Xử Thế Trí Tuệ Toàn Thư - Thuật Nói Chuyện
Chương 3: Lời Nói Phải Trúng Vào Điểm Mấu Chốt
Học trò của Mặc Tử là Tử Cầm đã từng hỏi ông: “Nói nhiều thì tốt hay không tốt?”, Mặc Tử đã nói ví để chỉ bảo học trò: “Con ếch trong ao, hồ từ sáng đến tối vẫn kêu uôm uôm, con ruồi trong hố phân cả ngày cứ vo ve vo ve, thế nhưng ai thèm để ý đến chúng? Còn như chú gà trống gáy báo sáng hàng ngày, chỉ một tiếng gà dài, người trong khắp thiên hạ đều tỉnh giấc, nhanh chóng thức dậy.” Tử Cầm gật đầu, cậu đã hiểu rõ lời dạy của thầy mình. “Nói nhiều thì có tác dụng gì? Vào thời điểm quan trọng, một hai câu cũng đủ rồi”.
Tục ngữ nói: “Đánh rắn phải đánh dập đầu”. Tại sao lại phải đánh dập đầu? Chính vì đó là chỗ hiểm yếu nhất của con rắn. Cũng như vậy, khi nói chuyện cũng cần ngắn gọn, “chích đúng vào mạch máu”, đâm đúng chỗ hiểm. Chỉ khi nào lời nói của bạn vào đúng điểm mấu chốt, bạn mới có thể làm người khác rung động, từ đó mà đạt được mục đích nói chuyện của mình.
Một lời nói của Lưu Bị giết chết cả Lã Bố.
Những người thường xem “Tam Quốc diễn nghĩa” luôn cảm thấy Lưu Bị là “một cái thùng cơm lớn” (ý nói kẻ vô dụng), bình thường chỉ biết giả nhân giả nghĩa, khi gặp việc lớn thì khóc lóc sướt mướt, ngay cả khi làm tân lang vào động phòng cũng cần Triệu Tử Long bảo vệ. Thực ra, chính là chưa hiểu về Lưu Bị. Người hiểu Lưu Bị như Gia Cát Lượng đã khen vị Lưu Hoàng Thúc này là “tài mỹ cái thế” nếu không, làm sao ông ta có thể cam tâm tình nguyện, vì Lưu Bị mà “cúc cung tận tuỵ, tử nhi hậu kỷ” được? Ngay cả Tào Tháo uy danh bốn bể cũng phải ca ngợi Lưu Bị là “anh hùng trong thiên hạ”, nếu không việc gì mà Tào Tháo cứ phải bố trí phòng vệ Lưu Bị ở khắp nơi.
Chúng ta nói Lưu Bị là “một kẻ vô dụng” đó là vì chúng ta bị “một chiếc lá che khuất tầm nhìn” mới “không thấy được núi Thái Sơn”. Thực ra, học vấn, hiểu biết, quyết sách, tài ứng biến, cách dùng người, sự mưu trí của Lưu Bị không điểm nào không đạt đến đỉnh điểm, còn như tài nói chuyện thì “một lời làm kinh động bốn cõi”. Nhân tiện, xin mời độc giả xem đoạn miêu tả đặc sắc hồi thứ 19, Tam Quốc Diễn Nghĩa: “Hạ Khưu thành, Tào Tháo long binh, Bạch Môn hầu Lã Bố mất mạng”.
Khi Tào Tháo tiễn Trần Cung xuống dưới lầu (Tào Tháo đã bắt ân nhân cứu mạng mình là Trần Cung, một mưu sỹ của Lã Bố, vì khuyên hắn đầu hàng không thành nên muốn lấy đầu của hắn, nhưng vẫn cứ giả bộ tiễn Trần Cung xuống lầu). Lã Bố nói với Huyền Đức (tức Lưu Bị) rằng: “Ngài là thượng khách, Lã Bố tôi là kẻ bị cầm tù, sao ngài không nói một lời để giảm nhẹ cho tôi?” Huyền Đức gật đầu, khi Tào Tháo trở lại, Lã Bố nói: “Mối hoạ của Minh công (tức Tào Tháo) chẳng qua chỉ là Lã Bố (ý muốn nói người mà Tào Tháo sợ nhất chính là Lã Bố ta đây). Lã Bố nay đã hàng phục. Minh công là đại tướng, Lã Bố làm phó, việc lập thiên hạ sẽ đâu khó khăn gì”. Tào Tháo quay sang hỏi Huyền Đức: “Ông thấy thế nào?” Huyền Đức đáp: “Ông còn nhớ việc việc Đinh Kiến Dương và Đổng Trác không?” Lã Bố nhìn Huyền Đức nói: “Đó là kẻ bất tín nhất trên đời”. Thế là Tào Tháo cho người đưa Lã Bố xuống treo cổ.
Đinh Kiến Dương, người mà Lưu Bị nhắc đến ở đây chính là Đinh Nguyên, từng làm quan Thứ sử ở Hình Châu, là người cha nuôi đầu tiên của Lã Bố. Sau này, Đổng Trác dùng kế của Lý Nho, đem ngựa Xích thố và chức quan cao bổng lộc mua chuộc Lã Bố, Lã Bố liền quay mũi giáo đánh lại đâm chết Đinh Nguyên, chạy sang với Đổng Trác, lạy Đổng Trác làm cha nuôi. Về sau, Vương Xung dùng liên hoàn kế mỹ nhân, chia rẽ quan hệ giữa Lã Bố và Đổng Trác, thế là Lã Bố liền tự tay giết chết Đổng Trác. Lần này Lã Bố bị Tào Tháo bắt, Tào Tháo vốn cũng có ý muốn dùng Lã Bố. Nhưng chỉ một lời nói của Lưu Bị nhắm trúng đích đã làm thay đổi tất cả. Hai người cha nuôi của Lã Bố đều bị chết trong tay hắn, làm sao Tào Tháo không hiểu được điều đó.
