã giật giải, được gửi đến theo địa chỉ người đầy tớ Evans. Chuyện giật giải này chàng nhà báo Enderby đã kể cho Emily nghe. Ba cuốn tiểu thuyết vẫn nằm trên một chiếc ghế tựa.
Xem xét khắp gian phòng không thấy gì đặc biệt, Emily lại lên gác, vào phòng ngủ của ông đại úy lần nữa.
Tại sao lại mất đôi ủng? Emily không sao gạt đi được nỗi ám ảnh về đôi ủng ấy. Không ai giải đáp được cho cô điều khó hiểu này hay sao?
Emily mở tất cả các ngăn kéo, lục soát tận đáy các ngăn tủ. Trong những cuốn tiểu thuyết hình sự bao giờ cũng có một đầu mối tương đối dễ phát hiện, nhưng trong thực tế cuộc sống, không thể trông mong vào những thứ đó được.
Cô ngó vào những khe hở giữa các tấm ván lát sàn, nắn các nệm, nhưng không thấy có chứa gì lạ trong đó.
Lúc đứng lên, mắt Emily bỗng chú ý đến một chi tiết hơi lạ trong gian phòng này. Khắp phòng sạch sẽ, nhưng trong hốc lò sưởi lại có một đống tro vun lại, tàn vương ra ngoài.
Emily nhìn chằm chằm vào đó như chú chim non bị rắn hổ mang thôi miên. Cô bước lại gần, rồi xắn ống tay áo, thọc tay vào đống tro vun vào chỗ khởi đầu của ống thông khói, thử sục sạo.
Lát sau, Emily lôi ra một gói bọc giấy báo tuềnh toàng. Và cô sửng sốt nhận ra đó là một đôi ủng, chính là đôi ủng bị mất.
– Đây rồi! – cô reo lên – Đúng đôi ủng đây rồi!
Cô xem xét tất cả các đường khâu, trong khi đó, bao câu hỏi liên tiếp hiện lên trong đầu cô.
Tại sao?
Rõ ràng kẻ nào đã lấy đôi ủng này, giấu vào lò sưởi. Để làm gì?
– Ôi – Emily kêu lên – Mình phát điên mất rồi!
Cẩn thận đặt đôi ủng ra giữa phòng, cô lấy một chiếc ghế đặt gần đấy, ngồi lên để bình tĩnh suy nghĩ. Cô điểm lại diễn biến của vụ án, tất cả các nhân vật ít nhiều có liên quan đến vụ án này.
Đột nhiên một ý nghĩ ló dần ra trong đầu cô gái trẻ… ý nghĩ do đôi ủng lành hiền đang nằm giữa gian phòng kia gợi lên.
Emily xách đôi ủng, chạy nhanh xuống thang gác, đẩy mạnh phòng ăn, rồi chạy đến bên chiếc tủ đựng dụng cụ thể thao của ông đại úy, những chiến lợi phẩm trong các cuộc đi săn, và những thứ ông giấu ở đây để người ngoài khỏi nhìn thấy. Giầy trượt tuyết, mái chèo, ngà voi, răng nanh dã thú, cần câu… Những thứ này chất thành đống cũng đang chờ người đem đi cùng với hai chiếc hòm gỗ.
Tay vẫn nắm chặt đôi ủng, Emily cúi rạp xuống. Hai phút sau, cô đứng lên, mặt ửng đỏ, mắt ngơ ngác, dường như còn rất nghi hoặc.
– Chẳng lẽ lại như thế được? – Emily thầm nghĩ, gieo mình lên nệm ghế bành – Bây giờ mình biết kẻ nào giết đại úy Trevelyan rồi. Nhưng mình chưa biết hắn gây án để làm gì? Nhằm mục đích gì?
– Nhanh lên! Phải gấp lên mới được! – cô nói to lên thành tiếng.
Emily vội vã đi nhanh ra khỏi ngôi biệt thự.
Chưa đến hai phút sau, cô đã gọi một xe taxi, bảo chở cô lên làng Sittaford. Cô nói cho lái xe địa chỉ ông Duke.
Đến trước ngôi biệt thự, cô trả tiền lái xe. Xe chạy đi khuất.
Emily đẩy cánh cổng sát, đi ngang qua sân đến trước của nhà. Lát sau cửa mở, một người cao lớn, vai rộng, vẻ mặt điềm đạm bước ra đón khách. Lần đầu tiên, cô gái trẻ đứng ngay trước mặt ông Duke.
– Ông là ông Duke?
– Vâng.
– Tôi là Emily Trefusis. Tôi muốn gặp ông.
Sau vài giây do dự, chủ nhà đưa tay mời cô gái vào. Emily vào phòng khách. Chủ nhà đóng cửa lại, theo sau cô khách trẻ bước vào phòng.
Emily nói:
– Tôi cần gặp thanh tra Narracott. Ông ấy có ở đây không ạ?
Chủ nhà hơi ngập ngừng một chút rồi quyết định.
– Có. Thanh tra Narracott đang ở đây. Cô cần gặp ông ấy có việc gì?
Emily mở gói giấy báo, lấy ra đôi ủng, đặt lên bàn, nói:
– Tôi muốn gặp ông thanh tra về chuyện đôi ủng này.