Đám Đông Cô Đơn

PHẦN I: TÍNH CÁCH – CHƯƠNG I Một số kiểu tính cách và xã hội



… độc giả có hiểu biết cũng không thể biết rằng, nhân tính, dù ở đây tập hợp lại dưới một cái tên chung, lại đa dạng phong phú đến mức ngay cả khi một đầu bếp đã dùng sạch tất cả các loại thực phẩm động vật và thực vật khác nhau trên thế giới rồi thì một tác giả vẫn chưa thể bàn hết mọi khía cạnh của một đề tài rộng lớn như vậy.

Fielding, Tom Jones

Tôi nói đến người Mỹ ở số đơn, như thể không phải họ có hàng triệu người, sinh sống ở miền Bắc lẫn miền Nam, ở miền Đông lẫn miền Tây, thuộc cả hai giới, thuộc mọi lứa tuổi, với đủ chủng tộc, nghề nghiệp và tôn giáo khác nhau. Dĩ nhiên, người Mỹ mà tôi đề cập đây là tưởng tượng; nhưng nói bằng giọng ngụ ngôn là điều không thể tránh khỏi ở một đề tài như vậy, và làm vậy một cách thẳng thắn âu cũng là điều không thể tránh khỏi.

Santayana, Tính cách và dư luận ở Hoa Kỳ[83]

Đây là cuốn sách bàn về tính cách xã hội và về các khác biệt trong tính cách xã hội của con người thuộc những vùng miền, thời đại và nhóm khác nhau. Cuốn sách xem xét những cách thức mà các kiểu tính cách xã hội khác nhau, sau khi đã được hình thành từ chỗ ngoặt của xã hội, sẽ được triển khai ra sao trong công việc, sự giải trí, chính trị và hoạt động nuôi dạy con cái. Cụ thể hơn, cuốn sách bàn về cách thức mà theo đó một kiểu tính cách xã hội, vốn chiếm ưu thế ở Mỹ hồi thế kỷ 19, dần dà bị một kiểu tính cách xã hội khác hẳn thế chỗ. Tại sao điều này xảy ra; nó xảy ra như thế nào; các hệ quả của nó ở một số lĩnh vực chính yếu của đời sống là gì: đó là chủ đề của cuốn sách này.

Vậy chúng tôi ngụ ý gì khi nói đến “tính cách xã hội”? Chúng tôi không nói đến “cá tính” (“personality”), thuật ngữ mà trong tâm lý học xã hội hiện nay được dùng để chỉ toàn thể cái tôi, cùng các khí chất và những tài năng di truyền của nó, các yếu tố sinh học cũng như tâm lý của nó, các thuộc tính thoáng qua cũng như ít nhiều bền vững của nó. Chúng tôi thậm chí cũng không nói đến “tính cách” (“character”) theo đúng nghĩa nội tại, nghĩa mà như cách hiểu hiện nay thường gặp, muốn nói đến chỉ một phần của cá tính – phần được hình thành không do di truyền mà do kinh nghiệm (vạch ra lằn ranh giữa hai thứ này là chuyện không đơn giản chút nào): Tính cách, trong nghĩa này, là một cấu trúc được điều kiện hóa ít nhiều ổn định về mặt xã hội và lịch sử, gồm các động cơ cá nhân và sự thỏa mãn của một cá nhân – kiểu như “bộ hành trang” mà một con người sử dụng khi tiếp cận với thế giới và những người khác.

“Tính cách xã hội” là phần “tính cách” có chung ở các nhóm xã hội chính, phần mà, như hầu hết các nhà khoa học xã hội hiện đại định nghĩa, là sản phẩm từ kinh nghiệm của các nhóm này. Ý niệm tính cách xã hội cho phép chúng ta bàn đến tính cách của các giai cấp, các nhóm, vùng miền và các dân tộc, đó cũng là điều tôi làm trong suốt cuốn sách này.

Tôi không định nấn ná thêm về nhiều điều còn chưa rõ trong khái niệm tính cách xã hội – liệu có thể quy kết nó một cách chính đáng cho kinh nghiệm chứ không phải cho di truyền hay không; liệu có hay không bằng chứng thực nghiệm cho thấy nó thực sự tồn tại; liệu ở đây nó có đáng được xem là quan trọng hơn các yếu tố tính cách và cá tính gắn liền tất cả mọi người khắp nơi trên thế giới lại với nhau, hay các yếu tố tính cách và cá tính [có tác dụng] phân cách mỗi cá nhân với hết thảy mọi người khác, thậm chí người thân nhất, hay không. Giả định rằng tính cách xã hội có tồn tại vẫn luôn là một tiền đề ít nhiều không nhìn thấy được trong lối nói thông thường và ngày nay đang trở thành một tiền đề ít nhiều nhìn thấy được trong các ngành khoa học xã hội. Do vậy, dù khoác tên này hay tên khác, nó cũng sẽ không xa lạ với bạn đọc nào từng biết đến các trước tác của Erich Fromm, Abram Kardiner, Ruth Benedict, Margaret Mead, Geoffrey Gorer, Karen Horney và của nhiều tác giả khác, họ đã viết về tính cách xã hội nói chung, hay tính cách xã hội của các dân tộc khác nhau và vào những thời kỳ khác nhau.

Hầu hết các tác giả này – cũng như tôi – đều cho rằng những năm tháng ấu thơ có tầm quan trọng lớn lao trong quá trình hình thành tính cách. Phần lớn họ đều đồng ý – như tôi – rằng không thể xem xét tách rời những năm đầu đời với cấu trúc xã hội, vốn là cái ảnh hưởng đến các bậc cha mẹ nuôi dạy những đứa trẻ, cũng như trực tiếp ảnh hưởng đến đứa trẻ. Bản thân những người cộng tác và tôi cũng dựa trên nền tảng nhất trí chung này, và không định bàn xem các tác giả này khác nhau thế nào và chúng tôi khác họ ở điểm nào.

I. Tính cách và xã hội

Tính cách xã hội và xã hội liên quan với nhau ra sao? Làm sao mà xã hội nào dường như cũng đều có được, không nhiều thì ít, tính cách xã hội mà nó “cần”? Erik H. Erikson viết, trong một nghiên cứu về tính cách xã hội của người da đỏ Yurok, rằng “… các hệ thống nuôi dạy con cái… cho thấy những gắng gỏi vô thức nhằm tạo ra từ nguyên liệu con người một tập hợp thái độ vốn đang (hay đã từng) là cái tối ưu trong những điều kiện tự nhiên đặc thù và các nhu cầu thiết yếu về kinh tế và lịch sử của bộ lạc”.[84]

Từ “các nhu cầu thiết yếu về kinh tế và lịch sử” đến “các hệ thống nuôi dạy con cái” là một bước nhảy dài. Phần lớn công việc của sinh viên nghiên cứu tính cách xã hội đã dành để lấp khoảng cách đó và cho thấy sự thỏa mãn “các nhu cầu” rộng lớn nhất của xã hội được chuẩn bị ra sao, theo một cách có phần bí ẩn nào đó, bởi các tập quán mật thiết nhất của xã hội. Erich Fromm đã súc tích gợi mở đường dây theo đó có thể lần ra mối liên hệ giữa xã hội và sự rèn luyện tính cách này: “Xã hội nào muốn vận hành tốt thì các thành viên phải học được kiểu tính cách khiến họ muốn hành xử theo cách họ phải hành xử với tư cách là thành viên của xã hội hay của một giai cấp riêng biệt trong xã hội đó. Họ phải mong muốn cái mà xét về khách quan là họ cần phải làm. Ngoại lực được thay thế bằng thôi thúc nội tại, và bằng loại năng lực tiềm tàng đặc biệt của con người đã truyền vào các nét tính cách”.[85]

Do vậy, mối liên hệ giữa tính cách và xã hội – chắc chắn không phải là thứ duy nhất, nhưng là một trong những thứ có ý nghĩa nhất, và là cái mà tôi chọn để nhấn mạnh trong thảo luận này – nằm trong cách thức mà xã hội bảo đảm một mức độ tuân thủ nào đó từ những cá nhân hình thành nên xã hội. Trong mỗi xã hội, một phương thức bảo đảm tính tuân thủ như vậy được cài sẵn vào trong đứa trẻ, rồi được khuyến khích hoặc bị ngăn trở trong kinh nghiệm trưởng thành về sau. (Xem ra không có xã hội nào đủ sức thấy trước để bảo đảm rằng phương thức tuân thủ mà nó đã cài sâu vào [tâm trí cá nhân] sẽ làm hài lòng những cá nhân phải chịu phương thức ấy ở mọi giai đoạn của cuộc đời). Tôi sẽ dùng thuật ngữ “phương thức tuân thủ” và thuật ngữ “tính cách xã hội” thay thế cho nhau – mặc dù, đương nhiên, tính tuân thủ không phải là toàn bộ tính cách xã hội: “phương thức sáng tạo” cũng là một phần của tính cách xã hội. Tuy nhiên, tuy xã hội và cá nhân có thể sống tốt – dù một cách khá buồn tẻ – nếu không có tính sáng tạo, song không đời nào họ có thể sống mà thiếu một phương thức tuân thủ nào đó, dù cho ấy là một phương thức tuân thủ nổi loạn.

Trong cuốn sách này tôi quan tâm đến hai cuộc cách mạng và mối tương quan của chúng với “phương thức tuân thủ” hay “tính cách xã hội” của người phương Tây từ thời Trung đại. Cuộc cách mạng đầu trong hai cuộc cách mạng từ 400 năm qua đã cắt đứt chúng ta khá dứt khoát khỏi các lối sống truyền thống được định hướng theo gia đình và thị tộc mà nhân loại đã quen thuộc trong suốt hầu hết lịch sử; cuộc cách mạng này bao gồm thời Phục hưng, giai đoạn Cải cách tôn giáo và Phản Cải cách tôn giáo, Cách mạng công nghiệp, và những cuộc cách mạng chính trị ở các thế kỷ 17, 18 và 19. Cuộc cách mạng này, dĩ nhiên, vẫn đang diễn ra, nhưng ở các nước tiên tiến nhất trên thế giới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, nó đang nhường đường cho một kiểu cách mạng khác – một loạt phát triển xã hội gắn liền với bước chuyển dịch từ thời đại sản xuất sang thời đại tiêu thụ.

Cuộc cách mạng đầu chúng ta đã hiểu khá rõ; dưới nhiều tên gọi khác nhau, nó nằm trong sách vở và trong hệ thuật ngữ của chúng ta; cuốn sách này không có gì mới để góp phần mô tả nó, song có lẽ lại đóng góp chút gì đấy để đánh giá nó. Cuộc cách mạng thứ hai, chỉ mới mở màn, đã làm nhiều nhà quan sát ngày nay quan tâm, kể cả các nhà khoa học xã hội, triết gia và nhà báo. Sự mô tả và đánh giá về nó vẫn còn gây nhiều tranh cãi; thật ra, nhiều người vẫn còn bận tâm đến tập hợp các cuộc cách mạng đầu nên vẫn chưa nghĩ ra các phạm trù để bàn luận về tập hợp cách mạng thứ hai. Trong sách này tôi sẽ cố làm rõ sự tương phản giữa một mặt là các điều kiện và tính cách trong các giai tầng xã hội ngày nay đang chịu tác động nhiều nhất từ cuộc cách mạng thứ hai, và mặt khác là các điều kiện và tính cách ở các giai tầng tương tự trong cuộc cách mạng trước; theo cái nhìn này, những điều được đề cập vắn tắt về các xã hội truyền thống và phong kiến bị cuộc cách mạng thứ nhất lật đổ chỉ có tính chất làm nền cho các chuyển dịch về sau.

Một trong những phạm trù mà tôi dùng được rút ra từ nhân khẩu học, là khoa học bàn đến các vấn đề tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết, với dân số tuyệt đối và dân số tương đối trong một xã hội, và sự phân bố dân cư ấy theo tuổi tác, giới tính và những tham số khác, vì tôi thử tìm cách kết nối một số phát triển xã hội và tính cách học, như nhân và quả, với một số thay đổi dân số trong xã hội phương Tây từ thời Trung đại.