Như vậy, một câu nói quan trọng của Lưu Bị đã lấy đi tính mạng của Lã Bố. Điều này vừa thể hiện Lưu Bị là một bậc anh hùng mưu lược, có tầm nhìn sâu rộng, vừa thể hiện Lưu Bị có tài ăn nói của một nhân vật trí dũng kiệt xuất. Lưu Bị biết rõ tuy lúc đó mình là thượng khách của Tào Tháo, nhưng đây chỉ là kế hoãn binh tạm thời, trong tương lai, Tào Tháo hẳn sẽ là đối thủ số một của mình. Nếu như để Tào Tháo giữ lại một mãnh tướng như Lã Bố (ở cửa Hổ Lao, ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi phải cùng liên thủ mới thắng được Lã Bố) thì hẳn sẽ khác nào hổ chắp thêm cánh. Đương vào lúc quan trọng này, muốn thuyết phục để Tào Tháo giết Lã Bố thì phải nói trúng điểm then chốt nhất. Vì cả đời Tào Tháo vốn đa nghi, đối với Lưu Bị cũng rất cảnh giác, không thể nói lỡ lời, nếu như để Tào Tháo biết được suy tính của mình thì sẽ đem đến phiền phức cho bản thân. Vậy phải làm thế nào? Lưu Bị nghĩ không được nhiều lời mà phải một lời trúng đích. Vì thế câu “Ông còn nhớ chuyện Đinh Kiến Dương và Đổng Trác không?” chỉ là buột miệng nói ra, chỉ mười một chữ ngắn ngủi, một mặt đã giáng một đòn chí mạng vào Lã Bố – Vong ân bội nghĩa, chỉ thích quay mũi giáo đánh lại. Mặt khác nó đã đánh vào nhược điểm lớn nhất của Tào Tháo: đa nghi, tài ăn nói này của Lưu Bị quả không hề thua kém chút nào so với lần tranh cãi với đám nho sĩ của Gia Cát Lượng. Chỉ một câu nói ngắn ngủi này đã phản ánh một cách đầy đủ nhất trí tuệ và tài ăn nói của Lưu Bị.
Khoái Thông khéo biện hộ mà cứu được chính mình
Khoái Thông là một nhà mưu lược nổi tiếng thời Tần Hán, có sở trường hùng biện, đối đáp giỏi. Vào thời Hán Sở giao tranh, ông từng khuyên Hàn Tín tự tập hợp quân đội. Vì Hàn Tín không nghe theo mưu kế của ông, ông sợ rằng sẽ rước hoạ vào thân nên giả dạng điên khùng, sống ẩn dật ở nước Tề.
Năm 198 trước Công nguyên, Hàn Tín mưu phản nên bị giết chết, Khoái Thông, người đã từng du thuyết Hàn Tín tạo phản cũng bị tội. Hán Cao Tổ sau khi bắt được Khoái Thông, liền hỏi: “Người đã từng xúi bẩy Hoài âm Hầu mưu phản phải không?”
Khoái Thông trả lời: “Đúng vậy tôi vốn đã từng xúi giục anh ta”. Khoái Thông biết rõ phủ nhận lúc này chẳng có tác dụng gì, có khi còn không bằng thẳng thắn nói thật, không những như vậy, trước mặt Hán Cao Tổ, ông còn nói lên suy nghĩ của mình đối với việc xúi bẩy Hàn Tín không thành công, Chỉ nghe thấy Khoái Thông tiếp tục nói: “Nếu như lúc đầu Hoài âm Hầu tiếp thu kế sách của tôi, thì bệ hạ sao có thể giết được anh ta.”
Hán Cao Tổ vô cùng tức giận, hạ lệnh “đem thiêu”, muốn thiêu sống ông ngay lập tức. Trong thời điểm nguy cấp giữa sự sống và cái chết, lời nói của Khoái Thông nếu không đúng điểm then chốt, e rằng sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội được nói tiếp nữa. Khoái Thông hiểu rõ điều này chỉ có cách thông qua lời nói điểm đúng huyệt đạo thì mới làm động lòng của Hán Cao Tổ và mình mới có hi vọng được sống sót. Vì thế, Khoái Thông đã bắn rạ một mũi tên trúng đích:
“Pháp luật của nhà Tần suy bại, chính quyền tan rã, vùng Sơn Đông đại hạn, các thế lực thi nhau nổi dậy, anh hùng hào kiệt quần tụ như bầy quạ. Triều Tần mất đi ngôi vua của mình. Người trong thiên hạ đua nhau tranh quyền đoạt lợi, người nào có bản lĩnh cao cường, hành động nhanh chóng sẽ giành được. Chó của Đạo Chích sủa vua Nghiêu, không phải vì Nghiêu không nhân từ mà do Nghiêu không phải là chủ của nó. Lúc đó, tôi chỉ có Hàn Tín, không biết có bệ hạ. Hơn nữa những kẻ tay cầm vũ khí tinh nhuệ trong thiên hạ đều muốn là bệ hạ, những kẻ muốn làm những việc mà người làm thì nhiều vô cùng, chỉ có điều không đủ khả năng mà thôi, liệu người có thể thiêu chết tất cả bọn họ hay không?”
Những câu nói này của Khoái Thông đã đánh đúng điểm then chốt: Năm cuối nhà Tần, những người muốn làm hoàng đế rất nhiều, vậy Hàn Tín vì sao lại không thể làm, tôi dựa vào Hàn Tín, đương nhiên phải dốc sức cho anh ta, tôi sở dĩ phản đối ông cũng chỉ là vì ông không phải chủ nhân của tôi. Tôi khuyên Hàn Tín nắm quyền, đây cũng là cái nghĩa nên làm của kẻ bề tôi, ai vì chủ nấy mà. Như vậy tất cả những người phản đối ông, ông có thể giết chết hết bọn họ không? Cũng chính vì lời nói ngôn ngữ xác đáng này của Khoái Thông, chỉ ra đại nghĩa, chỉ rõ lợi hại, Lưu Bang nghe xong mới hạ lệnh “tha”, tha cho Khoái Thông, có thể thấy lời nói phải đúng điểm then chốt quan trọng biết chừng nào.
Khi nói chuyện nếu như không nói đúng điểm then chốt nhất thì không thể làm rung động sợi dây quan tâm nhất, nhạy cảm nhất vốn rất sâu kín trong lòng đối phương, làm cho họ động lòng, xúc động mà thay đổi chủ ý. Mời các bạn xem tiếp phần nói về câu chuyện cúi đầu nhận tội như sau:
Liêm Pha cúi đầu nhận tội
Thời Chiến Quốc, vua Triệu Huệ Văn nước Triệu ra lệnh bổ nhiệm Lạn Tương Như làm tướng quốc. Tin tức truyền đi, đại tướng quân Liêm Pha rất không phục nói: “Ta là đại tướng, đã lập được bao công lao to lớn cho nước Triệu. Lạn Tương Như thì là cái gì, chỉ dựa vào ba tấc lưỡi mà đã leo lên đầu ta. Hừ, nếu như trên đường mà gặp hắn, nhất định sẽ cho hắn biết tay”.
