Thiên Nga Đen
Lời Cám Ơn
Tôi có được sự thích thú ngoài mong đợi khi viết cuốn sách này. Quả thực, cuốn sách đã tự viết ra nó, và tôi muốn các bạn cũng có được trải nghiệm này. Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến những người bạn sau đây.
Bạn tôi và đồng thời là nhà cố vấn Rolf Dobelli, tiểu thuyết gia, doanh nhân và là độc giả nhiệt tình không bỏ qua bất kỳ phiên bản nào của nội dung cuốn sách này. Tôi cũng vô cùng biết ơn Peter Bevelin, một người học vấn uyên thâm và là nhà tư duy thuần túy với bản tính hiếu kỳ cực độ – người dành thời gian đi dạo của mình để theo đuổi các ý tưởng và khám phá những tài liệu mà tôi luôn tìm kiếm, người đã nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng nội dung cuốn sách này. Yechezkel Zilber, một người tự học luôn khát khao ý tưởng hiện sống tại Jerusalem, người nhìn nhận thế giới từ bản chất nguyên sơ, đã đặt ra những câu hỏi rất hóc búa, đến mức tôi phải cảm thấy hổ thẹn vì những kiến thức sách vở mà mình học được và cảm thấy khó chịu vì không phải là một người tự học hỏi một cách chân chính như anh ấy – chính nhờ những người “không tầm phào” này mà ý tưởng Thiên Nga Đen của tôi mới có được những kiến thức vững vàng về chủ nghĩa tự do kinh viện. Học giả Philip Tetlock, người hiểu biết nhiều về việc dự đoán hơn bất kỳ người nào khác kể từ thời Đen-phi, đã đọc qua bản thảo và nghiên cứu kỹ lưỡng các luận cứ của tôi. Phil là người sâu sắc và có giá trị đến mức ta có thể tìm thấy nhiều thông tin ở ông dù ông chẳng đưa ra lời nhận xét nào. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Danny Kahneman, người mà ngoài những buổi trò chuyện hàng giờ với các chủ đề về bản chất con người (và đáng kinh ngạc là tôi nhớ hầu hết mọi lời nhận xét của ông), đã giúp tôi làm quen với Phil Tetlock. Cảm ơn Maya Bar Hillel vì đã mời tôi phát biểu trước The Society of Judgment and Decision Making tại cuộc họp thường niên của họ ở Toronto vào tháng 11 năm 2005 – xin cảm ơn sự rộng lượng của các nhà nghiên cứu ở đó, và những thảo luận đầy hào hứng của họ. Tôi trở về mang theo nhiều kiến thức hơn những gì mình đã cho đi. Robert Shiller đã bảo tôi “thanh lọc” một số các nhận xét “bất kính”, nhưng việc anh chỉ trích sự xông xáo thái quá đó, chứ không phải nội dung của nó, lại chứa đầy thông tin hữu ích. Mariagiovanna Muso là người đầu tiên ý thức về tác động của Thiên Nga Đen đối với nghệ thuật và đã gửi cho tôi những nội dung nghiên cứu về xã hội học và nhân loại học. Tôi đã có những buổi thảo luận hàng giờ với học giả văn chương Mihai Spariosu về Plato, Balzac, về thông tin sinh thái học, và cả những quán cà phê ở Bucharest. Didier Sornette đã luôn gửi cho tôi tài liệu về những chủ đề chưa được công bố nhưng rất có liên quan trong lĩnh vực vật lý thống kê. Jean-Philippe Bouchaud đã hỗ trợ tôi rất nhiều với những vấn đề có liên quan đến thống kê của các độ lệch lớn. Dựa trên các ý tưởng của Chương 8, Michael Allen đã viết một chuyên khảo dành cho những tác giả luôn tìm cách để tác phẩm của mình được xuất bản – cuối cùng, tôi đã viết lại Chương 8 với cách nhận định của một tác giả đang nhìn vào số phận của chính mình, cảm ơn Mark Blyth vì luôn là một vị giám khảo, một độc giả và một cố vấn sâu sắc. Cảm ơn các bằng hữu ở DoD, Andy Marshall và Andrew Mays, đã cung cấp cho tôi nhiều ý tưởng và nhiều câu hỏi. Paul Solman, một người luôn khát khao kiến thức, đã nghiên cứu và xem xét hết sức kỹ lưỡng bản viết tay cuốn sách. Tôi có được thuật ngữ Extremistan là nhờ Chris Anderson, người đã phát hiện thấy thuật ngữ trước đó của tôi quá mang tính sách vở. Cảm ơn Nigel Harvey đã giúp tôi tìm hiểu về các tài liệu trong lĩnh vực dự đoán.