Mặc dù không có số liệu đáng tin cậy cho các thế kỷ trước, nhưng xem ra có cơ sở chắc chắn để nói rằng trong giai đoạn này đường đồ thị tăng dân số ở các nước phương Tây đã cho thấy một kiểu chữ S đặc thù (khi các nước khác bị hút gần hơn vào mạng lưới văn minh Tây phương, dân cư của họ cũng thể hiện xu hướng phát triển theo kiểu đồ thị chữ S này). Nét ngang dưới của chữ S tượng trưng cho tình trạng khi mà tổng dân số không tăng hay tăng rất chậm, vì số người ra đời xấp xỉ bằng số người chết đi, và cả hai con số đều rất cao. Trong các xã hội thuộc kiểu này, một tỷ lệ lớn dân cư là thanh niên, tuổi thọ trung bình thấp, và tốc độ thay thế các thế hệ cực kỳ nhanh. Các xã hội như vậy được cho là đang trong giai đoạn “tiềm năng tăng cao dân số”; vì nếu có tác động gì xảy ra làm giảm tỷ lệ chết rất cao ấy (sản xuất ra nhiều lương thực hơn, các biện pháp vệ sinh mới, kiến thức mới về nguyên nhân bệnh tật…), thì nó sẽ gây ra “bùng nổ dân số”, và như thế dân số sẽ tăng rất nhanh. Trên thực tế đây là chuyện đã xảy ra ở phương Tây, bắt đầu từ thế kỷ 17. Sự tăng vọt dân số này biểu lộ rõ nhất ở châu Âu, và ở những nước người Âu chiếm cứ và định cư, vào thế kỷ 19. Nó được tượng trưng bằng nét dọc của chữ S. Các nhà nhân khẩu học gọi đây là giai đoạn “tăng dân số chuyển tiếp”, vì tỷ lệ sinh sẽ chẳng mấy chốc bắt đầu theo tỷ lệ chết mà đi xuống. Tỷ lệ tăng dân số bấy giờ sẽ chậm lại, và các nhà nhân khẩu học sẽ bắt đầu phát hiện thấy các dấu hiệu của giai đoạn thứ ba, giai đoạn “chớm giảm dân số” thể hiện trong tỷ lệ người trung niên và người già ngày càng tăng trong dân cư. Các xã hội trong giai đoạn này được tượng trưng bằng nét ngang trên cùng của chữ S, điều này một lần nữa chỉ ra, như trong giai đoạn đầu, rằng tăng dân số tổng cộng không cao – nhưng lần này vì số sinh và số chết thấp.

Đường cong chữ S không phải là một lý thuyết về hiện tượng tăng dân số mà đúng hơn là một mô tả thực nghiệm về cái đã xảy ra ở phương Tây và ở những vùng miền trên thế giới chịu ảnh hưởng của phương Tây. Khi chữ S đã đi hết lộ trình rồi thì sẽ đến gì nữa? Những bước tiến ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác trong những năm gần đây dường như không đi theo một tóm lược đơn giản đẹp mắt như vậy. “Chớm giảm dân số” đã không trở thành “giảm dân số” thực sự, còn tỷ lệ sinh thì cho thấy một khuynh hướng tăng trở lại không chắc chắn, điều mà hầu hết các nhà nhân khẩu học cho là tạm thời.[86]

Sẽ rất đáng ngạc nhiên nếu như những thay đổi về các điều kiện cơ bản là sinh sản, sinh kế và cơ hội sinh tồn, nghĩa là, trong cung và cầu cho con người, lại không ảnh hưởng đến tính cách, khi mà tất cả những điều này bao hàm sự thay đổi về không gian của dân cư, quy mô thị trường, vai trò của trẻ em, cảm nhận của xã hội về sức sống hay tình trạng già yếu, và nhiều thứ vô hình khác. Thật ra, luận điểm của tôi là mỗi giai đoạn trong ba giai đoạn khác nhau này trên đường đồ thị dân số xem ra do một loại xã hội chiếm cứ, mỗi loại xã hội có một cách bắt buộc tuân thủ và nhào nặn tính cách xã hội khác nhau rõ rệt.

Xã hội với tiềm năng tăng cao dân số phát triển ở các thành viên tiêu biểu của mình một tính cách xã hội mà tính tuân thủ được bảo đảm bằng khuynh hướng tuân theo truyền thống: tôi sẽ gọi đây là những người kiểu truyền thống định hướngvà xã hội mà họ sống là xã hội phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng.

Xã hội ở giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp phát triển ở các thành viên tiêu biểu của mình một tính cách xã hội mà tính tuân thủ được bảo đảm bằng khuynh hướng thu nhận từ thời thơ ấu một tập hợp các mục tiêu đã được nội tại hóa [internalized]. Tôi sẽ gọi đây là những người kiểu nội tại định hướng và xã hội họ sống là xã hội phụ thuộc vào kiểu nội tại định hướng.

Cuối cùng, xã hội ở giai đoạn chớm giảm dân số phát triển ở các thành viên tiêu biểu của mình một tính cách xã hội mà tính tuân thủ được bảo đảm bằng khuynh hướng trở nên nhạy cảm với các kỳ vọng và sự ưa thích của người khác. Tôi sẽ gọi đây là những người kiểu ngoại tại định hướng và xã hội họ sống là xã hội phụ thuộc vào kiểu ngoại tại định hướng.

Tuy nhiên, cho phép tôi chỉ ra, trước khi đi vào mô tả ba “kiểu lý tưởng” của tính cách và xã hội này, rằng ở đây tôi không quan tâm đến việc tiến hành một phân tích tường tận, điều vốn sẽ là cần thiết trước khi người ta có thể chứng minh rằng có tồn tại một mối liên hệ giữa giai đoạn dân số và kiểu tính cách. Đúng hơn, thuyết đường đồ thị dân số đem lại cho tôi một kiểu ký hiệu vắn tắt để qua đó nhắc đến vô vàn yếu tố thuộc định chế vốn cũng được trình bày – tuy thường sôi nổi hơn – bằng những từ như “chế độ công nghiệp”, “xã hội dân gian”, “chủ nghĩa tư bản độc quyền”, “đô thị hóa”, “hợp lý hóa”, vân vân. Do đó mà ở đây, khi tôi nói đến tăng dân số chuyển tiếp hay chớm giảm dân số cùng kết hợp với những dịch chuyển trong tính cách và tính tuân thủ, thì bạn đọc không nên xem các cụm từ này như những giải thích tài phép và toàn diện.

Tôi sẽ đề cập nhiều đến tính phức tạp của các yếu tố kỹ thuật và định chế liên quan đến sự phát triển dân số – như nhân và quả – cũng như đề cập đến chính các dữ kiện nhân khẩu học. Đối với mục đích của tôi, việc phân chia các xã hội theo giai đoạn phát triển kinh tế mà họ đã đạt đến sẽ gần như thỏa đáng. Do vậy, sự phân biệt của Colin Clark giữa các khu vực kinh tế “nguyên khai”, “cấp hai” và “cấp ba” (khái niệm đầu muốn nói đến nông nghiệp, săn bắn và đánh cá, khai thác mỏ; khái niệm thứ hai là sản xuất; khái niệm thứ ba là thương mại, truyền thông và dịch vụ) tương ứng sát sao với sự phân chia xã hội trên cơ sở các đặc điểm nhân khẩu học. Ở các xã hội đang trong giai đoạn “tiềm năng tăng cao dân số”, khu vực “nguyên khai” chiếm phần lớn (ví dụ như Ấn Độ); ở các xã hội đang trong giai đoạn tăng dân số “chuyển tiếp”, khu vực “cấp hai” là chủ đạo (ví dụ như Nga); ở các xã hội trong giai đoạn “chớm giảm”, khu vực “cấp ba” lại nổi trội (ví dụ như Hoa Kỳ). Và đương nhiên, không có dân tộc nào lại thuần một kiểu, dù là về các đặc điểm dân cư hay nền kinh tế – các nhóm khác nhau và các vùng khác nhau phản ánh các giai đoạn phát triển khác nhau, còn tính cách xã hội thì phản ánh các khác biệt này.

TIỀM NĂNG TĂNG CAO DÂN SỐ: KIỂU TRUYỀN THỐNG ĐỊNH HƯỚNG

Giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số tiêu biểu cho hơn phân nửa dân số thế giới: Ấn Độ, Ai Cập và Trung Hoa (đã tăng vọt trong các thế hệ gần đây), hầu hết các dân tộc chưa có chữ viết ở Trung Phi, các vùng ở Trung và Nam Mỹ, thực ra là hầu hết các vùng trên thế giới tương đối chưa bị công nghiệp hóa chạm đến. Ở đây tỷ lệ chết cao đến mức nếu tỷ lệ sinh không cao bằng thì dân cư sẽ tuyệt diệt.

Những vùng có dân cư nằm trong giai đoạn này sẽ hoặc là thưa thớt, như các vùng có nhiều bộ lạc nguyên thủy sinh sống và các vùng ở Trung và Nam Mỹ; hoặc có thể đông đúc, như Ấn Độ, Trung Hoa và Ai Cập. Theo cách nào thì xã hội cũng sẽ đạt được một cuộc thương lượng Malthus[87] với nguồn cung lương thực có hạn bằng cách giết sạch, theo cách này hay cách khác, một số nhân khẩu thừa khi số người sinh ra vượt số người chết đi – cái bẫy khổng lồ mà tự nhiên đã đặt sẵn cho con người, theo Malthus quan niệm, và con người chỉ có thể yên ổn thoát được nó bằng cách chăm lo cày cấy, trì hoãn hôn nhân để thận trọng không sinh con đẻ cái. Nếu không ngăn sinh con bằng biện pháp trì hoãn hôn nhân hay các biện pháp ngừa thai khác thì sẽ phải hạn chế dân số bằng cách tước đi mạng sống con người. Thế nên các xã hội đã “phát minh ra” tục ăn thịt người, nghĩ ra chuyện phá thai, tổ chức chiến tranh, tế người, và giữ tục giết trẻ sơ sinh (nhất là bé gái) như các biện pháp để tránh đói kém và bệnh dịch cứ đều đặn xảy ra.

Dù việc giải quyết các thôi thúc đối chọi nhau là thiếu ăn và tình dục luôn đi kèm với biến động và đau đớn, song các xã hội trong giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số thường ổn định ít ra là về khía cạnh các tập quán xã hội của họ, bao gồm cả những “tội ác” để giảm dân số, đã được định chế hóa và trở thành khuôn mẫu. Hết thế hệ này sang thế hệ khác, con người sinh ra, bị tiêu diệt, chết đi nhường chỗ cho người khác. Tỷ lệ tăng tự nhiên thuần dao động trong một biên độ rộng, tuy không thể hiện xu hướng dài hạn nào, điều này cũng đúng với trường hợp các xã hội trong giai đoạn chớm giảm dân số. Nhưng không như các xã hội ở giai đoạn này, trong các xã hội với tiềm năng tăng cao dân số, tuổi thọ trung bình có đặc điểm là thấp: dân số nghiêng mạnh về phía lớp trẻ, thế hệ này thế chỗ thế hệ kia nhanh hơn và kém “hiệu quả” hơn so với các xã hội chớm giảm dân số.

Khi xem xét một xã hội như vậy, chúng ta tất không tránh khỏi sẽ phải liên hệ tính ổn định tương đối của tỷ lệ người-trên-đất-đai, dù cao hay thấp, với tính bền chặt của phong tục và cấu trúc xã hội. Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh đồng tính ổn định của cấu trúc xã hội qua thời gian lịch sử với tính ổn định tinh thần trong quãng đời của một cá nhân: cái sau về mặt chủ quan có thể kinh qua nhiều bạo lực và hỗn loạn. Tuy nhiên, xét kỳ cùng, anh ta sẽ học được cách ứng phó với đời sống bằng thích nghi, chứ không phải bằng đổi mới. Không kể một số ngoại lệ thì tính tuân thủ phần lớn là định sẵn trong hoàn cảnh xã hội “hiển nhiên”. Dĩ nhiên trong đời người không bao giờ có gì thật sự là hiển nhiên; lúc có vẻ hiển nhiên thì đó là vì khả năng nhận biết đã bị sự thích nghi văn hóa thu hẹp. Khi mối tương quan bấp bênh với nguồn cung thực phẩm đã được gắn hẳn vào trong nền văn hóa đang tồn tại, nó giúp tạo ra một khuôn dạng tuân thủ có tính quy ước được phản ánh trong nhiều – nếu không muốn nói là trong mọi – xã hội ở giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số. Đây là cái mà tôi gọi là kiểu truyền thống định hướng.

Định nghĩa về kiểu truyền thống định hướng. Vì kiểu trật tự xã hội chúng ta vừa bàn là tương đối ổn định, nên tính tuân thủ của cá nhân có chiều hướng phản ánh tư cách thành viên của người đó trong một độ tuổi, thị tộc hay đẳng cấp cụ thể; anh ta học cách hiểu và trân trọng các khuôn mẫu đã tồn tại hàng bao thế kỷ, có được điều chỉnh nhưng không đáng kể trong quá trình thế hệ này nối tiếp thế hệ khác. Các mối quan hệ quan trọng trong đời sống có thể được kiểm soát bằng nghi thức cẩn trọng và cứng nhắc, được lớp trẻ học hỏi trong những năm mới bước vào đời, chấm dứt bằng lễ thâu nạp làm thành viên của lớp người trưởng thành trọn vẹn. Hơn nữa, văn hóa, ngoài các nhiệm vụ kinh tế của nó, hay là một phần của các nhiệm vụ kinh tế, đem lại nghi lễ, thói tục và tôn giáo để làm người ta bận bịu và định hướng cho tất cả mọi người. Chẳng mấy ai dồn sức đặng tìm ra các giải pháp mới cho những vấn đề cũ, giả dụ như kỹ thuật nông nghiệp hay y học, những vấn đề mà con người đã được khai hóa.