Câu nói này đã đến tai Lạn Tương Như, ông nghĩ, nước Tần hùng mạnh sở dĩ không dám tấn công nước Triệu chẳng phải vì ở nước Triệu, văn đã có ta, võ đã có Liêm Pha đó sao? Nếu như ta và Liêm Pha mâu thuẫn với nhau, hai con hổ giao tranh hẳn có một con bị thương. Nước Tần hẳn sẽ nhân cơ hội này mà tiến công. Thế là Lạn Tương Như giả ốm không lên triều, để tránh gây xung đột với Liêm Pha.
Một hôm, Lạn Tương Như đem theo đám tuỳ tùng ra bên ngoài, từ xa đã trông thấy xe ngựa của Liêm Pha tiến tới ông vội vàng bắt người đánh xe tấp vào một con đường nhỏ, để nhường đường cho xe ngựa của Liêm Pha ngang qua. Những người thuộc hạ không phục nói: “Chức quan của đại nhân cao hơn tướng quân Liêm Pha, tại sao đại nhân lại sợ ông ta?”
Lạn Tương Như cười, nói: “Các ngươi nói, Liêm tướng quân và vua Tần, ai uy phong hơn?”
“Vua Tần”, đám thuộc hạ đều trả lời vậy.
Lạn Tương Như nói: “Đúng vậy, Tần vương uy phong như thế chư hầu các nước đều sợ ông ta, song ta dám chỉ trích ông ta ngay tại triều đình nước Tần, vậy sao ta có thể sợ một tướng quân Liêm Pha mà uy phong chẳng bằng vua Tần? Ta sở dĩ tránh Liêm tướng quân là bởi vì nếu như chúng ta bất hoà, nước Tần sẽ lợi dụng cơ hội này mà vào tấn công nước Triệu, ta vốn lo cho quốc gia nguy cấp trước sau mới đến chuyện tư thù”.
Đám thuộc hạ mới vỡ lẽ. Thì ra Tướng quốc nhường nhịn Liêm Pha tướng quân là để bảo vệ non sông, xã tắc nước Triệu. Tài đức của tướng quốc quả là vĩ đại. Lời nói của Lạn Tương Như đã truyền đến tai Liêm Pha, Liêm Pha tỉnh ngộ, vô cùng hổ thẹn. Để thể hiện sự hối hận, Liêm Pha để mình trần, lưng đeo cành cây mận gai, đến tận nhà Lạn Tương Như để nhận tội. Lạn Tương Như rộng lượng tha thứ cho Liêm Pha. Lạn Tương Như và Liêm Pha hai người một văn, một võ dốc tâm hợp lực giúp đỡ Triệu Huệ Văn Vương cai trị nước Triệu khiến cho nước Tần không dám xâm phạm nữa.
Có thể nói, trong lời nói của Lạn Tương Như, từng chữ từng chữ đều điểm trúng huyệt đạo, đặc biệt câu “Lo việc quốc gia trước, sau mới đến thù oán cá nhân” đã nhằm trúng điểm quan trọng nhất. Một mặt đã thể hiện tâm lí sâu sắc cao thượng của Lạn Tương Như, ông là người hiểu rõ đại nghĩa, là một bậc quân tử chân chính. Nhưng mặt khác, đã ngầm chế giễu Liêm Pha là người không hiểu rõ đại nghĩa, không nhìn toàn cục. Câu nói trúng điểm then chốt này đã khiến Liêm Pha phải suy nghĩ. Liêm Pha vốn không phải là người không hiểu lẽ lớn, chỉ là nhất thời hồ đồ, nhưng khi được Lạn Tương Như chỉ rõ, việc ông cúi đầu nhận tội cũng là một việc hợp tình hợp lí.
Vị Thủ tướng Chu ân Lai mà chúng ta quý trọng cũng đã dùng lí lẽ “Lo việc quốc gia trước, sau mới đến chuyện tư thù” để thuyết phục một số sĩ quan Đông Bắc trẻ tuổi lòng đầy căm phẫn muốn giết Tưởng Giới Thạch, khiến bọn họ bỏ đi những quan niệm sai lầm, từ đó đã đặt nền móng cho việc giải quyết hoà bình sự biến Tây An và việc hình thành bước đầu chiến tuyến dân tộc thống nhất kháng Nhật. Nội dung chính của câu chuyện như sau:
Lợi ích của dân tộc và quốc gia cao hơn tất cả
Sau khi sự biến Tây An nổ ra, Chu ân Lai dẫn đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc đến Tây An. Lúc này, khí thế “giết Tưởng” ở trong quân đội Đông Bắc rất lớn, đặc biệt là các sĩ quan cấp dưới. Chủ trương không giết Tưởng, giải quyết hoà bình biến sự Tây An mà Đảng Cộng Sản đề ra, có rất nhiều quân nhân không hiểu, có người còn rêu rao muốn gây rối loạn.
Một buổi sáng, khi Chu ân Lai vừa đến nhà nghỉ, một sĩ quan trẻ tuổi hùng dũng bước tới, đùng giọng Đông Bắc đặc sệt nói một cách cứng cỏi: “Đồng chí Chu, tôi nhận sự giao phó của toàn thể quân nhân đoàn huấn luyện sĩ quan Vương Khúc, xin mời đồng chí đến họp”.
Chu ân Lai mỉm cười nhận thiếp mời, vui vẻ đồng ý lời mời của viên sĩ quan, nói: “Vô cùng cảm ơn lời mời của các anh, tôi nhất định sẽ có mặt đúng giờ.”