Terry Burnham, Robert Trivers, Robyn Dawes, Peter Ayton, Scott Atran, Dan Goldstein, Alexander Riesz, Art De Vany, Raphael Douady, Piotr Zielonka, Gur Huberman, Elkhonon Goldberg, và Dan Sperber là những nhà khoa học đã dành thời gian trả lời vô số những câu hỏi của tôi. Ed Thorp, chủ sở hữu còn sống thật sự của “công thức Black-Scholes” đã giúp tôi rất nhiều; nhờ nói chuyện với ông, tôi đã nhận ra rằng các nhà kinh tế học đã bỏ quên các tác phẩm trí tuệ bên ngoài câu lạc bộ của họ – bất kể những tác phẩm đó có giá trị đến mức nào. Lorenzo Perilli đã hết sức hào phóng đưa ra những lời nhận xét về Menodotus và giúp tôi chỉnh sửa một vài sai sót. Duncan Watts đã tạo điều kiện để tôi được giới thiệu phần ba của cuốn sách này tại hội thảo về xã hội học tại Đại học Columbia và đã thu thập được vô số những lời nhận xét David Cowan đã cung cấp biểu đồ cho phần thảo luận về Poincaré, khiến biểu đồ của tôi trở nên mờ nhạt. Cũng xin cảm ơn James Montier về những nội dung đầy súc tích về bản chất con người. Như thường lệ, Bruno Dupire luôn cùng tôi có những buổi trò chuyện hữu ích nhất trong khi tản bộ.
Sẽ chẳng mất gì khi trở thành người bạn trung thành của một tác giả kiêu hãnh quá gắn bó với bản viết tay của mình. Marie-Christine Riachi đã được giao một công việc chẳng thích thú gì là đọc các chương của cuốn sách này theo thứ tự từ sau ra trước; tôi chỉ đưa cho cô ấy những mẩu nội dung chưa hoàn chỉnh và chủ yếu toàn là những nội dung (khi đó) chẳng rõ ràng gì. Jamil Baz luôn nhận được nội dung hoàn chỉnh nhưng thường chọn cách đọc từ sau ra trước. Laurence Zuriff đã đọc và nhận xét về mỗi chương. Philip Halperin, người biết rõ về quản lý rủi ro hơn bất kỳ người nào (vẫn) còn sống, đã cho tôi những nhận xét và quan sát tuyệt vời. Ngoài ra còn có các “nạn nhân” khác như Cyrus Pirasteh, Bernard Oppetit, Pascal Boulard, Guy Riviere, Joelle Weiss, Didier Javice, Andreea Munteanu, Andrei Pokrovsky, Philippe Asseily, Farid Karkaby, George Nasr, Alina Stefan, George Martin, Stan Jonas, và Flavia Cymbalista.
Tôi đã nhận được những lời nhận xét hữu ích từ nhà tri thức khát khao kiến thức Paul Solman (người đã đọc qua bản thảo của tôi bằng kính hiển vi). Xin chân thành cảm ơn Phil Rosenczweig, Avishai Margalit, Peter Forbes, Michael Schrage, Driss Ben Brahim, Vinay Pande, Antony Van Couvering, Nicholas Vardy, Brian Hinchcliffe, Aaron Brown, Espen Haug, Neil Chriss, Zvika Afik, Shaiy Pilpel, Paul Kedrosky, Reid Bernstein, Claudia Schmid, Jay Leonard, Tony Glickman, Paul Johnson, Chidem Kurdas (và các nhà kinh tế học trường phái Áo của Đại học New York), Charles Babbitt, cùng với rất nhiều người mà tôi đã quên tên. 78
Ralph Gomory và Jesse Ausubel của Qũy Sloan Foundation đã thực hiện một chương trình tài trợ nghiên cứu có tên The Known, The Unknown, and The Unknowable (Tạm dịch: Điều đã biết, điều chưa biết và điều không thể biết). Hai người đã hỗ trợ về tài chính và tinh thần cho việc xúc tiến các ý tưởng của tôi – tôi đã nhận sự giúp đỡ tinh thần vô giá của họ. Cũng xin cảm ơn các đối tác làm ăn, các đồng tác giả, và các cộng sự: Espen Haug, Mark Spitznagel, Benoit Mandelbrot, Tom Witz, Paul Wilmott, Avital Pilpel, và Emanuel Derman, đồng thời cảm ơn John Brockman và Katinka Matson vì đã giúp đỡ thực hiện cuốn sách này, và Max Brockman về những lời nhận xét của anh đối với bản thảo. Xin chân thành cảm ơn sự chịu đựng của Cindy, Sarah, và Alexander. Alexander đã giúp phần biểu đồ, còn Sarah giúp về phần lịch sử.