Song, không nên nghĩ rằng, trong các xã hội này, nơi mà hoạt động của thành viên cá thể được định đoạt bởi sự phục tùng truyền thống, một sự phục tùng có gốc rễ trong tính cách học, thì có thể cá nhân sẽ không được đánh giá cao, và trong nhiều trường hợp, không được khuyến khích phát triển các khả năng, sáng kiến của mình, thậm chí những khát vọng của mình, trong những giới hạn thời gian rất eo hẹp. Thực ra, cá nhân trong một số xã hội nguyên thủy được đánh giá cao và tôn trọng hơn nhiều so với ở một số vùng trong xã hội hiện đại. Vì cá nhân trong một xã hội phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng có mối quan hệ chức năng được xác định rõ với các thành viên khác trong nhóm. Nếu không bị trừ khử, anh ta sẽ có một “vị trí thành viên” trong đó – anh ta không phải là “đồ thừa”, kiểu như người thất nghiệp hiện đại là thứ “đồ thừa”, anh ta cũng không phải là đồ bị loại ra như người không có kỹ năng có thể bị loại ra trong xã hội hiện đại. Nhưng chính vì cái “vị trí thành viên” của anh ta mà các mục đích trong đời, vốn là của anh ta xét về mặt lựa chọn hữu thức, có vẻ như định hình số phận anh ta chỉ đến một chừng mực rất hạn hẹp, cũng như bất cứ khái niệm nào về tiến bộ đối với nhóm đó có chăng cũng trong chừng mực rất hạn hẹp mà thôi.

Trong các xã hội nơi kiểu truyền thống định hướng là cách thức chủ đạo để bảo đảm sự tuân thủ, tính ổn định tương đối được duy trì một phần nhờ quá trình ít khi xảy ra nhưng vô cùng quan trọng là làm cho những kẻ lầm lạc, nếu có, khớp vào các vai trò đã thành định chế. Trong các xã hội như vậy, một người mà nếu ở vào giai đoạn lịch sử về sau có thể trở thành nhà cách tân hay kẻ nổi loạn, thì giai đoạn này vị trí thành viên của anh ta về thực chất là ở bên rìa và đáng ngờ, nhưng anh ta sẽ được kéo vào những vai trò như pháp sư hay thầy phù thủy. Tức là, anh ta bị kéo vào những vai trò có đóng góp được xã hội công nhận, đồng thời những vai trò đó cũng đem lại cho cá nhân này một chỗ đứng ít nhiều được chấp nhận. Các dòng tu kín thời Trung đại có thể đã đóng một vai trò theo cách tương tự để thu hút nhiều “đột biến” tính cách.

Trong một số xã hội như vậy, những cá nhân nhất định được khuyến khích đạt tới một mức độ tính cá thể từ thời thơ ấu, nhất là nếu họ thuộc gia đình quyền thế. Nhưng vì phạm vi chọn lựa hết sức hạn hẹp, ngay cả đối với người có địa vị cao, nên nhu cầu rõ ràng của xã hội về một kiểu tính cách cá thể hóa cũng cực thấp. Có lẽ sẽ chính xác khi nói rằng cấu trúc tính cách trong các xã hội này “được thích nghi” ở mức độ rất lớn, theo nghĩa là ở hầu hết mọi người cấu trúc tính cách có vẻ như hòa hợp với các định chế xã hội. Ngay cả mấy kẻ hiếm hoi không khớp thì cũng “khớp” trong một chừng mực nào đó; và họa hoằn lắm người ta mới bị hất khỏi hệ thống xã hội.

Tất nhiên, điều này không có nghĩa là người ta có hạnh phúc; xã hội nào có những truyền thống mà người ta phải điều chỉnh theo có thể là một xã hội khốn khổ, đầy những lo âu, sự tàn bạo và bệnh tật. Điểm mấu chốt là sự thay đổi đó, mặc dù không bao giờ vắng bóng trong những vấn đề của con người, đã bị làm chậm lại như chuyển động của phân tử bị chậm lại ở nhiệt độ thấp; và tính cách xã hội hơn bao giờ hết đã trông suýt soát gần giống như ma trận của chính các hình thái xã hội.

Trong lịch sử phương Tây thì thời Trung đại có thể được xem là một giai đoạn mà đa số tính cách bị truyền thống định hướng. Nhưng thuật ngữ truyền thống định hướng muốn nói đến một yếu tố chung, không chỉ giữa dân châu Âu trước thời kỳ tư bản mà còn giữa các kiểu dân khác xa nhau như người Ấn và người da đỏ Hopi, người Zulu và người Hoa, người Ả Rập Bắc Phi và người Bali. Thật tiện lợi khi dựa vào nhiều tác giả đã nhận thấy một sự tương đồng giữa những dị biệt, một sự thống nhất mà họ diễn đạt bằng những thuật ngữ như “xã hội dân gian” [folk society] (trái với nền “văn minh”), “xã hội địa vị” [status society] (trái với “xã hội khế ước”), “Gemeinschaft” (trái với “Gesellschaft”),[88] vân vân. Dù các xã hội mà những thuật ngữ này hình dung ra khác nhau, nhưng các xã hội dân gian, địa vị và Gemeinschaft lại giống nhau ở chỗ tương đối chậm thay đổi, phụ thuộc vào gia đình và tổ chức họ hàng, và ở mạng lưới chằng chịt các giá trị – khi so sánh với các thời đại sau. Và như giờ đây những người quan tâm nghiên cứu đã nhận ra rõ ràng, tỷ lệ sinh cao trong các xã hội này ở giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số không chỉ là do thiếu kiến thức hay kỹ thuật ngừa thai. Toàn bộ một lối sống – tức một quan điểm về cơ hội, về con cái, về địa vị của phụ nữ, về tính dục, về chính ý nghĩa tồn tại – là cơ sở phân biệt giữa các xã hội trong đó sức sinh sản của con người được phép diễn ra tự nhiên để rồi lãnh thiệt hại [về sau] và những xã hội ưa dùng các biện pháp khác để giảm trừ thiệt hại, bằng cách kiểm soát sinh đẻ có tính toán, và cũng dễ hiểu, như Freud và các nhà quan sát khác đã gợi ý, bằng sự tiết giảm chính năng lực tình dục.

TĂNG DÂN SỐ CHUYỂN TIẾP: KIỂU NỘI TẠI ĐỊNH HƯỚNG

Ngoài phương Tây ra, chúng ta biết rất ít về sự tích tụ những đổi thay nhỏ có thể dẫn đến kết cục là một cuộc đoạn tuyệt với kiểu xã hội truyền thống định hướng, khiến nó nhận ra khả năng tiềm tàng tăng dân số cao của mình. Song, về phần phương Tây, người ta đã biết nhiều về sự mục ruỗng dần dần của chế độ phong kiến và sự hưng thịnh theo sau đó của một xã hội mà kiểu nội tại định hướng là phương thức chiếm ưu thế hầu bảo đảm tính tuân thủ.

Các nhà sử học có đầu óc hay phê phán, khi đẩy thời Phục hưng càng lúc càng lùi về thời Trung đại, đôi khi có vẻ phủ nhận việc đã diễn ra bất cứ thay đổi có tính quyết định nào. Thế nhưng, nhìn chung thì dường như chuyển biến lớn nhất về xã hội và tính cách học trong những thế kỷ gần đây đã xảy ra khi con người dứt khỏi các mối dây sơ khai đã trói buộc họ vào kiểu xã hội bị truyền thống định hướng của phương Tây Trung đại. Hết thảy những biến chuyển về sau, kể cả cuộc chuyển dịch từ kiểu nội tại định hướng sang ngoại tại định hướng, so ra đều có vẻ không quan trọng, dù tất nhiên cuộc chuyển dịch thứ hai này vẫn đang diễn ra và chúng ta không thể nói nó sẽ ra sao khi hoàn tất, nếu điều đó xảy ra.

Một sự thay đổi về tỷ lệ sinh trên tỷ lệ chết tương đối ổn định, vốn đặc trưng cho giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số, vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của những biến đổi xã hội sâu xa khác. Trong hầu hết các trường hợp chúng ta biết thì sự sụt giảm ở tỷ lệ chết sẽ diễn ra trước sự sụt giảm về khả năng sinh sản; do vậy sẽ có một giai đoạn nào đó dân cư bành trướng rất nhanh. Tỷ lệ chết giảm xảy ra do nhiều nhân tố tác động lẫn nhau, trong số đó có vấn đề vệ sinh, giao thông liên lạc được cải thiện (điều này cho phép chính phủ quản lý được một vùng rộng hơn và cũng cho phép chuyên chở thực phẩm từ các vùng dư thừa đến các vùng thiếu hụt dễ dàng hơn), sự giảm thiểu, dù bị bắt buộc hay bằng cách khác, của tục giết trẻ sơ sinh, tục ăn thịt người và các kiểu bạo lực bộ lạc khác. Nhờ các phương pháp canh nông được cải thiện mà đất đai có thể nuôi được nhiều người hơn, và những người này đến lượt mình lại sinh ra thêm nhiều người nữa.

Cụm từ “tăng dân số chuyển tiếp” của Notestein là một cách nói làm nhẹ nhàng vấn đề đi. “Chuyển tiếp” rất có thể là khốc liệt, làm gián đoạn những cách thức tồn tại đã ổn định trong các xã hội nơi kiểu truyền thống định hướng đã là phương thức chính bảo đảm tính tuân thủ. Sự mất cân đối giữa số người sinh ra và số người chết đi gây áp lực cho tập quán của xã hội. Một danh sách mới các cấu trúc tính cách sẽ trở nên cần thiết hoặc sẽ tìm thấy cơ hội cho mình khi đương đầu với những đổi thay nhanh chóng – và nhu cầu phải có thêm nhiều thay đổi nữa – trong tổ chức xã hội.

Định nghĩa về kiểu nội tại định hướng. Trong lịch sử phương Tây, xã hội đã xuất hiện cùng với thời Phục hưng và Cải cách Tôn giáo, mà mãi giờ đây mới đang biến mất, sẽ giúp làm sáng tỏ kiểu xã hội trong đó kiểu nội tại định hướng là phương thức chính để bảo đảm sự tuân thủ. Một xã hội như vậy có đặc điểm là tính di động cá nhân tăng, sự tích lũy tư bản nhanh chóng (đi cùng với những chuyển đổi công nghệ khốc liệt), và sự bành trướng gần như liên tục: bành trướng tập trung trong sản xuất hàng hóa và sản sinh con người, bành trướng mở rộng trong thám hiểm, chiếm hữu thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc. Nhiều lựa chọn hơn mà xã hội này trao cho – và nhiều sáng kiến hơn mà xã hội này đòi hỏi để đương đầu với các vấn đề mới lạ – được xử lý bởi các kiểu tính cách có khả năng xoay xở sống hòa hợp [theo tập thể] mà không chịu sự định hướng hiển nhiên và khắt khe của truyền thống. Đây là các kiểu nội tại định hướng.

Khái niệm nội tại định hướng nhằm bao quát một phạm vi rất rộng kiểu dạng. Do vậy, mặc dù khái niệm này là thiết yếu để nghiên cứu một số vấn đề giúp phân biệt giữa các nước Tin Lành với các nước Công giáo cùng các kiểu tính cách của họ, giữa các tác động của Cải cách Tôn giáo với các tác động của Phục hưng, giữa luân lý Thanh giáo ở Bắc và Tây Âu với luân lý có phần hưởng thụ hơn ở Đông và Nam Âu, mặc dù tất cả những thứ này đều là những khác biệt có cơ sở và đối với một số mục đích nhất định, nó có tầm quan trọng, nhưng vì nghiên cứu này tập trung vào sự phát triển của các phương thức tuân thủ nên ta có thể bỏ qua. Điều này cho phép gộp các đối tượng lẽ ra là khác biệt này lại vì chúng có một thứ chung: nguồn dẫn dắt cho cá nhân là “bản thân” hay “nội tại [của cá nhân]”, theo nghĩa nó đã được người lớn gieo trồng vào từ khi còn bé và được dẫn dắt hướng tới các mục tiêu khái quát hóa nhưng đã ấn định trước là không sao tránh khỏi.

Chúng ta sẽ thấy điều này nghĩa là gì khi nhận ra rằng, trong các xã hội mà kiểu truyền thống định hướng là phương thức chủ đạo để bảo đảm tuân thủ, sự chú ý dồn cả vào việc bảo đảm tính nhất nhất tuân thủ trong những lời nói và cử chỉ nhìn chung có thể quan sát được, nghĩa là hành vi. Trong khi hành vi được quy định kỹ lưỡng, thì tính cá thể của tính cách lại không cần phải trau giồi nhiều để đáp ứng các quy định được cụ thể hóa trong nghi lễ và nghi thức – mặc dù, đúng thế, một tính cách xã hội có khả năng để ý vào hành vi và sự phục tùng như vậy là điều kiện cần thiết. Ngược lại, các xã hội mà kiểu nội tại định hướng đã trở nên quan trọng, mặc dù cũng quan tâm đến tính tuân thủ trong hành vi, song chúng lại không thể hài lòng chỉ với sự tuân thủ trong hành vi mà thôi. Có quá nhiều tình huống mới mẻ bày ra, những tình huống mà một tập hợp các chuẩn mực đạo đức không thể bao quát hết từ trước được. Do vậy mà vấn đề lựa chọn cá nhân, vốn đã được giải quyết ở giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số trước đó bằng cách dẫn dắt lựa chọn thông qua tổ chức xã hội cứng nhắc thì trong giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp được giải quyết bằng cách dẫn dắt lựa chọn thông qua một tính cách cứng nhắc dù đã được cá thể hóa cao.