Thấy Phó Chủ tịch Chu ân Lai tiếp nhận lời mời, mọi người vô cùng lo lắng, bởi vì đoàn huấn luyện sĩ quan Vương Khúc phần lớn đều là những thanh niên khoẻ mạnh, vô cùng lỗ mãng, việc gì cũng dám làm, đi đến đó thật là nguy hiểm, có người vì vậy đã khuyên Phó chủ tịch Chu không nên đi. Chu ân Lai mỉm cười nói: “Các đồng chí không nên lo lắng, tôi không sao đâu, tôi đến để thuyết phục bọn họ chứ đâu phải đến để cãi nhau với họ”
Khi phó chủ tịch Chu ân Lai một mình đi đến trường học sĩ quan Vương Khúc, chỉ trông thấy trên con đường lớn từ cổng trường cho đến gian hội trường đứng đầy các sĩ quan vũ trang chỉnh tề, ai nấy trợn mắt trừng trừng hằm hằm giận dữ, có tư thế sắp gây sự cãi nhau, Phó chủ tịch Chu ung dung tự tại đi xuyên qua hai hàng sĩ quan tư thế đầy phẫn nộ, khuôn mặt ông luôn mỉm cười, dường như chẳng để ý đến bất cứ điều gì, Chu ân Lai bước lên bục giảng của hội trường, trước hết ông hỏi thăm sức khoẻ của các vị sĩ quan một cách rất lịch sự, sau đó ông nói một cách hiền từ: “Hôm nay tôi đến quý trường là muốn được nghe ý kiến của các vị, hi vọng mọi người sẽ không quá gò bó, cứ nói năng thoải mái. Thiên hạ hưng vong, ai cũng có trách nhiệm, huống hồ chúng ta đều là những quân nhân yêu nước”.
Phía dưới lập tức có người hỏi: “Tưởng Giới Thạch mất quyền hành, làm nhục quốc thể tội ác tày trời, tại sao không giết nó?” “Không giết Tưởng Giới Thạch, thì tại sao lại muốn bắt hắn”, “Nếu không giết sẽ không làm dịu cơn tức giận trong nhân dân”, “không giết Tưởng Giới Thạch, hậu hoạ khôn lường.”
Mãi cho đến khi dường như mọi người đều nói hết, Chu ân Lai mới nói lớn: “Muốn giết thì có khó khăn gì? Chỉ một câu là xong ngay”.
Câu trả lời ngoài dự đoán trong chốc lát đã khiến cho mọi người trong hội trường đều ngơ ngác. Sau đó Chu ân Lai phân tích tóm tắt tình hình chính trị, tình hình quân sự trong và ngoài nước. Sau biến sự Tây An với bọn họ, tiếp đó ông bàn đến vấn đề vì sao chủ trương không giết Tưởng Giới Thạch, Chu ân Lai nói: “Các vị, trong tình hình như vậy thì giết là tốt hay không giết là tốt. Giết chết một tên Tưởng Giới Thạch thì lại xuất hiện một tên Hà Giới Thạch, Lí Giới Thạch khác. Mà tên Hà Giới Thạch này khi vừa lên cầm quyền hắn liền công khai câu kết với người Nhật, để tiến đánh Tây An, cuộc nội chiến sẽ vẫn tiếp tục, Trung Quốc sẽ bị diệt vong. Còn nếu như không giết hắn, hiện tại Tưởng Giới Thạch ở trong tay chúng ta, chúng ta có thể ép hắn kháng Nhật. Lần trước không phải là Hà ứng Khâm đã cho máy bay ném bom ở Tây An sao? Chúng ta ép Tưởng Giới Thạch viết một bức thư ngắn, mấy hôm nay không phải đã yên rồi đó sao? Xem ra Tưởng Giới Thạch ít nhiều vẫn còn có ích. Do vậy, có lẽ không giết thì tốt hơn”.
Phó Chủ tịch Chu ân Lai đã giảng lí lẽ một cách rõ ràng rành rọt, mối hoài nghi trong lòng của đông đảo sĩ quan trẻ cuối cùng đã được rũ bỏ. Nhưng còn có một số ít người không cởi bỏ bởi hoài nghi trong lòng. Vị sĩ quan trẻ tuổi đến mời phó chủ tịch Chu ân Lai lần trước bỗng hỏi ông: “Đảng Cộng sản xưa nay vốn chủ trương đánh Tưởng chống Nhật, tại sao bây giờ lại thay đổi?”
“Ý của anh là, chúng tôi và Tưởng Giới Thạch đã đánh nhau mười năm thề không đội trời chung, tại sao lần này không thừa cơ báo thù, giết hắn ta, phải không?” Phó chủ tịch Chu ôn tồn hỏi lại.
“Đúng, ý tôi nói chính là như vậy !” Viên sĩ quan kia trả lời.
Chu ân Lai nói bằng ngữ điệu thâm trầm: “Trong Hồng quân chúng tôi có một vị tướng quân, tên là Từ Hải Đông. Gia đình anh ta có 36 người, trừ anh ta ra, 35 người còn lại đều bị Tưởng Giới Thạch giết hại. Thật quá bi thảm. Mối thù này mới thật là sâu sắc. Thế nhưng lần này anh ta lại chủ trương không giết Tưởng Giới Thạch. Vì sao vậy? Vì anh ta là đảng viên Đảng cộng sản. Đối với một đảng viên Đảng cộng sản mà nói, lợi ích của dân tộc và quốc gia cao hơn tất cả”.
Lúc này toàn bộ quân nhân có mặt trong hội trường đều rất cảm động, rồi vang lên một tràng vỗ tay nhiệt liệt, kéo dài mãi không dứt. Người sĩ quan trẻ tuổi đó rời khỏi đám đông, chạy lên phía trước hướng về Chu ân Lai thực hiện lễ tiết quân nhân, rồi nói: “Đồng chí Chu, Đảng cộng sản không quên mối thù với Nhật, lấy lợi ích của quốc gia và dân tộc làm trọng, anh em chúng tôi trong lòng vô cùng khâm phục”.
Thế là tư tưởng của các sĩ quan đã sáng tỏ hoàn toàn, cùng hô vang khẩu hiệu tự đáy lòng mình “Tán thành chủ trương của Đảng cộng sản Trung Quốc”, “ủng hộ quyết định của Trương, Dương”…
Muốn thuyết phục những sĩ quan trẻ tuổi này quả thực rất khó, bởi vì trong lời nói của họ không phải là không có chút lí lẽ nào, nếu như không nắm vững điều cơ bản của sự vật, không đánh trúng yếu huyệt của sự vật, lời nói không trúng trọng tâm thì khó mà thuyết phục được đám sĩ quan Đông Bắc trẻ tuổi, khoẻ mạnh và đang tức giận kia. Câu nói “Lợi ích của dân tộc và quốc gia cao hơn tất cả” của vị Phó Chủ tịch Chu mà chúng ta rất kính trọng đã chỉ rõ thực chất của việc “không giết Tưởng” khiến cho các sĩ quan trẻ tuổi không nhìn rõ đại cục kia tỉnh ngộ, tự động vứt bỏ chủ trương sai lầm không xem xét tình hình mà cứ đòi giết Tưởng, quay sang tán thành chủ trương đúng đắn giải quyết hoà bình sự biến Tây An của Đảng Cộng Sản.