Tôi đã cố tạo ra vẻ là một tác giả bướng bỉnh cùng cực với nhà biên tập của mình, Will Murphy, để rồi phát hiện ra rằng mình thật may mắn khi anh cũng là một nhà biên tập bướng bỉnh không kém (nhưng giỏi che giấu điều đó). Anh đã bảo vệ tôi khỏi sự cẩu thả của những nhà biên tập “chuẩn hóa” – những người có khả năng “phi thường” có thể gây ra thiệt hại cực độ chỉ với những thay đổi cực nhỏ bằng cách phá vỡ mạch văn của tác giả. Tôi rất vinh hạnh được Daniel Menaker dành thời gian biên tập nội dung cuốn sách này. Cũng xin cảm ơn Janet Wygal và Steven Meyers. Toàn thể nhân viên ở Nhà xuất bản Random đã rất hỗ trợ tôi – nhưng vẫn không thể nào quen với những trò đùa điện thoại của tôi (giống như những trò tôi đã cố thử với Bernard-Henry Levy). Một trong những điểm nổi bật trong sự nghiệp viết lách của tôi là một bữa ăn trưa kéo dài nhiều giờ với William Goodlad, nhà biên tập ở Penguin, và Stefan McGrath, giám đốc điều hành của tập đoàn này. Tôi bỗng nhận ra rằng mình không thể tách rời phong cách người kể chuyện ra khỏi nhà tư tưởng khoa học trong tôi; thực tế là cốt truyện xuất hiện trước thay vì xuất hiện sau như một minh họa cho khái niệm.
Phần 3 của cuốn sách này đã tạo cảm hứng cho những bài giảng của tôi tại Đại học Massachusetts ở Amberst. Tôi cũng xin cảm ơn ngôi nhà thứ hai của mình, Viện Khoa học toán học Courant của Đại học New York, nơi tôi có vinh hạnh được giảng dạy trong suốt gần một thập kỷ.
Thật đáng tiếc là bạn lại học được nhiều nhất từ chính người mà mình bất đồng quan điểm – những thứ Montaigne đã khuyến khích cách đây nửa thiên niên kỷ nhưng hiện vẫn hiếm khi được thực hiện. Tôi phát hiện ra rằng điều đó đã thêm thắt nhiều gia vị cho các luận cứ của bạn vì bạn biết rằng những người này sẽ nhận dạng được những vết rạn nứt nhỏ nhất – và bạn có thể tìm thấy thông tin về những giới hạn trong các lý thuyết của họ cũng như những yếu điểm của chính mình. So với các bằng hữu, tôi tỏ ra biết ơn những kẻ gièm pha mình hơn, đặc biệt những người đã (và vẫn) giữ được phép lịch sự. Vì thế, trong suốt sự nghiệp của mình, tôi đã học được một vài thủ thuật từ hàng loạt các tranh luận công khai, các trao đổi và thảo luận với Robert C. Merton, Steve Ross, Myron Scholes, Philippe Jorion, và nhiều người khác (mặc dù, ngoài bài phê bình của Elie Ayache, lần cuối cùng tôi nghe được điều gì đó mới mẻ chống lại các ý tưởng của mình là vào năm 1994). Những tranh luận này rất có giá trị vì tôi đang tìm kiếm những luận chứng phản đề cho ý tưởng Thiên Nga Đen của mình và tìm cách biết được những người gièm pha mình nghĩ gì – hoặc không nghĩ gì. Theo thời gian, rốt cuộc tôi đọc tài liệu về những người mình bất đồng quan điểm nhiều hơn so với những người có cùng quan điểm – tôi đã đọc Samuelson nhiều hơn Hayek, Merton (trẻ) nhiều hơn Merton (già), Hegel nhiều hơn Montaigne, và Descartes nhiều hơn Sextus. Trách nhiệm của mỗi người viết là trình bày lại ý tưởng của đối phương mình một cách chính xác đến mức có thể.
Thành tích lớn nhất trong đời tôi là đã được làm bạn với nhiều người, như Elie Ayacheaoaatsl Jim Gatheral, bất kể một số quan điểm bất đồng.
Phần lớn nội dung cuốn sách này được viết trong thời gian tôi rong ruổi khi tự giải phóng mình khỏi (hầu hết) các nghĩa vụ, công việc thường ngày, các áp lực và tiếp tục những chuyến lang thang trầm tư mặc tưởng ở những thành phố nơi tôi có một loạt các buổi diễn thuyết về ý tưởng Thiên Nga Đen. 79 Tôi chủ yếu viết trong các quán cà phê – tôi thích những quán cà phê thường thường (nhưng thanh lịch) ở khu vực gần nhà, nơi có càng ít giới kinh doanh càng tốt. Tôi cũng hay ngồi ở Heathrow Terminal 4, chăm chú viết đến mức quên cả việc “dị ứng” với sự có mặt của giới thương gia mặt mũi lúc nào cũng căng thẳng.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.