Tính cứng nhắc gò bó này là một vấn đề phức tạp. Mặc dù xã hội nào phụ thuộc vào kiểu nội tại định hướng cũng có vẻ cho người ta nhiều mục tiêu để chọn – ví dụ như tiền bạc, sở hữu, quyền lực, tri thức, danh vọng, lòng tốt – song những mục tiêu này lại liên quan với nhau về mặt ý thức hệ, và lựa chọn mà bất cứ cá nhân nào thực hiện cũng sẽ là tương đối không thể sửa đổi được trong suốt đời anh ta. Hơn nữa, những phương tiện để đạt được các mục đích này, dù không khớp với một khuôn khổ quy chiếu xã hội gò bó như trong xã hội phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng, song lại bị hạn chế bởi những kết giao tự nguyện mới – chẳng hạn, phái Quaker, Hội Tam điểm, Hiệp hội Cơ khí – những thứ mà người ta tự ràng buộc mình vào. Quả thực, thuật ngữ “truyền thống định hướng” có thể gây hiểu lầm nếu độc giả kết luận rằng sức mạnh truyền thống không có ảnh hưởng gì đến tính cách nội tại định hướng. Trái lại, anh ta bị các truyền thống trói buộc rất nhiều: truyền thống hạn chế các mục đích của anh ta và ngăn trở sự lựa chọn các phương tiện của anh ta. Đúng hơn, mấu chốt là ở chỗ một sự phân hóa truyền thống đã diễn ra, phần nào liên quan đến quá trình phân công lao động và sự phân tầng trong xã hội ngày càng tăng. Dù là lựa chọn truyền thống của cá nhân phần lớn được gia đình định đoạt, như trong đa số trường hợp, song anh ta không thể không ý thức được sự tồn tại của các truyền thống đang so kè với nhau – do vậy mà ý thức được sự tồn tại của truyền thống theo cách hiểu thông thường của từ này. Kết quả là anh ta có được một mức độ tự do nhiều hơn đôi chút khi thích nghi với những đòi hỏi luôn thay đổi và đến lượt mình đòi hỏi nhiều hơn ở môi trường của anh ta.

Vì sự kiểm soát của nhóm sơ cấp – nhóm vốn dĩ vừa đưa lớp trẻ vào xã hội vừa kiểm soát lớp người trưởng thành ở thời trước – đã nới lỏng thành một cơ cấu tâm lý mới phù hợp với xã hội thông thoáng hơn được “phát minh” ra: đó là cái mà tôi muốn mô tả tựa như một con quay hồi chuyển tâm lý.[89]Công cụ này, một khi đã được cha mẹ và những uy quyền khác cài cho quay rồi, sẽ giữ cho những người do nội tại định hướng, như chúng ta sẽ thấy, “đi theo lộ trình đã định” ngay cả khi truyền thống, được tính cách anh ta đáp lại, không còn ra lệnh cho những chuyển động của anh ta nữa. Nên cuối cùng người kiểu nội tại định hướng có khả năng duy trì một sự cân bằng chênh vênh giữa các đòi hỏi đặt ra cho anh ta về mục tiêu trong đời và những va đập, rung lắc từ môi trường bên ngoài.

Ẩn dụ con quay hồi chuyển này, như bất kỳ ẩn dụ nào khác, không nên hiểu theo nghĩa đen. Sẽ là sai lầm nếu xem người nội tại định hướng không có khả năng học hỏi từ kinh nghiệm hay không nhạy cảm trước dư luận trong các vấn đề tuân thủ bề ngoài. Anh ta có thể đón bắt và sử dụng một số tín hiệu từ bên ngoài, miễn sao có thể dung hòa chúng với khả năng xoay trở chật hẹp mà con quay hồi chuyển cho phép anh ta. Hoa tiêu dẫn đường cho anh ta không hoàn toàn tự động.

The Waning of the Middle Ages (Sự suy tàn của thời Trung đại) của Huizinga đem lại một bức tranh về nỗi thống khổ và tình trạng nhiễu nhương, cuộc đối chọi giữa các giá trị, từ đó những hình thái mới dần dần xuất hiện. Đến cuối thời Trung đại thì con người đã buộc phải sống trong hoàn cảnh nhận thức mới. Khi sự tự thức và tính cá thể của họ phát triển, họ phải tự tập sao cho sống được giữa đời theo những cách mới mẻ. Họ vẫn còn phải làm điều đó.

CHỚM GIẢM DÂN SỐ: KIỂU NGOẠI TẠI ĐỊNH HƯỚNG

Vấn đề phát sinh tại các xã hội trong giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp là việc đạt đến một mức độ mà các nguồn lực trở nên đủ dồi dào hay được sử dụng đủ hiệu quả để có thể tích lũy tư bản nhanh chóng. Phải đạt được sự tích lũy nhanh chóng này ngay cả khi sản phẩm xã hội được sử dụng ở nhịp độ nhanh hơn để nuôi sống dân cư ngày càng tăng và đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng đi liền với lối sống đã chọn. Với hầu hết các nước, trừ trường hợp có thể nhập khẩu tư bản và kỹ thuật từ các nước khác vẫn còn ở trong những giai đoạn sau trên đường đồ thị dân số, mọi nỗ lực tăng thêm các nguồn lực quốc gia với nhịp độ nhanh chóng trên thực tế sẽ gây thiệt hại cho mức sống hiện tại. Chúng ta đã thấy điều này xảy ra ở Liên Xô vốn giờ đây đang trong giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp. Với Tây Âu thì giai đoạn chuyển tiếp này kéo dài lê thê và đau đớn. Với Mỹ, Canada và Úc – cùng lúc vừa thụ hưởng các kỹ thuật châu Âu vừa thụ hưởng các nguồn tài nguyên trong nước – thì bước chuyển tiếp lại chóng vánh và khá nhẹ nhàng.

Người bị truyền thống định hướng, như đã bàn, hầu như không nghĩ mình là một cá thể. Còn họa hoằn hơn nữa chuyện anh ta chợt nghĩ rằng mình có thể tự tạo nên định mệnh của mình theo nghĩa mục tiêu cá nhân, mục tiêu cả đời, hoặc nghĩ rằng định mệnh của con cháu anh ta có thể tách biệt với định mệnh của nhóm gia đình. Trong tâm lý, anh ta không tách rời đủ xa khỏi chính anh ta (hay vì vậy, cũng không đủ gần với chính anh ta), gia đình anh ta, hay nhóm anh ta, để có thể nghĩ kiểu ấy. Tuy nhiên, trong giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp, những người thuộc tính cách nội tại định hướng lại có được cảm giác mình làm chủ đời mình và thấy con cái họ cũng là những cá thể có sự nghiệp để theo đuổi. Đồng thời, cùng với sự chuyển dịch khỏi nông nghiệp và, về sau, khi lao động trẻ em chấm dứt, trẻ em không còn trở thành một tài sản kinh tế đương nhiên nữa. Khi thói quen tư duy khoa học đã phổ biến và lớn mạnh, các quan niệm tôn giáo và huyền bí về khả năng sinh sản của con người – những thứ vốn đã từng có nghĩa lý trong giai đoạn trước đó trên đường đồ thị dân số, để cho nền văn hóa có thể tự tái sinh – phải nhường đường cho những thái độ “duy lý”, cá nhân chủ nghĩa. Quả thực, cũng như sự tích lũy nhanh chóng tư bản sản xuất đòi hỏi con người phải thấm nhuần “luân lý Tin Lành” (từ của Max Weber dùng để mô tả một biểu hiện của cái mà ở đây được gọi là nội tại định hướng), thì số con cháu giảm cũng đòi hỏi một sự thay đổi sâu sắc về các giá trị – một sự thay đổi sâu sắc đến mức, rất có thể, nó phải bén rễ trong cấu trúc tính cách.

Khi tỷ lệ sinh bắt đầu nối đuôi tỷ lệ chết mà đi xuống, các xã hội tiến tới giai đoạn chớm giảm dân số. Càng ngày càng có ít người làm việc trên đất đai, trong các ngành khai khoáng hay ngay cả trong sản xuất. Giờ làm việc giảm. Người ta có thể có vật chất dư dật và còn được nhàn rỗi nữa. Song, họ cũng phải trả giá cho những đổi thay này – ở đây, như mọi khi, giải pháp cho những vấn đề cũ làm nảy sinh những vấn đề mới – bằng cách nhận ra mình đang ở trong một xã hội tập quyền, quan liêu và một thế giới bị thu hẹp lại, đầy kích động và lo âu do sự tiếp xúc giữa các chủng tộc, dân tộc và nền văn hóa, sự tiếp xúc ngày càng được đẩy nhanh hơn nhờ công nghiệp hóa.

Sức chịu đựng rắn rỏi và tinh thần dám nghĩ dám làm của các kiểu nội tại định hướng đã có phần bớt cần thiết trong hoàn cảnh mới này. Dần dần, người khác, chứ không phải môi trường vật chất, mới là vấn đề. Và khi người ta càng hòa trộn rộng rãi hơn, càng trở nên nhạy cảm với nhau hơn thì các truyền thống còn lại từ giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số – bất luận thế nào cũng đã bị phá vỡ nhiều trong cuộc bứt phá mạnh mẽ của công nghiệp hóa – lại càng yếu đi hơn. Con quay hồi chuyển không còn kiểm soát linh hoạt đúng mức nữa, và thế là cần phải có một cơ cấu tâm lý mới.

Hơn nữa, “tâm lý khan hiếm” của nhiều người kiểu nội tại định hướng, vốn đã thích nghi với xã hội rất tốt trong giai đoạn tích lũy tư bản ồ ạt đi kèm với tăng dân số chuyển tiếp, cần nhường đường cho một “tâm lý dư dật” có khả năng tiêu thụ xa xỉ “hoang phí” thời gian nhàn rỗi và sản phẩm thặng dư. Trừ phi người ta muốn tiêu hủy sản phẩm thặng dư vào chiến tranh, nơi vẫn còn đòi hỏi trang bị tư bản tập trung, bằng không người ta phải học cách ưa thích và lao vào những việc tốn kém về nhân lực chứ không phải về tư bản – chẳng hạn như thơ ca và triết học.[90] Quả thực, trong giai đoạn chớm giảm dân số, những người tiêu dùng phi sản xuất, cả số người già ngày càng đông lẫn số thanh niên chưa được đào tạo ngày càng ít đi, hình thành nên một bộ phận lớn trong dân cư, và những người này cần cả cơ hội kinh tế để có thể hoang phí lẫn cấu trúc tính cách để cho phép điều đó diễn ra.

Nhu cầu cần có thêm một danh sách kiểu tính cách nữa như vậy đã được công nhận trong một chừng mực nào đó hay chưa? Các quan sát của tôi khiến tôi tin rằng ở Mỹ thì nó đã được công nhận.

Định nghĩa về kiểu ngoại tại định hướng. Kiểu tính cách ngoại tại định hướng mà tôi sẽ mô tả có vẻ đang xuất hiện những năm gần đây trong giai tầng trung lưu lớp trên ở các thành phố lớn: nổi bật ở New York hơn ở Boston, ở Los Angeles hơn ở Spokane, ở Cincinnati hơn ở Chillicothe. Thế nhưng trong một số khía cạnh, kiểu này giống đến mức lạ lùng với kiểu người Mỹ mà Tocqueville và những vị khách vừa tò mò vừa kinh ngạc khác từ châu Âu, thậm chí trước Cách mạng, đã tưởng là một mẫu người mới. Thực ra, các tường thuật về Mỹ của du khách làm chúng ta thấy ấn tượng vì sự nhất trí ở họ. Người Mỹ được cho là hời hợt hơn, thoải mái về tiền bạc hơn, thân tình hơn, thiếu tin tưởng ở bản thân và các giá trị của mình hơn, muốn được công nhận hơn người Âu. Hết thảy những điều ấy thêm vào một mẫu hình mà, không cần phải kéo vấn đề đi quá xa, giống với kiểu tính cách được một số nhà nghiên cứu khoa học xã hội nhìn nhận là đang phát triển ở nước Mỹ hiện đại, công nghiệp hóa cao và quan liêu: “dân buôn” của Fromm, “kẻ mưu mô sắp đặt” của Mills, “cậu bé trung lưu” của Arnold Green.[91]

Tôi có cảm tưởng là người Mỹ trung lưu ngày nay khác rõ rệt với những người Mỹ trong các tác phẩm của Tocqueville, thế nhưng người Mỹ của Tocqueville vẫn gây ấn tượng cho chúng ta ở chỗ anh ta thật gần gũi nên phần lớn cuốn sách sẽ dành để trình bày và phân tích các khác biệt này. Tôi còn có cảm giác những điều kiện mà tôi tin là nguyên nhân gây ra kiểu ngoại tại định hướng đang ảnh hưởng đến ngày càng nhiều người ở các trung tâm thủ đô những nước công nghiệp tiên tiến. Phân tích của tôi về tính cách ngoại tại định hướng do vậy đồng thời vừa là một phân tích về người Mỹ vừa là một phân tích về con người hiện nay. Tôi gần như luôn thấy khó khăn hay không thể nói cái này kết thúc ở đâu và cái kia bắt đầu ở đâu. Một cách dè dặt, tôi có chiều hướng cho rằng người kiểu ngoại tại định hướng quả thực thấy họ được tự nhiên thoải mái nhất ở Mỹ, nhờ một số yếu tố riêng có trong xã hội Mỹ, ví dụ như dân cư được chiêu mộ từ châu Âu và Mỹ không có quá khứ phong kiến nào cả. Trái với điều này, tôi cũng có chiều hướng nhấn mạnh vào chủ nghĩa tư bản, tổ chức công nghiệp, và đô thị hóa – đây là các xu thế quốc tế – hơn là vào bất cứ đặc điểm hình thành tính cách nào trong bối cảnh nước Mỹ.