Nếu muốn làm động lòng người khác thì phải điểm trúng chỗ đau của đối phương, còn như làm thế nào có thể điểm vào chỗ đau của đối phương thì mỗi người một khác, có thể đánh vào tiếng tăm và danh dự, đánh vào tâm lý, lương tâm, đánh vào lợi ích được mất. Bây giờ, chúng ta hãy xem những câu chuyện sau đây:
Uy tín và danh dự vô cùng quan trọng.
Một đồng chí đã cao tuổi từ Tân Cương đến công tác ở Quảng Châu, đến một cửa hàng đầu phố, ông mua mấy bộ quần áo. Khi trả tiền, cô gái bán quần áo trông thấy trong ví tiền của ông có “tiền ngoại tệ” mấy trăm tệ, liền nảy lòng gian, thừa lúc ông không chú ý, liền lấy ví tiền nhét vào trong đống quần áo. Khi người cán bộ này sắp ra về, ông phát hiện ví tiền của mình không cánh mà bay, vô cùng lo lắng. Lúc này, trong cửa hàng chỉ có hai người bọn họ, ông biết rõ chuyện này có liên quan đến cô gái, nhưng không “bắt được tận tay”. Khi ông nêu ra chuyện này với cô một cách rất lịch sự, cô nói sẵng giọng: “Ông nói là tôi lấy hả? Được, ông đi gọi cảnh sát đến đây?”
Người cán bộ biết nếu ông rời khỏi cửa hàng thì “tang vật” sẽ bị mang đi, và như vậy ông càng không có hi vọng. Vậy phải làm thế nào? “Cứng” không được thì phải “mềm”. Thế là, ông liền quay sang mỉm cười với cô gái. “Tôi cũng đâu có nói là cô lấy, có lẽ là trong khi bận rộn có sai sót, lẫn vào trong đống quần áo rồi”. Câu nói này rất có chừng mực, khiến cho cô gái chuẩn bị phải “xuống nước”, lúc này có người lại vào mua đồ, cản trở cuộc nói chuyện của hai người. Người cán bộ cố ý chơi trò “đánh cầm cự lâu dài”. Hai mắt chăm chú nhìn vào quầy hàng. Cô gái tỏ ra có chút tinh thần bất an.
Đợi khi cửa hàng chỉ còn lại hai người, người cán bộ nén giọng lại, nói nhỏ: “Cô gái, tôi vừa nãy đã quan sát công việc buôn bán nhiều như thế này của cô, sao cô có thể đối xử với tôi như vậy? Tôi thấy cô tuổi còn rất trẻ, ở một cửa hàng mặt phố đông đúc thế này, mỗi tháng thu nhập tiền trăm tiền nghìn, danh dự là vô cùng quan trọng”. Câu nói này vừa có ý khẩn cầu, vừa có ý khuyên bảo, còn có ý ngầm chỉ, nói đến mức cô gái phải cúi gằm mặt, trong lòng đấu tranh tư tưởng ghê gớm.
Người cán bộ còn nói tiếp: “Người ta từ Tân Cương mấy nghìn dặm nhờ tôi mua hộ hàng hoá, khó khăn lắm mới góp được vài tờ ngoại hối mấy trăm đồng, nếu mất, tôi biết ăn nói thế nào? Xin cô hãy tìm kỹ hộ tôi xem”
Cô gái đã không chống lại được lời khẩn cầu và khuyên răn, cuối cùng nói: “Để tôi tìm cho bác thử xem!”
Người cán bộ nói: “Tôi biết ngay là cô sẽ giúp tôi mà”.
Quả nhiên, cô gái liền giả bộ lật tìm một hồi, cuối cùng cô đã “tìm” thấy ví tiền trong đống quần áo, rồi ngượng ngùng đưa ví tiền trả ông.
Lời nói mềm mỏng, từ tốn của người cán bộ vừa đánh trúng vào sự được và mất, lợi và hại, “buôn bán mà mất uy tín thì không được” “Uy tín và danh dự vô cùng quan trọng”, vừa chỉ rõ con người phải có lương tâm, một cô gái trẻ trung như cô mỗi tháng thu nhập tiền trăm tiền ngàn, sao có thể làm mờ ám lương tâm lấy trộm tiền của những người từ vùng Tân Cương xa xôi gởi nhờ để mua đồ. Hơn nữa, người cán bộ còn nhìn kỹ gương mặt của cô gái, không nói thẳng ra là cô đã lấy ví tiền, mà nói là có thể vì bận rộn mà sai sót có lẽ đã để lẫn ví tiền trong đống quần áo đã tạo cho cô một điểm lùi an toàn. Câu nói này của người cán bộ đã gây ra một tác dụng làm lay động cực mạnh trong tâm lý cô gái. Vì vậy, cô gái bỗng nhiên tỉnh ngộ, cuối cùng đã cố hết dũng khí để “tìm” ra ví tiền.
Không thể đánh mất phẩm cách của con người
Tại một liên đội, vào một buổi sáng bị mất một chiếc áo bành tô. Điều này đã khiến cho các chiến sỹ vô cùng bực tức. Có người đề nghị hãy kiểm tra một lần xem, phải lật hòm mở tủ cũng phải tìm ra chiếc áo khoác đó. Liên đội trưởng và chính trị viên sau khi phân tích kỹ tình hình đã quyết định tiến hành giáo dục nhân sinh quan cho các chiến sỹ, sau đó mới tìm tăm tích chiếc áo. Liên đội trưởng và chính trị viên đã xuất phát từ góc độ cứu vớt các chiến sỹ nếu kiểm tra theo kiểu lật hòm mở tủ đương nhiên sẽ cháy “nhà ra mặt chuột”, nhưng chiến sỹ mà lấy chiếc áo đó sẽ chẳng bao giờ ngẩng mặt lên được. Từ đó, tâm hồn anh ta sẽ bị đeo một cái “giá chữ thập” nặng nề, đâu bằng hãy để anh ta chủ động thừa nhận sai lầm, trút đi gánh nặng tư tưởng. Thế nhưng đối với quyết định của liên đội và chính trị viên, có người còn không đồng tình: “Muốn dựa vào lời nói suông mà đòi bắt trộm, đúng là trò đùa!”.