Trong khi không quên những phẩm chất này, có vẻ là thích hợp khi xem nước Mỹ đô thị hiện đại như minh họa của chúng ta – có lẽ cho đến nay là minh họa duy nhất – về một xã hội trong đó kiểu ngoại tại định hướng là phương thức chủ đạo để bảo đảm sự tuân thủ. Song, sẽ là quá sớm nếu nói rằng đây đã là phương thức chủ đạo ở Mỹ nói chung. Nhưng vì các kiểu ngoại tại định hướng sẽ bắt gặp ở lớp trẻ, trong các thành phố lớn, và trong các nhóm thu nhập cao, chúng ta có thể giả định rằng địa vị bá chủ của kiểu ngoại tại định hướng không còn xa lắm, trừ phi các xu thế hiện tại bị đảo ngược.

Nếu ta muốn đúc các kiểu tính cách xã hội vào các khuôn giai tầng xã hội, chúng ta có thể nói rằng kiểu nội tại định hướng là tính cách điển hình cho tầng lớp trung lưu “cũ” – chủ nhà băng, chủ cửa hàng, chủ doanh nghiệp nhỏ, kỹ sư định hướng kỹ thuật, vân vân – trong khi kiểu ngoại tại định hướng đang trở thành tính cách điển hình của tầng lớp trung lưu “mới” – quan chức, nhân viên ăn lương trong doanh nghiệp, vân vân. Nhiều yếu tố kinh tế gắn liền với sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu “mới” gần đây đã được biết rõ. James Burnham, Colin Clark, Peter Drucker cùng những người khác đã trình bày và phân tích những yếu tố này. Có một sự sút giảm về số lượng và về tỷ lệ dân cư đang làm việc tham gia vào sản xuất và khai khoáng – nông nghiệp, công nghiệp nặng, vận tải nặng – đồng thời là sự tăng lên về số lượng và về tỷ lệ người tham gia công việc lao động trí óc (“cổ trắng”) và các ngành dịch vụ. Những người biết chữ, có học, được cung ứng nhu yếu phẩm bởi ngành công nghiệp cơ khí có năng suất ngày càng cao và bởi ngành nông nghiệp, quay sang khu vực kinh tế “cấp ba” mỗi lúc một nhiều. Các ngành dịch vụ phát triển trong toàn bộ dân cư chứ không còn chỉ trong các giới cung đình nữa.

Giáo dục, vui chơi giải trí, dịch vụ, những thứ này đi cùng với việc sử dụng nhiều hơn ngôn từ và hình ảnh từ sự thông tin của phương tiện truyền thông đại chúng mới. Trong khi các xã hội giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp đẩy mạnh quá trình phân phát ngôn từ từ các trung tâm đô thị, thì dòng chảy này biến thành con thác trong các xã hội chớm giảm dân số. Quá trình ấy, trong khi được những khác biệt sâu sắc về giai cấp và dân tộc điều biến, gắn liền với những khác biệt về trình độ biết chữ và tài ăn nói, diễn ra khắp nơi trong các xứ công nghiệp hóa. Càng ngày các mối liên hệ với thế giới bên ngoài và với chính ta càng được dòng thông tin liên lạc đại chúng đứng ra làm trung gian kết nối nhiều hơn. Với các kiểu ngoại tại định hướng, họ cũng trải nghiệm các sự kiện chính trị thông qua một tấm màn ngôn từ mà nhờ nó các sự kiện thường xuyên được tán nhỏ, và được cá nhân hóa hoặc giả cá nhân hóa. Với người bị nội tại định hướng vẫn còn tồn tại ở giai đoạn này thì khuynh hướng đúng hơn với họ lại là hệ thống hóa và đạo đức hóa dòng ngôn từ này.

Các tiến triển này, đối với rất nhiều người, đưa đến thay đổi về những con đường dẫn tới thành công và đưa đến đòi hỏi cần phải có hành vi “xã hội hóa” hơn, để vừa có thành đạt vừa có thích nghi trong đời sống hôn nhân và cá nhân. Gắn liền với những chuyển biến như vậy là những đổi thay về gia đình và về thói quen nuôi dạy con cái. Trong các gia đình ít người hơn ở đời sống thành thị, và cùng với lối chăm sóc con cái theo kiểu “nuông chiều” lan tràn ra ngày một nhiều tầng lớp dân cư hơn, có một sự nới lỏng các khuôn mẫu kỷ luật cũ. Theo các mô thức mới hơn này, nhóm ngang hàng (tức nhóm bạn cùng tuổi và cùng tầng lớp) trở nên quan trọng hơn nhiều đối với trẻ, trong khi cha mẹ lại làm nó cảm thấy có lỗi không phải vì nó vi phạm các chuẩn mực nội tại mà chủ yếu vì nó không được nhiều người ưa thích hay không tự biết lo liệu lấy các mối quan hệ với bọn trẻ khác. Hơn nữa, những áp lực từ trường học và nhóm ngang hàng được tăng cường và duy trì – theo cách có những nghịch lý nội tại mà tôi sẽ bàn sau – bằng phương tiện truyền thông đại chúng: phim ảnh, radio, truyện tranh và văn hóa đại chúng nói chung. Trong hoàn cảnh như vậy xuất hiện các kiểu tính cách mà ở đây chúng ta sẽ gọi là do ngoại tại định hướng, hay bị định hướng bởi ngoại tại. Phần lớn bàn luận trong các chương sau sẽ dành cho những kiểu tính cách này. Cái chung cho tất cả những người ngoại tại định hướng là: những người cùng thời sẽ là nguồn định hướng cho cá nhân anh ta – đó hoặc là những người anh ta quen biết [trực tiếp] hoặc là những người anh ta quen gián tiếp, qua bạn bè và qua phương tiện truyền thông đại chúng. Tất nhiên nguồn này sẽ được “nội tại hóa” [internalized] theo nghĩa là sự phụ thuộc vào dẫn dắt của nó đã được trồng cấy vào anh ta từ khi còn nhỏ. Các mục tiêu mà người kiểu ngoại tại định hướng cố gắng hướng tới thay đổi tùy theo sự dẫn dắt đó: chỉ có bản thân quá trình cố gắng này, cùng với quá trình chú ý sít sao đến các tín hiệu từ người khác, là thứ không thay đổi trong suốt cuộc đời. Cách thức luôn tiếp xúc với người khác cho phép một sự tuân thủ hành vi chặt chẽ, không phải nhờ rèn luyện trong chính hành vi, như ở kiểu tính cách bị truyền thống định hướng, mà đúng hơn là nhờ một sự nhạy cảm đặc biệt trước những hành động và mong ước của người khác.

“Người khác” này là ai, đấy là điều rất quan trọng: dù họ là những người gần gũi trực tiếp bao quanh cá nhân này hay một vòng bao quanh “cao hơn” hay những tiếng nói nặc danh của truyền thông đại chúng; dù là cá nhân sợ sự thù địch của những người quen biết tình cờ hay chỉ của những ai “đáng tính đến”. Nhưng nhu cầu của anh ta muốn có được sự tán thành và dẫn dắt từ người khác – mà đấy là người khác cùng thời chứ không phải cha ông – vượt xa ngoài các lý do khiến hầu hết mọi người ở mọi thời hết sức quan tâm đến điều người khác nghĩ về mình. Mặc dù đôi khi ai cũng muốn và cần được ai đó thích, nhưng chỉ những kiểu ngoại tại định hướng hiện đại mới lấy đó làm nguồn dẫn dắt chính và lĩnh vực nhạy cảm chính cho mình.[92]

Có lẽ mãnh lực không bao giờ biết thỏa của nhu cầu tâm lý cần có sự tán thành [từ ngoại giới] này là cái phân biệt người Mỹ thuộc giai tầng trung lưu lớp trên ở các thành thị lớn, những người mà chúng ta xem là ngoại tại định hướng, với chính các kiểu tương tự từng xuất hiện ở các kinh đô, giữa các tầng lớp khác trong các giai đoạn lịch sử trước, dù là ở thành Quảng Châu,[93] châu Âu thế kỷ 18 và 19, hay ở Athens, Alexandria cổ đại, hay Rome cổ đại. Trong hết thảy những nhóm này, xu thế không chỉ thống trị như một thứ thay thế cho đạo đức và phong tục, mà chính một xu thế thay đổi nhanh chóng mới là thứ có ảnh hưởng thống trị. Nó làm như vậy được là vì, tuy phương tiện truyền thông đại chúng [hồi đó] hãy còn sơ khai, song nhóm tương ứng với giai tầng trung lưu lớp trên Mỹ thì tương đối nhỏ, trong khi cấu trúc nhóm tinh hoa [elite structure] thì cực kỳ mạnh mẽ. Chẳng hạn, có thể biện luận rằng một bản tạp chí The Spectator ở cuối thế kỷ 18 nhắm vào lượng độc giả tiềm năng một cách triệt để hơn tờ tạp chí The New Yorker ngày nay. Trong các tiểu thuyết Anh, Pháp và Nga thế kỷ 18 và 19, chúng ta thấy chân dung của kiểu người điều hành ở các cấp cao trong bộ máy công chức và họ phải sẵn sàng trước những tín hiệu thay đổi nhanh chóng. Stepan Arkadyevitch Oblonsky trong tiểu thuyết Anna Karenina[94] là một trong những điển hình đáng yêu hơn và ít xu thời hơn, đặc biệt ấn tượng nhờ cách Tolstoy đặt anh ta tương phản với Levin, một người kiểu nội tại định hướng và ưa giáo huấn. Tại bất cứ bữa dạ tiệc nào Stepan đều chứng tỏ kỹ năng xã hội xuất sắc; kỹ năng chính trị của anh ta như được mô tả trong trích dẫn sau đây cũng rất giàu tính xã hội:

Stepan Arkadyevitch đặt mua dài hạn và đọc một tờ báo có tư tưởng tự do, không phải một tờ cực đoan, mà tờ bênh vực các quan điểm được số đông ủng hộ. Và mặc dù khoa học, nghệ thuật và chính trị không có ý nghĩa dặc biệt đối với chàng, chàng một mực giữ các quan điểm đó về mọi chủ đề được số đông và tờ báo của chàng ủng hộ, và chàng chỉ đổi quan điểm khi số đông đổi – hay, nói chính xác hơn, chàng không đổi quan điểm, mà những quan điểm này đã tự thay đổi một cách khó thấy bên trong chàng.

Stepan Arkadyevitch không chọn ý kiến hay quan điểm chính trị của mình; mà các ý kiến và quan điểm chính trị tự đến với chàng, cũng như chàng không chọn kiểu mũ hay áo choàng, mà chỉ dùng những cái đã sờn. Và với chàng, sống trong một xã hội nào đó – do nhu cầu, thường phát triển ở tuổi biết suy xét, để có một mức độ sinh hoạt tinh thần nào đó – thì việc có quan điểm duy là cái không thể thiếu được, như có cái mũ. Nếu có một lý do cắt nghĩa vì sao chàng thích các quan điểm tự do hơn bảo thủ, cái cũng được nhiều người trong giới chàng ủng hộ, thì lý do đó không bắt nguồn ở chỗ chàng xem chủ nghĩa tự do sáng suốt hơn, mà là do nó phù hợp với lối sống của chàng hơn… Và thế là chủ nghĩa tự do đã trở thành một thói quen của Stepan Arkadyevitch, nên chàng thích tờ báo của chàng, như chàng thích điếu xì gà sau mỗi bữa ăn tối, vì làn khói nhẹ từ điếu thuốc lan tỏa trong não.

Stepan, mặc dù thói hùa theo đám đông khá dễ thương làm anh ta có vẻ giống như một người Mỹ trung lưu hiện đại, lại không hẳn là kiểu ngoại tại định hướng. Chỉ riêng thói hùa theo đám đông này thôi, không có đôi chút nhạy cảm với người khác trong tư cách cá thể và như một nguồn dẫn dắt, thì chưa phải là đặc điểm chính để phân loại. Đúng vậy, chúng ta phải phân biệt người Mỹ thế kỷ 19 – dù anh ta được Tocqueville, Bryce và những người khác thấy là thích giao du đàn đúm và phụ thuộc vào dư luận – với người Mỹ kiểu ngoại tại định hướng ngày hôm nay, một người Mỹ mà trong tính cách là có khả năng hơn và để tâm hơn đến việc duy trì mối giao tiếp nhiệt tình với người khác cả lúc làm việc lẫn khi vui chơi. Điểm này cần được nhấn mạnh, vì sự khác biệt này dễ bị hiểu lầm. Người nội tại định hướng, đôi khi có được một mức độ độc lập tương đối trước dư luận, trước điều hàng xóm láng giềng nghĩ về anh ta, nhưng trong hầu hết trường hợp họ lại rất quan tâm đến tiếng tốt cho bản thân và, ít ra ở Mỹ là như vậy, lo sao “ai tám lạng thì mình cũng nửa cân”. Song, những thứ tuân thủ này, chủ yếu là bên ngoài, tiêu biểu ở những tiểu tiết như quần áo, màn cửa, thẻ tín dụng ngân hàng. Vì quả thực, những tuân thủ phải theo một chuẩn mực, bằng chứng cho chuẩn mực này được những “người ưu tú nhất” trong môi trường của ta đưa ra. Ngược với khuôn mẫu này, người ngoại tại định hướng, dù dán mắt nhìn người thành đạt, nhưng lại quyết tâm không thua kém họ không hẳn ở các chi tiết bên ngoài mà ở phẩm tính kinh nghiệm bên trong của anh ta. Tức là, khả năng nhạy cảm cao giúp anh ta giao tiếp với người khác trên nhiều bình diện hơn là những thứ bề ngoài như dáng vẻ hay sở hữu. Lý tưởng độc lập hay lòng nương tựa nơi Chúa không thôi thì chưa thể sửa đổi lại cái mong muốn của anh ta là trông chờ ở người khác – cả những “tay cừ” cũng như những người ưu tú nhất – để được hướng dẫn xem nên tìm kiếm những kinh nghiệm nào và diễn giải kinh nghiệm ấy ra sao.

Đối chiếu ba kiểu. Một cách để thấy những khác biệt về cấu trúc đặc trưng cho ba kiểu này là nhìn ra khác biệt trong sự trừng phạt hay kiểm soát cảm xúc ở từng kiểu.

Người do truyền thống định hướng cảm thấy ảnh hưởng từ nền văn hóa của mình như một đơn vị, nhưng lại được trung gian dàn xếp qua một số nhỏ những cá nhân cụ thể mà anh ta tiếp xúc hằng ngày. Những người này không mong chờ thấy anh ta phải là một kiểu người nào đó bằng mong chờ thấy anh ta hành xử theo kiểu đã được công nhận. Do vậy, biện pháp trừng phạt đối với hành vi sẽ có chiều hướng là nỗi sợ bị hổ thẹn.

Người do nội tại định hướng từ nhỏ đã gắn trong mình một con quay hồi chuyển tâm lý do cha mẹ anh ta khởi động nên sau đó có thể đón bắt tín hiệu từ những uy quyền khác giống như cha mẹ anh ta. Anh ta sống đời mình không độc lập được như vẻ bề ngoài, mà tuân theo sự hướng dẫn bên trong này. Chệch hướng, dù là để đáp ứng lại những thôi thúc nội tại hay những tiếng nói thay đổi thất thường của người cùng thời, có thể dẫn đến cảm giác có lỗi. Vì phương hướng phải theo đuổi trong cuộc đời đã được học riêng ở nhà từ một số nhỏ những người dìu dắt, và vì những nguyên tắc – chứ không phải các chi tiết hành vi – đã được nội tại hóa, nên người kiểu nội tại định hướng có khả năng đạt sự ổn định lớn. Nhất là khi hóa ra bạn bè anh ta cũng có những con quay hồi chuyển, quay cùng vận tốc và được điều khiển theo cùng hướng. Nhưng nhiều cá nhân kiểu nội tại định hướng có thể vẫn ổn định ngay cả khi không có sẵn sự chấp thuận xã hội trợ lực – như trong cuộc đời chính trực của người Anh có địa vị sống cách biệt ở các xứ nhiệt đới.

Tương phản với kiểu như vậy, người do ngoại tại định hướng học cách phản ứng lại các tín hiệu từ một nhóm rộng lớn hơn nhóm gồm có cha mẹ anh ta. Gia đình không còn là một đơn vị khép kín mà anh ta thuộc về nữa mà chỉ là một phần trong môi trường xã hội rộng lớn hơn mà anh ta đã sớm để tâm. Ở các khía cạnh này người do ngoại tại định hướng giống người do truyền thống định hướng: cả hai sống trong một môi trường nhóm và không có khả năng tự xoay xở một mình của người do nội tại định hướng. Tuy nhiên, tính chất của môi trường nhóm lại khác nhau hoàn toàn ở hai trường hợp. Người kiểu ngoại tại định hướng là người theo chủ nghĩa thế giới. Với anh ta lằn ranh giữa cái quen thuộc và cái xa lạ – một biên cương phân định rõ trong các xã hội phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng – đã đứt rời. Khi gia đình liên tục hấp thụ cái xa lạ và tự uốn nắn lại mình, thì cái xa lạ cũng trở thành cái thân thuộc. Trong khi người kiểu nội tại định hướng có thể “thoải mái ở xứ người” vì anh ta tương đối ít nhạy cảm với người khác, thì người do ngoại tại định hướng, trong một nghĩa nào đó, lại thoải mái dễ chịu ở bất cứ đâu mà cũng chẳng thoải mái dễ chịu ở nơi nào cả, anh ta có khả năng thân thiết và đáp ứng lại lẹ làng – nếu không muốn nói là đôi khi hời hợt – với bất cứ ai.

Người bị truyền thống định hướng đón bắt tín hiệu từ người khác, nhưng các tín hiệu này lại mang tính đơn điệu văn hóa; anh ta không cần phải có thiết bị thu tinh nhạy mới bắt được. Người do ngoại tại định hướng phải biết nhận tín hiệu xa gần; nguồn thì nhiều, biến trở thì nhanh chóng. Thế nên khi đó, cái có thể nội tại hóa không phải là một bộ quy tắc ứng xử mà là thứ thiết bị cầu kỳ cần có để dõi theo những thông điệp như vậy và để thỉnh thoảng tham gia truyền đạt các thông điệp ấy. So với các kiểm soát chống lại tội lỗi và hổ thẹn, dù lẽ tất nhiên những thứ này vẫn còn tồn tại, cái đòn bẩy tâm lý quan trọng hàng đầu của người kiểu ngoại tại định hướng là nỗi lo âu lan tỏa. Thiết bị điều khiển này, thay vì giống một con quay hồi chuyển, lại giống một cỗ máy rađa.[95]

Trường hợp Athens. Liệu có thể nói cả các nền văn minh khác, như Do Thái, Hy Lạp và La Mã cổ đại, vào các giai đoạn nối tiếp nhau trong sự phát triển dân số-sinh tồn, có đặc trưng là truyền thống định hướng, nội tại định hướng và ngoại tại định hướng hay không? Rất có thể tình trạng dân số thế giới tăng vọt từ khoảng năm 1650 – và do vậy mà có đường đồ thị tăng dân số chữ S – là duy nhất trong lịch sử nhân loại và là hệ quả của một kiểu (công nghiệp hóa) hoàn toàn mới về kinh tế, công nghệ và tổ chức xã hội. Dù sao, thực tế là mọi xã hội đều có một hình thức tổ chức nào đó và một “công nghệ” nào đó, cho dù là nghi thức phi khoa học nhất, sẽ cấu thành bằng chứng cho thấy đã có một nỗ lực, ít nhiều thành công, làm giảm tỷ lệ chết và cải thiện mức sống cao hơn mức sống đơn thuần tồn tại như loài vật. Và một khảo cứu mang tính thăm dò về đế chế Athens đã gợi mở rằng cả ở đó cũng có thể thấy rõ mối tương quan giữa tăng dân số và tính cách xã hội của kiểu mà chúng ta vừa mô tả dành cho phương Tây gần đây.[96]

Bằng chứng hiếm hoi chúng ta có được cho xu hướng tăng dân số lâu dài ở đế chế này phải lấy từ những nghiên cứu kiên trì của các nhà nhân khẩu học ngày nay và từ nhận xét của các tác giả Hy Lạp cổ đại. Sử thi của Homer đã mô tả một xã hội bất ổn trong đó định chế tư hữu đã phá vỡ tổ chức cộng đồng truyền thống định hướng là bộ lạc, bào tộc, thị tộc. Các cải cách triệt để trong canh tác đất đai, có được nhờ định cư liên tục ở một nơi, đã nâng cao mức sống, và như một hệ luận, mở đầu một giai đoạn tăng dân số sẽ tiếp diễn trong vài thế kỷ. Chế độ tư hữu, sự lớn mạnh của một nền kinh tế trao đổi, và sự thừa kế tài sản phụ hệ đã khuyến khích tập trung của cải và tạo ra bất bình đẳng kinh tế – xã hội. Một sự phân tầng xã hội ba giai cấp đã thẩm nhập vào tổ chức truyền thống, không chỉ nới lỏng kiểm soát của thị tộc đối với các thành viên mà còn khuyến khích những cá nhân có địa vị kinh tế giống nhau từ các bộ lạc và bào tộc khác nhau liên kết lại. Các biện pháp cải cách của Solon[97] và những người khác trong nhiều thế hệ nối tiếp nhau cũng hàm ý rõ ràng là một số cá nhân và gia đình thành công hơn người khác rất nhiều trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế mới là sự nhàn rỗi và giàu có về vật chất.

Trong vòng 500 năm sau khi nhà nước Athens ra đời, hình như đã tồn tại một nền kinh tế “biên thùy” bành trướng, một phần nhờ khai thác các nguồn tài nguyên trong nước, thông qua cải tiến kỹ thuật và định chế nô lệ, nhưng phần nhiều hơn là nhờ chinh phục các giống dân khác và gộp của cải của họ vào nền kinh tế quốc nội. Người ta rất có thể viện dẫn những thái độ đang thay đổi đối với gia đình và nuôi dạy con cái như là dấu hiệu của kiểu nội tại định hướng trong giai đoạn này; chẳng hạn, các luật lệ tăng cường tự do cho cá nhân, các cải tổ quan trọng cho phép tự do chuyển nhượng tài sản và khởi tố tội nhân bởi một “bên thứ ba”; sự nhân rộng các cơ hội có được việc làm sinh lợi trong thương mại, nông nghiệp và công nghiệp; dòng người từ nông thôn đổ ra thành thị; nhiệt tình thám hiểm và chinh phục; và mối quan tâm ngày càng tăng đối với tư biện triết học và khoa học.

Sang thế kỷ 5 thì đế quốc Athens đạt đến đỉnh cao quyền lực; người Hy Lạp trong giai đoạn này đã quen với ý niệm dân cư bành trướng. Cả Plato lẫn Aristotle đều chủ trương thuyết dân số ổn định. Hai thế kỷ sau chúng ta thấy rằng vấn đề đã thay đổi hoàn toàn, nỗi lo tăng dân quá mức đã được nỗi lo giảm dân thế chỗ. Polybius, viết vào thế kỷ 2, tuyên bố rằng dân Hy Lạp đang tuyệt diệt vì tục giết trẻ sơ sinh. Điều này rõ ràng là nói quá; tục giết trẻ sơ sinh chỉ giới hạn chủ yếu trong các giai tầng thượng lưu và trung lưu lớp trên, như biện pháp ngừa thai ngày nay. Tuy nhiên, nó lại chỉ ra chiều hướng tiến tới chỗ hạn chế quy mô gia đình bằng biện pháp nhân tạo và gợi ý rằng dân số [thời đó] đã đạt đến giai đoạn không chỉ chớm giảm mà quả thực đã giảm. Khi dân cư bành trướng bắt đầu đạt đến đỉnh thì đó chính là lúc chúng ta thấy xuất hiện các hình thái xã hội dường như biểu thị sự hiện diện của phương thức tuân thủ kiểu ngoại tại định hướng.

Lấy ví dụ, định chế tẩy chay, được đưa ra như một biện pháp ngăn ngừa sự chuyên quyền, vào thế kỷ 5 đã trở thành một thứ vũ khí ghê gớm của dư luận, được sử dụng tùy tiện như một phương tiện bảo đảm tuân thủ thị hiếu và kéo ghì xuống những chính khách, nhà biên kịch và diễn giả có tài năng vượt trội. Ngoài ra, dân thường còn tạo ra một đám đông chỉ điểm “thường xuyên buộc tội những người tài giỏi hơn và có ảnh hưởng nhất ở Athens, hòng bắt họ phải gánh chịu sự đố kỵ của đám đông”. Trong The Jealousy of the Gods and Criminal Law in Athens (Sự đố kỵ của thần linh và hình luật ở Athens), Svend Ranulf đã bàn cặn kẽ tầm ảnh hưởng và sự phát triển của “khuynh hướng dửng dưng giáng hình phạt”, điều này, dựa trên một nỗi lo âu lan tỏa theo kiểu tính cách, hẳn có thể mô tả là uy thế của một “nhóm ngang hàng” toàn năng.

Hết thảy những điều này đi kèm với sự giảm sút nghĩa vụ kiểu nội tại định hướng đối với lĩnh vực chính trị. Dù nhiều tác giả tỏ vẻ trọng vọng “nền dân chủ” Athens thế kỷ 5, ta vẫn phải thấy lạ trước sự thờ ơ của dân chúng biểu quyết. Cái mà trước đây là một đặc quyền không dễ có cho các tầng lớp dưới – dự đại hội công dân hay đại hội quần chúng – thì trong thời phe dân chủ cầm quyền đã thành một nghĩa vụ. Nhiều biện pháp trừng phạt khác nhau được đưa ra để bảo đảm số đại biểu cần thiết theo quy định; và khi những biện pháp này cũng không xong nữa thì “quyền bầu cử” sẽ trở thành một nghĩa vụ nộp tiền cho nhà nước.