Sau bữa tối, liên đội trưởng và chính trị viên triệu tập toàn liên đội lên lớp, nội dung bài giảng là: “Hạnh phúc cuộc đời là gì?” Chính trị viên đứng trước lớp: “Nói từ góc độ tâm lý học, hạnh phúc chính là một sự vui sướng và thoả mãn về mặt tâm lý, các chiến sỹ cách mạng coi hạnh phúc là thực hiện được lợi ích cho nhiều người, người có tư tưởng chủ nghĩa cá nhân bành trướng thì coi hạnh phúc là sự thoả mãn ham muốn cá nhân một cách vĩnh viễn không giới hạn. Do sự chi phối những tư tưởng này, họ đã đi ăn cắp, đi ăn cướp, vơ vét tiền của không từ bất cứ thủ đoạn nào”. Nói đến đây, chính trị viên nói về đặc điểm tâm lý của tên ăn trộm cho mọi người cùng nghe: “Có một tên ăm trộm, sau khi lấy trộm đồ của người khác, tâm lý sợ hãi giày vò đến nỗi ăn không ngon, ngủ không yên, ngày nào cũng sống một cách thấp thỏm không yên, sợ bị người la phát giác, có lần người khác vừa nói đến lừ “trộm”, anh ta nghe xong tự nhiên toàn thân run lên. Như vậy cho dù anh ta không thiếu tiền tiêu, nhưng luôn bị giày vò về mặt tinh thần. Cũng cùng một lập luận như vậy chúng ta tin rằng, người lấy chiếc áo của liên đội chúng ta, liệu có ngày nào tinh thần không bị giày vò không? Hơn nữa, anh ta còn đánh mất phẩm chất và sự tôn nghiêm quý báu nhất của mỗi con người, tôi tin rằng người chiến sỹ của liên đội chúng ta không ngốc như vậy, không thể chỉ vì một chiếc áo khoác mà phải trả một giá quá đắt như vậy”.
Hôm ấy, đã khuya rồi, có một chiến sỹ gõ cửa phòng chính trị viên đau xót nói với người chính trị viên: “ Chiếc áo khoác là do tôi lấy cắp”. Một câu nói của chính trị viên đã điểm trúng vào vết đau của tên ăn trộm, tinh thần luôn bị giày vò hành hạ, suốt ngày thấp thỏm lo ngay ngáy, sợ bị người ta phát giác. Chính trị viên còn chỉ rõ được và mất chỉ vì một chiếc áo khoác để mình phải chịu nỗi giày vò về mặt tinh thần, mất đi phẩm chất và sự tôn nghiêm đáng quý của con người, quả thực là không đáng. Câu nói này đã đánh trúng tâm lý đối phương, nói rõ điểm lợi hại nhất của đối phương, vì vậy, đã làm cho người chiến sỹ lấy áo khoác bỗng nhiên tỉnh ngộ, chủ động thừa nhận.
Danh dự không còn thì dùng tiền cũng chẳng mua lại được
Có lần, một đám thanh niên đi xe buýt nhưng không mua vé khi nữ nhân viên bán vé đến trước mặt anh ta mời anh ta mua vé, một trong số đó đã nói một cách trơn tuột: “ Chúng tôi đều là thanh niên thất nghiệp, không có tiền lương vậy mua vé làm gì chứ?”
Nữ nhân viên bán vé rất có kinh nghiệm trong việc đối phó với những trường hợp không mua vé này, cô biết với loại người này vừa không thể quá “cứng” lại cũng không thể quá “mềm”, phải dùng lời nói để kích động lòng tự tôn tự trọng của bọn họ trước. Thế là, người bán vé với thái độ vô cùng thành khẩn đã nói nhỏ với bọ họ: “Các anh hãy tự xem xem, giọng nói đó cho người ta ấn tượng thật là không tốt. Thực ra, tôi biết bản chất các anh không phải đều là người xấu. Các anh đã lớn như vậy, không phải là trẻ con, vài ba hào tiền vé chỉ là chuyện nhỏ, khi danh dự đã mất, các anh có bỏ tiền ra mua cũng không thể mua lại được. Hiện tại, các anh không mua vé, lại còn già mồm cãi cố, như vậy ảnh hưởng thật không hay. Tôi không tin rằng ngay cả tiền mua vé của các anh cũng không có. Hôm nay, nếu như các anh không mua vé xe, bao nhiêu hành khách trên xe đều nhìn kỹ bộ mặt của các anh, thật là hổ thẹn?”
Câu nói với ngôn ngữ chân thành, tình ý sâu xa này đã khiến mấy thanh niên kia xấu hổ, họ nhìn nhau khẽ cười, rồi lập tức rút tiền ra mua vé.
Lời nói của nhân viên bán vé thật vô cùng khéo léo đã khiến cho mấy thanh niên kia hiểu rõ lợi hại: chỉ vì mấy đồng xu mà làm mất mặt quả thực không cần thiết, vì vậy tốt hơn là bỏ tiền ra mua vé. Nhân viên bán vé sở dĩ đã thuyết phục thành công mấy thanh niên đó không chỉ vì lời nói của cô đánh trúng điểm quan trọng mà còn bởi vì thái độ chân thành của cô, thái độ xuất phát từ sự quan tâm và yêu quý đám thanh niên. Nếu như người bán vé dùng phương pháp thô bạo, giản đơn để giải quyết, thì e rằng sự việc sẽ hoàn toàn ngược lại.
Đối với những người lãnh đạo luôn tự cho rằng mình là đúng muốn khiến cho anh ta hiểu được sai lầm của mình thì cần phải nắm được chỗ sơ hở trong chủ trương và quan điểm của anh ta, gắng hết sức để vạch trần những sai sót đó, khiến anh ta nhận thấy được sai lầm của mình, từ đó, anh ta mới có thể sửa chữa những sai lầm đó.
Xin mời xem tiếp các ví dụ sau đây:
Nguỵ Chinh can gián mừng lễ Phong Đản.
Nguỵ Chinh nhiều lần dâng lời khuyên can với Đường Thái Tông, Lý Thế Dân, bàn luận việc nước nhà. Chỉ rõ việc được mất, ông đã góp nhiều cống hiến kiệt xuất để xuất hiện cục diện phồn vinh dưới thời Trinh Quán (niên hiệu vua Thái Tông; 627-649) trị vì, vì vậy, ông được người đời sau ca ngợi là “Tấm gương vàng nghìn thu”, “Một bậc hiền tướng”.