Ở điểm này trong lịch sử đế chế Athens chúng ta có một khu vực rất thuận lợi để tiến hành nghiên cứu và phân tích tường tận hơn; rõ ràng, những nhận xét này không làm gì hơn là gợi mở một số vấn đề sẽ thích hợp cho nghiên cứu như vậy. Tương tự, các vấn đề của La Mã dưới thời Augustus trị vì gợi ý sự xuất hiện và lên ngôi của kiểu tính cách ngoại tại định hướng khi dân cư đạt đến giai đoạn chớm giảm. Sự du nhập một ngôn ngữ thơ ca mới hợp thức hóa tầm quan trọng của các trạng thái cảm xúc tinh tế của cá nhân, vậy nên trong tác phẩm chịu ảnh hưởng Alexandria của các thi nhân như Catullus, và có lẽ cả Gallus, có thể chứng minh những chuyển dịch hướng tới kiểu ngoại tại định hướng trong các giai cấp chiếm ưu thế.

Một số sự dè dặt cần có. Hạn chế của ngôn ngữ khiến tôi phải nói cứ như thể tôi xem các xã hội bao giờ cũng tìm được cách sản sinh ra thứ tổ chức xã hội và các kiểu tính cách họ cần để sinh tồn. Giả định như vậy, trong khi làm nổi bật hình ảnh một thực thể riêng biệt là “xã hội”, đặt ra một số đòi hỏi cho con người và kiểm nghiệm nhiều quá trình khác nhau, lại có thể sẽ đưa một mục đích luận tùy tiện vào vấn đề thay đổi xã hội. Thực tế là dường như chỉ do thuần túy “tình cờ” mà một phương thức nào đấy trong hàng bao nhiêu phương thức bảo đảm sự tuân thủ dựa theo tính cách có thể tồn tại trong một xã hội nhất định. Những phương thức nào đã bảo tồn thành công một xã hội cố kết thì được truyền lại một cách vô thức như khi chúng nảy sinh; nhưng do thành công lịch sử của mình mà các phương thức này còn lại đến nay cho ta nghiên cứu và điều tra, dường như có một lực lượng mang tính mục đích luận nào đó, phục vụ cho lợi ích của xã hội, đã đề xuất ra phương thức thành công – hay khá thành công – để bảo đảm sự tuân thủ. Thế nhưng chúng ta phải công nhận rằng có những xã hội quả thực đã tan rã và chấm dứt tồn tại mặc dù có những phương thức xem chừng thành công hầu bảo đảm cho sự tồn tại mãi mãi của tính cách xã hội. Vì lẽ đó, dường như các xã hội có thể tiếp tục chịu đựng những căng thẳng và rạn nứt lớn, cả những xung khắc trầm trọng giữa tính cách xã hội và các đòi hỏi của xã hội, mà không đi đến chỗ lụn bại và tan rã hoàn toàn.

Chúng ta cũng không nên đánh giá quá cao vai trò của tính cách trong quá trình xã hội. Chẳng hạn, chưa phải là một lý giải đầy đủ khi nói, như một số người đã nói, rằng quân Đức đoàn kết vì “người Đức” có tính cách độc đoán, bởi lẽ trong thực tế những quân đội có kiểu tính cách rất đa dạng cũng đoàn kết trong hoàn cảnh chiến đấu và điều kiện tiếp tế nhất định. Cũng không ổn khi giả định, như những người khảo sát thái độ Mỹ thỉnh thoảng vẫn giả định, là một số công việc chỉ có thể hoàn thành bởi một phạm vi hạn hẹp các kiểu tính cách: rằng chúng ta cần những nhân viên bán hàng và nhà quản trị có tính cách “môi miệng”, tức “hướng ngoại” hay “lấn át” (“oral”), cần các nhà hóa học và kế toán có tính cách “hậu môn”, tức “hướng nội” hay “kỹ tính” (“anal”).[98] Thực ra, người thuộc các kiểu khác nhau cơ bản có thể tự thích nghi để thực hiện khá thỏa đáng đủ loại nhiệm vụ phức tạp. Hay nói khác đi về cùng một sự việc, các định chế xã hội có thể khai thác hàng loạt động cơ thúc đẩy khác nhau, bắt nguồn từ các kiểu tính cách khác nhau, để thực hiện các công việc gần như cùng loại mà xã hội đòi hỏi. Nhưng tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa rằng tính cách chỉ là một nhân tố mờ nhạt trong lịch sử, như một tinh thần nào đó kiểu Hegel. Tính cách sẽ ảnh hưởng đến phong cách và những hao tổn đầu óc để hoàn thành những công việc mà, trong phân tích kinh tế hay chính trị, xem ra gần hệt như nhau.

Do vậy chúng ta buộc phải tính đến khả năng là người ta có thể bị buộc phải hành xử theo một cách mặc dù cấu trúc tính cách của họ thúc giục họ hành xử theo cách ngược lại. Xã hội có thể biến chuyển nhanh chóng hơn tính cách, hoặc ngược lại. Quả thực, độ chênh giữa hành vi do xã hội đòi hỏi và hành vi tương hợp tính cách là một trong những đòn bẩy quan trọng để thay đổi. Thật may là chúng ta không biết có xã hội nào như xã hội mà Aldous Huxley rầu rĩ mường tượng ra trong Brave New World (Thế giới tân kỳ), nơi các kiểu tính cách xã hội hết sức hài lòng với vai trò xã hội của mình và như thế, trừ phi là tình cờ, sẽ không có biến chuyển xã hội nào.

Cuối cùng, cần phải chỉ ra rằng các kiểu tính cách xã hội là những khái niệm trừu tượng. Đúng là những khái niệm trừu tượng này nhắc đến con người cụ thể, đang sống, nhưng để đạt tới các khái niệm trừu tượng ấy, như chúng ta thấy ở đầu chương này, trước tiên cần phải trừu tượng hóa từ cá thể thực để ra “cá tính” của anh ta, rồi từ đó trừu tượng hóa ra “tính cách” của anh ta, cuối cùng lại từ đó trừu tượng hóa ra cái yếu tố chung tạo nên “tính cách xã hội”.

Thật ra, độc giả tinh ý có thể đã nhận ra rằng trong bản chất của tình huống này không thể có chuyện một xã hội hay một người hoàn toàn phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng, nội tại định hướng, hay ngoại tại định hướng: mỗi phương thức tuân thủ này đều phổ quát, và vấn đề ở đây bao giờ cũng là vấn đề mức độ mà một cá nhân hay một nhóm xã hội nương tựa vào cơ cấu này hay cơ cấu khác trong ba cơ cấu có sẵn. Do vậy, nếu tất cả loài người đều do nội tại định hướng, thì theo nghĩa là, được người lớn hơn nuôi dạy, họ đã có được và nội tại hóa một số định hướng bền vững từ người lớn. Và ngược lại, nếu ai ai cũng đều do ngoại tại định hướng, thì với nghĩa là họ định hướng theo các kỳ vọng của những người ngang hàng và theo “tình hình thực tế” (Kurt Lewin) hay “sự xác định tình hình” (W.I Thomas) mà những người ngang hàng này bất cứ lúc nào cũng có thể giúp tạo ra.[99]

Hơn nữa, vì mỗi người chúng ta đều có khả năng đi theo từng phương thức trong ba phương thức tuân thủ này, nên một cá nhân có thể sẽ thay đổi, trong suốt đời anh ta, từ phụ thuộc nhiều hơn vào một tổ hợp các phương thức này sang phụ thuộc nhiều hơn vào một tổ hợp khác (mặc dù khó có khả năng xảy ra sự thay đổi tình thế này một cách triệt để, ngay cả khi hoàn cảnh khuyến khích họ làm). Vì trừ phi cá nhân điên hoàn toàn – mà thực ra, họ không bao giờ điên hoàn toàn – họ sẽ vừa thiết lập ra các tín hiệu trong môi trường xã hội của mình vừa tập trung để ý đến những tín hiệu này. Do vậy, nếu một cá nhân chủ yếu là kiểu ngoại tại định hướng được đặt trong một môi trường không có nhóm ngang hàng, anh ta có thể phải viện đến các kiểu định hướng kia. Tương tự như vậy, rõ là không có cá nhân nào, và chắc chắn không có xã hội nào, từng tồn tại mà không dựa nhiều vào truyền thống, tuy rằng có thể điều này xem ra bị che lấp bởi những thay đổi xu thời.

Điều quan trọng là phải nhấn mạnh những chồng chéo đan xen của các kiểu khác nhau này phần nào bởi vì những đánh giá giá trị mà độc giả có thể gắn với từng kiểu riêng biệt. Bởi hầu hết chúng ta đều đánh giá cao tính độc lập nên chúng ta có thể sẽ thích kiểu nội tại định hướng hơn và bỏ sót không thấy hai điều kia. Thứ nhất, cơ cấu con quay hồi chuyển cho phép người kiểu nội tại định hướng có vẻ độc lập hơn nhiều so với thực tế: anh ta là kẻ tuân thủ theo người khác chẳng kém người bị ngoại tại định hướng, song những tiếng nói anh ta lắng nghe là từ xa xăm hơn, của một thế hệ xưa hơn, những gợi ý của họ đã được nội tại hóa ở anh ta từ tấm bé. Thứ hai, như vừa được chỉ ra, kiểu tuân thủ này chỉ là một cơ chế, dù chiếm ưu thế hơn, của kiểu nội tại định hướng: chẳng phải là anh ta thiếu nhạy cảm – như tính cách đặc trưng của anh ta – đối với những gì các bạn ngang hàng nghĩ về anh ta, thậm chí anh ta còn có thể mang tính cơ hội ở mức cao nhất. Do vậy, anh ta không cần phải nhất nhất phản ứng lại người khác như thể họ chỉ là những người thế vai cha mẹ anh ta. Đúng hơn, vấn đề là ở chỗ, so với người kiểu ngoại tại định hướng, anh ta có phần ít để tâm đến chuyện liên tục nhận được từ người cùng thời (hay kẻ thế vai họ: truyền thông đại chúng) một luồng những hướng dẫn, kỳ vọng và tán thành.

Cho phép tôi nhắc lại: các kiểu tính cách và xã hội bàn đến trong cuốn sách này là các kiểu: chúng không tồn tại trên thực tế, mà là một cấu trúc, dựa trên một chọn lọc những vấn đề lịch sử nào đó để nghiên cứu. Bằng cách dùng nhiều kiểu hơn, hay các kiểu phụ, ta có thể xét đến nhiều dữ kiện hơn (hay cũng có thể là những dữ kiện ấy thôi nhưng bớt dữ dội hơn!), nhưng các cộng sự của tôi và tôi thích làm việc với số lượng giàn giáo tối thiểu; từ đầu đến cuối, trong khi tìm cách dùng một tập hợp các đặc trưng có liên quan với nhau để mô tả cả một xã hội lẫn các cá thể điển hình của nó, chúng tôi đã tìm kiếm các đặc điểm nối liền hai thứ này lại với nhau mà lờ đi những khía cạnh hành vi khác – thường là nổi bật – những thứ có vẻ không liên quan đến công việc của chúng tôi.

II. Cuộc giao tranh tính cách học

Chúng ta có thể mường tượng mấy trăm năm qua trong lịch sử Tây phương theo kiểu một trình tự kế tiếp nhau dần dần đi đến chỗ mỗi một kiểu trong hai kiểu sau đây chiếm ưu thế. Kiểu truyền thống định hướng nhường chỗ cho kiểu nội tại định hướng, rồi kiểu nội tại định hướng nhường chỗ cho kiểu ngoại tại định hướng. Những biến đổi về kiểu xã hội và kiểu tính cách, lẽ đương nhiên, không thình lình xảy ra. Trong một nền văn hóa nhất định ta có thể thấy các nhóm đại diện cho mọi giai đoạn trên đường đồ thị dân số, thì chúng ta cũng có thể thấy đủ loại thích nghi tính cách với riêng từng giai đoạn. Sự hòa trộn này còn đa dạng hơn nữa vì sự di cư của các dân tộc, vì chủ nghĩa đế quốc, và vì các tiến hóa lịch sử khác liên tục ném con người thuộc các cấu trúc tính cách khác nhau lại với nhau, những người mà nói một cách ẩn dụ là “hẹn hò” nhau từ các điểm khác nhau trên đường đồ thị dân số.

Các kiểu tính cách này, như các địa tầng trong địa chất hay khảo cổ, cái nọ chồng lên cái kia, đây đó có chỗ các kiểu chìm bên dưới trồi lên. Một lát cắt xã hội tiêu biểu vào bất cứ thời điểm nào cũng làm bộc lộ các kiểu tính cách trước đó cũng như các kiểu tính cách sau đó, kiểu tính cách trước biến đổi do sức ép bị nhấn chìm bởi kiểu tính cách sau. Kiểu truyền thống định hướng có vẻ chiếm ưu thế ở Mỹ La tinh, Nam Âu nông nghiệp, châu Á và châu Phi. Các kiểu nội tại định hướng có vẻ nổi trội ở vùng nông thôn và thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ và Canada, ở Tây Bắc châu Âu, và trong một chừng mực nào đó ở Trung Âu. Người ta nhận thấy một cuộc vận động năng nổ nhằm du nhập mẫu hình nội tại định hướng ở Đông Âu, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nơi ở châu Á. Người ta cũng nhận thấy các kiểu ngoại tại định hướng bắt đầu chiếm ưu thế trong các trung tâm đô thị ở Hoa Kỳ và, đáng ngờ hơn, các kiểu này xuất hiện trong các thành phố lớn ở Tây Bắc châu Âu. Kiểu sau cùng và mới nhất này đang tràn ra đến các vùng mà nội tại định hướng vẫn còn thắng thế, ngay khi kiểu nội tại định hướng đang tràn vào các vùng chưa bị chinh phục nơi các kiểu truyền thống định hướng vẫn còn dai dẳng bám trụ.

Một quan điểm như vậy có thể giúp chúng ta hiểu các cấu trúc tính cách Mỹ. Ở Mỹ vẫn còn có thể thấy các nhóm dân quê miền Nam, người da đen và người da trắng nghèo, đang ở trong giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số – và đây chính là nơi chúng ta tìm kiếm tàn dư của các kiểu truyền thống định hướng. Tương tự, người nhập cư vào Mỹ từ các vùng nông thôn và thị trấn nhỏ ở châu Âu mang theo tỷ lệ sinh sản và khuôn mẫu tính cách của họ đến các thành phố lớn cũng như đến vùng đồng quê của Mỹ. Trong một số trường hợp những người này đã và đang buộc phải, trong một thế hệ, nhảy từ một xã hội trong đó truyền thống định hướng là phương thức chủ đạo bảo đảm tính tuân thủ, sang một xã hội mà kiểu ngoại tại định hướng là phương thức chủ đạo. Cú nhảy thường gặp hơn cả được thực hiện trong hai thế hệ: người nông dân chuyển sang kiểu nội tại định hướng; rồi con cái họ liền nhảy một cú sang kiểu ngoại tại định hướng.

Sự trộn lẫn người thuộc các kiểu tính cách khác nhau, cũng như thuộc các chủng tộc và tôn giáo khác nhau, là kết quả của công nghiệp hóa và thuộc địa hóa, diễn ra khắp nơi trên thế giới. Các kiểu tính cách đã có thể thích nghi tốt với hoàn cảnh của mình lại thấy mình chịu áp lực từ các kiểu mới hơn, thích nghi tốt hơn. Họ có thể đành cam chịu một địa vị phụ thuộc. Hoặc họ có thể bị các mục tiêu mới hiện ra trước tầm mắt lôi cuốn và thậm chí có thể còn mưu cầu những mục tiêu này mà không buồn tìm hiểu các phương tiện do văn hóa quy định để đạt được chúng.

Chẳng hạn, các kiểu nội tại định hướng trong môi trường nước Mỹ thành thị có thể bị buộc vào vị thế oán giận hay nổi loạn. Có thể họ không thích nghi được vì thiếu thiết bị thu thích hợp để bắt các tín hiệu rađa ngày càng chi phối thái độ và hành vi trong giai đoạn chớm giảm dân số. Có thể họ không chịu thích nghi vì lương tâm không chấp nhận cái mà tín hiệu truyền đạt. Hoặc họ có thể thấy thối chí bởi lẽ các tín hiệu, dù cũng khá mời gọi đấy, nhưng không có vẻ gì là dành cho họ. Điều này đúng, chẳng hạn, với các nhóm thiểu số có kiểu khuôn mặt hay màu da không được chấp thuận vào các vị trí lãnh đạo hay chuyên môn, hay trong thang bậc giá trị được trình bày trên phương tiện truyền thông đại chúng. Điều này cũng đúng cho những người mà tổ tiên của họ có sự tương hợp với người khác, nhưng cá tính họ, trong một số cách tế nhị, không có được sự uyển chuyển và nhạy cảm cần có đối với người khác.

Các nghiên cứu về thổ dân Mỹ cho thấy những sự tương tự đối với một số điều có thể đã xảy ra khi một kiểu tính cách cũ đang chịu áp lực từ một kiểu mới. Trong số trẻ con ở khu định cư dành riêng cho người da đỏ Sioux, như Erik H. Erikson mô tả, hình như có hai loại phản ứng lại văn hóa của người da trắng: một là phản kháng hằn học, hai là cái có thể gọi là phản kháng quy thuận. Hành vi loại thứ nhất, đối với nhà giáo dục da trắng, có vẻ không cải huấn được; của loại sau, gần như quá dễ thương, quá thiên thần. Trong cả hai trường hợp, vì ít nhất thì đứa trẻ cũng được sự tán thành ngầm của cha mẹ và người lớn Sioux khác, nên đứa trẻ giữ gìn được cái gì đó trong tính cách và truyền thống Sioux dù nó có ra mặt quy phục người da trắng hay không. Tuy nhiên, cuộc xung đột sẽ rút cạn nội lực cảm xúc của đứa trẻ; nó thường có vẻ lười biếng. Cả đứa phản kháng và đứa có vẻ quy thuận đều thờ ơ trước văn hóa lẫn chính trị của người da trắng.

Tôi nghĩ rằng có hàng triệu người Mỹ kiểu nội tại định hướng cũng khước từ theo kiểu tương tự đối với các giá trị bắt nguồn từ ưu thế ngày càng tăng của các kiểu ngoại tại định hướng. Sự oán giận của họ có thể có ý thức và nói ra thành lời. Cũng như với người Sioux, sự oán giận này nhận được sự ủng hộ về mặt văn hóa vừa từ những vị lão làng [sống và nghĩ theo nếp cũ], vừa từ ký ức lâu đời về quá khứ vẫn còn sống động với mọi người trong các vùng nông thôn và thị trấn nhỏ. Quá khứ này tiếp nối trong những câu chuyện kể của các cụ già và các bài xã luận trên báo chí thôn quê, chưa bị thanh âm cảnh sắc thị thành xóa sạch. Vì vậy mà lòng oán giận có thể bộc lộ và giành thắng lợi ở địa phương trước những đại diện cho các kiểu ngoại tại định hướng. Thế nhưng, “những kẻ giáo huấn”, như về sau chúng ta sẽ gọi họ, không cảm thấy an tâm – ảnh hưởng nặng nề của đời sống thành thị bên ngoài chống lại họ – và nỗi oán giận trong họ đanh lại cho đến khi những kẻ kiểu nội tại định hướng còn sót lại này bất quá chỉ là những bức biếm họa về tổ tiên mang tính cách của họ vào cái thời các vị ấy còn thống trị.

Một nhóm thứ hai mang tiềm năng phản kháng và oán giận là dân di cư đến Mỹ vốn thuộc kiểu truyền thống định hướng đang dần biến mất – dân di cư cả từ các thuộc địa của Mỹ: Puerto Rico, vùng cực Nam Hoa Kỳ, lẫn từ thuộc địa ngày trước như Philippines, từ Mexico, Ý và phương Đông. Những người này khó tìm được sự yểm trợ văn hóa hơn ngõ hầu chống lại sự thay đổi cưỡng bức từ các tín hiệu gọi là “Mỹ hóa”. Người da trắng nghèo ở miền Nam hay người da đen nghèo chuyển đến sống ở miền Bắc không phải học một ngôn ngữ mới, nhưng anh ta thường mất gốc cũng chẳng kém người nước ngoài di cư đến đây. Trang phục và cung cách của dân mặc đồ zoot[100] là một ví dụ đáng thương cho sự gắng gỏi kết hợp lối lịch sự thị thành với sự cự tuyệt đầy hằn học không chịu bị áp đảo hoàn toàn bởi các chuẩn mực kiểu nội tại định hướng, vốn là văn hóa chính thức trong các trường công lập ở thành phố.

Một kiểu oán giận tương tự có thể tìm thấy ở thợ khai thác mỏ, thợ rừng, nhân công trang trại và một số công nhân nhà máy thành thị. Như trong nhiều xã hội khác, sự chán ghét ra mặt của những người lao động này đối với nền văn hóa chủ đạo đi kèm với một cảm giác khinh bỉ đầy nam tính đối với những cung cách thành thị vốn hòa nhã hay mềm mỏng. Những người này có những huyền thoại đầy cao ngạo của mình cũng như người Sioux có những câu chuyện về chàng cao bồi chăn bò và về quá khứ thiện chiến của mình. Chúng ta buộc phải hỏi tất cả những nhóm này có thể sẽ chết dần chết mòn đến mức độ nào, như những đồng bào Sioux của họ, một khi kiểu ngoại tại định hướng tràn xuống những nấc thấp hơn trong hệ thứ bậc giai cấp và lan ra khỏi các khu đô thị lớn. Không có một “căn cứ địa” nào, một khu bảo tồn nào, những người này có quyền lựa chọn, nếu quả thực họ có quyền lựa chọn, giữa một bên là không cửa không nhà còn một bên là nhanh chóng thích nghi và chuyển sang các giá trị ngoại tại định hướng.

“Cuộc giao tranh tính cách học” không chỉ tiếp diễn nội trong một đất nước duy nhất và bên trong các nhóm ở nước đó, các nhóm đứng ở những điểm khác nhau trên đường đồ thị tính cách và dân số. Toàn thể những quốc gia trong giai đoạn chớm giảm dân số cũng cảm thấy bị đe dọa vì áp lực dân số và sự bành trướng từ các nước khác đang trong giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp, và còn vì những nước phương Đông khổng lồ vẫn đang trong giai đoạn tiềm năng tăng cao dân số. Những căng thẳng quốc tế này, diễn ra trong một vòng luẩn quẩn, giúp duy trì, trong các nước chớm giảm dân số, những kiểu tính cách nội tại định hướng cùng với tâm lý thiếu thốn của họ, vốn thích hợp trong giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp trước đó. Do vậy, bản danh sách các kiểu tính cách phù hợp với một xã hội dư dật – một xã hội mà con người mơ ước hàng thế kỷ – bị trì hoãn lại về mặt lịch sử, và khoảng trống cách biệt giữa cấu trúc tính cách và các khả năng tiềm tàng của cấu trúc kinh tế vẫn còn đó.

Có thể bày tỏ nhiều thái độ khác nhau đối với khoảng cách biệt này. Một thái độ sẽ, bởi vì có thể hay thậm chí rất có thể xảy ra thêm một cuộc Thế chiến nữa – lần này giữa hai cường quốc trên thế giới phân cực rất cao – khiến cho việc bàn đến thời đại dư dật, các kiểu tính cách của nó và các vấn đề thấy trước của nó gần như là việc vô nghĩa lý. Hay có thể đi đến chính kết luận ấy bằng một con đường khác, với lập luận rằng việc bàn về sự dư dật ở Mỹ khi mà đói kém và khốn khổ vẫn là số phận của hầu hết nông dân và nhiều cư dân thành thị trên thế giới thực ra là một việc vô luân, nếu không nói là phi thực tế về mặt chính trị. Đây là những vấn đề có thực. Nhưng tôi muốn chỉ ra về vấn đề thứ nhất – sự sắp xảy ra và tính cố hữu của chiến tranh – rằng ở một mức độ không đáng kể, các dân tộc, như những kẻ loạn thần kinh chức năng, tự chuốc lấy những nguy cơ mà họ hằng bị ám ảnh, những nguy cơ mà, thay cho sức sống thật và sự lớn mạnh thật, giúp cấu trúc nên đời sống họ; mặc dù rõ ràng là quyết định có chiến tranh hay không chẳng phải tùy thuộc vào một mình Hoa Kỳ. Còn về vấn đề thứ hai, tôi thấy hình như đem cảnh nghèo khổ của thế giới ra làm lý lẽ bác lại suy luận tư biện về cảnh dư dật có thể có thì thực ra là giúp kéo dài chính tâm lý thiếu thốn, cái tâm lý mà, vốn bắt nguồn từ trong nghèo khổ, đã duy trì mãi sự nghèo khổ. Nếu bị đẩy tới tận cùng phi lý, lý lẽ này sẽ ngăn không cho ai đó được nắm quyền lãnh đạo các vấn đề nhân sinh ngoại trừ những người nghèo khổ nhất. Mặt khác, những ai khá giả hơn có thể không được coi là mẫu mực không chỉ vì sự thừa thãi mà còn vì sự thất vọng. Trái với tình trạng phổ biến ở thế kỷ 19, tính bi quan đã trở thành thứ gây nghiện, và cơ hội nhỏ nhoi hầu tránh được những nguy cơ rõ ràng đang đe dọa thế giới như vậy càng trở nên nhỏ nhoi hơn nữa vì chúng ta dùng những mối đe đọa này để hợp lý hóa sự cam chịu và chủ nghĩa khổ hạnh của mình.

Về cơ bản, tôi nghĩ Godwin[101] “phi thực tế” lại là người đúng, khi ngược với đối thủ lớn của mình là Malthus, ông cho rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ có thể trồng lương thực cho cả thế giới trong một chậu hoa. Về mặt công nghệ mà nói thì chúng ta gần như đã có những chậu hoa ấy rồi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.