Năm Trinh Quán thứ 6, cục diện thái bình của nhà Đường dưới sự trị vì của vua Trinh Quán đã bước đầu có quy mô, có thể coi là con người khoẻ mạnh, mùa màng bội thu, một cảnh tượng tốt đẹp ca hát thái bình, quốc thái dân an. Lúc đó, Đường Thái Tông và các quan lại lớn nhỏ đều cho rằng thiên hạ đã thái bình, trăm họ cơm áo no đủ, có thể mặc sức rong chơi, hưởng lạc, để an ủi nỗi khổ vất vả bận rộn, để phô trương sự vĩ đại của sự nghiệp hoàng gia. Thế là các quan lại do Phong Luân và Trương Tôn Nguyên Kị đứng đầu, ra sức dâng sớ xin Đường Thái Tổng tổ chức “Lễ Phong Đản”, “để đất trời đều biết công tích lớn lao của thánh thượng, nước ngoại bang phải kính phục đại nghiệp huy hoàng của triều đình”, “Phong đản” chính là nhà vua đích thân dẫn đầu đám văn võ quần thần lên núi Thái Sơn phong thổ Vu Sơn, tế lễ trời đất, để thể hiện Thiên mệnh du quy, nhân đó khoe khoang công tích và uy vọng của nhà vua. Đây là một lễ lớn vô cùng long trọng mà các nhà vua triều đại phong kiến thường cử hành, phô trương quá mức, có đến hàng ngàn, hàng vạn quan lại và đại sứ nước ngoài đi theo nhà vua xuất phát từ Trường An đến Thái Sơn, nhân dân dọc ven các châu huyện phải phụ trách việc xây dựng đường sá, dâng nộp nhiều sơn hào hải vị và các vật phẩm xa xỉ, hao tốn bao sức người, sức của.
Đường Thái Tông cảm thấy mình công đức to lớn, việc tổ chức lễ Phong Đản không thể để lỡ thời gian, không thể làm trái ý trời. Thế là liền quyết định bắt đầu khởi hành từ Loan Đông.
Nguỵ Chinh sau khi biết được chuyện này lập tức đến yết kiến Đường Thái Tông, ông đi thẳng vào vấn đề khuyên Thái Tông tuyệt đối không nên cử hành lễ Phong Đản. Thái Tông cảm thấy vô cùng mất hứng, không còn bình tĩnh nữa liền hỏi Nguỵ Chinh: “Ngươi không muốn trẫm đi Phong Đản là do trẫm không có công lao lớn, đạo đức không đủ, thiên hạ chưa yên, nước ngoài chưa phục, mùa màng chưa no ấm, hay là chưa đủ vận may? Ngươi hãy nói rõ lý lẽ ra xem”
Nguỵ Chinh liền trả lời: “Công lao và sự nghiệp của bệ hạ tuy rất lớn, song ân trạch chưa đủ để ban khắp đất nước. Quốc gia tuy đã thái bình song vật tư vẫn chưa đủ cung cấp cho cả nước dùng, các nước ngoại bang tuy đã thần phục song vẫn chưa đủ thoả mãn yêu cầu của bọn họ. Điềm lành tuy đã nhiều lần xuất hiện song chế độ pháp luật nghiêm ngặt còn nhiều hiềm nghi. Mùa màng tuy rất bội thu song nhà kho vẫn chưa đầy ắp. Nếu bệ hạ khởi giá đến phía Đông, trăm xe ngàn ngựa, hao tổn rất lớn, đây không phải là điều mà thực lực quốc gia có thể chấp nhận nổi. Việc này dường như là một căn bệnh kéo dài mấy chục năm của cuộc đời, hiện này dù đã khỏi rồi, song cơ thể vẫn rất yếu ớt, nếu như không chú ý điều dưỡng, mà còn bắt anh ta phải tiếp nhận một việc không thể đảm đương nổi, vậy hậu quả sẽ thế nào? Nước nhà vua vừa mới điều trị được vết thương chiến tranh, nguyên khí còn chưa phục hồi, mà đã vội báo công lao với ông trời là không thoả đáng. Hơn nữa, vùng đất Sơn Đông dân cư thưa thớt, rất nhiều vùng đất hoang vắng, cằn cỗi, bạc màu, chẳng phải là đã để cho các bộ tộc Nhung, Địch đi theo nhìn rõ Đại Đường ta thực lực yếu mỏng sao? Nếu như gặp phải nạn mất mùa, người không hiểu lẽ lại gây chuyện thị phi, lúc đó thì hối cũng không kịp ? Do đó, bây giờ mà cử hành lễ Phong Đản là sùng bái hư danh mà thu về thực chất là tai hoạ, có hại chứ không có lợi, thời cơ vẫn chưa chín muồi.”
Những lời phân tích hợp tình, hợp lý của Nguỵ Chinh đã chỉ đúng vào yếu điểm của Phong Đản, nơi nơi hao tốn tiền của và vật tư, nếu gặp mất mùa, khó mà đảm bảo rằng không có người gây chuyện thị phi, cuối cùng đã khiến cho Thái Tông tỉnh táo đầu óc, dứt khoát huỷ bỏ lễ Phong Đản tốn tiền tốn của, từ đó có được sự ủng hộ của muôn dân.
Lời khuyên can của Nguỵ Chinh với Đường Thái Tông là rất có nghệ thuật, ông biết nắm rõ đặc điểm tâm lý của Đường Thái Tông. Vì Đường Thái Tông ngoài khuyết điểm vốn có của các vị đế vương phong kiến do sự hạn chế của xã hội và giai cấp, ông còn có rất nhiều đặc điểm cá tính không giống những hoàng đế khác. Ông có hoài bão lớn lao củng cố chính quyền Đại Đường, làm cho quốc thái dân an, có tinh thần biết quan sát tình hình dân chúng và biết tiếp thu những lời can gián, luôn ôm ấp nguyện vọng trở thành anh hùng bách thế, bậc thầy nghìn năm. Hơn nữa, ông đã rút ra bài học trong sự diệt vong của nhà Tuỳ, ông hiểu được đạo lý: “Nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể làm lật thuyền” chính vì Nguỵ Chinh đã nắm được tâm lý này của Đường Thái Tông, do vậy lời khuyên can của ông đã điểm trúng huyệt đạo của Đường Thái Tông, khiến cho Thái Tông tin phục và vui vẻ tiếp nhận.
Đường Thái Tông cũng rất thích Nguỵ Chinh, một cánh tay đắc lực, ông đã ban cho Nguỵ Chinh lời đánh giá rất cao như sau: “Trước đời Trinh Quán, từ khi ta bình định thiên hạ vật lộn vất vả, gian khổ, bao nhiêu công tích không chỗ nào không gắn với Ngụy Chinh. Sau đời Trinh Quán, hiến nạp lời hay lẽ phải, an quốc lợi dân, tạo dựng công lao và sự nghiệp ngày hôm nay của ta. Các bề tôi nổi tiếng xưa nay chưa ai bằng được.”
Sau khi Nguỵ Chinh chết đi, Thái Tông đích thân đến nhà ông, vĩnh biệt di thể của ông, “thường xuyên khóc lóc thảm thiết”.
Về sau Đường Thái Tông luôn nói một cách tiếc nuối: “Lấy đồng làm gương soi thì có thể sửa được mũ áo, lấy lịch sử làm gương soi thì có thể biết được sự hưng thịnh và suy tàn, lấy con người làm gương thì có thể biết được cái được và cái mất. Bây giờ Nguỵ Chinh đã đi rồi, ta đã mất đi một tấm gương tốt mất rồi?”
Trần Chẩn khéo khuyên Chiêu Dương
Trần Chẩn là một người nổi tiếng ngang dọc vẫy vùng thời Chiến Quốc. Người này có tài ăn nói, là một thầy cãi nổi tiếng trong thiên hạ. Đặc điểm nổi bật trong khi thuyết phục người khác của Trần Chẩn là dựa vào đặc điểm tâm lý đối phương, triển khai thế tấn công tâm lý nhằm vào yếu điểm của đối phương, khiến cho đối phương cam tâm tình nguyện tiếp thu quan điểm của mình. Sau đây xin đơn cử một vài ví dụ.
Năm 323 trước Công nguyên. tướng nước Sở là Chiêu Dương dẫn quân đến đánh nước Nguỵ, diệt quân giết tướng, cướp đoạt ngay được tám toà thành trì của nước Nguỵ. Về sau, Chiêu Dương còn chỉ huy quân đội tấn công nước Tề. Lúc đó, Trần Chẩn được Tề Uy Vương phái đi gặp Chiêu Dương. Sau khi vái hai vái để chào, Trần Chẩn chúc mừng thắng lợi của Chiêu Dương, sau đó đứng dậy nói: “Theo luật pháp nước Sở, người tiêu diệt quân địch, chém đầu tướng địch thì sẽ được thăng đến tước vị gì?”
Chiêu Dương trả lời: “Sẽ làm đến chức Trụ Quốc”
Trần Chẩn lại hỏi: “Thế còn có chức vị gì cao hơn tước quan này không?”
Chiêu Dương nói: “Vậy chỉ còn chức Lệnh Y”
Trần Chẩn nói: “Xem ra Lệnh Y là chức rất cao quý. Nhưng trong triều chỉ có thể có một Lệnh Y nắm giữ quyền lực, Sở Vương không thể cho lập hai Lệnh Y”
Trần Chẩn e rằng Chiêu Dương không hiểu ý mình, thế là liền kể cho ông ta câu chuyện “Vẽ rắn thêm chân”: Có một người nước Sở đi tế tự, ban cho người Xá một cốc rượu. Những người Xá bàn bạc với nhau nói, cốc rượu này không đủ cho mọi người cùng uống, một người uống thì không hết được. Tốt nhất chúng ta hãy thi vẽ rắn trên mặt đất, ai vẽ xong trước thì người đó được uống trước. Một người trong số đó đã vẽ xong trước, anh ta cầm cốc rượu định uống nhưng tay trái thì cầm cốc rượu, tay phải lại tiếp tục vẽ rắn, anh ta còn nói: “Tôi còn có thể vẽ thêm chân cho rắn”. Khi chân rắn còn chưa vẽ xong, một người khác đã vẽ xong con rắn: người đó liền cướp lấy cốc rượu và nói: Rắn vốn không có chân, tại sao anh lại vẽ chân cho rắn?”. Nói xong, liền uống rượu ngay còn người vẽ rắn xong trước tiên nhưng bởi vì vẽ thêm chân cho rắn mà mất đi quyền được uống cốc rượu đó.
Sau khi kể xong câu chuyện này, Trần Chẩn nói với Chiêu Dương: “Hiện nay ông phò tá Sở Vương tấn công nước Nguỵ, tiêu diệt quân Nguỵ, chém giết tướng Nguỵ, đoạt tám toà thành, quân đội của ông ý chí chiến đấu vẫn sục sôi. Hiện nay ông giống như người đã vẽ rắn xong trước kia, nếu dựa vào chiến công hiện nay thì ông có thể làm quan đến chức Trụ Quốc, nước Tề rất sợ ông. Ông có được uy danh này là cũng tốt rồi, nay có thêm chiến công mới, Sở vương cũng không thể lập hai Lệnh Y, đó chẳng phải là ông đã vẽ rắn thêm chân đó sao. Làm tướng quân bách chiến bách thắng mà không biết nên dừng lại lúc nào cho thích hợp, một khi bị chết bởi tay người khác rồi thì quan tước của anh ta cũng thuộc về kẻ khác. Vị tướng quân như vậy thì chẳng khác gì người vẽ rắn thêm chân.”
Mặc dù Trần Chẩn thực tế là thuyết khách cho nước Tề, thuyết phục Chiêu Dương lui binh. Nhưng nhìn từ góc độ của Chiêu Dương, những lời mà Trần Chẩn nói câu nào cũng là nghĩ cho mình, câu nào cũng hợp tình hợp lý. Trong lòng Chiêu Dương khó tránh khỏi có những tính toán riêng: “Đúng thật, công lao hiện nay của mình cũng đủ nhiều rồi, tại sao lại không nhìn thấy lợi mà thu, không dừng lại đúng lúc chứ?”. Những lời nói của Trần Chẩn quả thực đã điểm trúng huyệt đạo, nói đúng những suy nghĩ tận đáy lòng Chiêu Dương, đồng thời cũng nói ra tâm bệnh ẩn chứa trong cõi lòng của những tướng quân hay chinh chiến nơi sa trường: “Lập nhiều công lao chính là vẽ rắn thêm chân, mà kết cục thì lại chẳng có công lao gì cả”. Chính bởi vì lời nói của Trần Chẩn đã đánh trúng vào chỗ yếu điểm trong lòng Chiêu Dương. Sau cùng, Chiêu Dương đã nghe theo lời khuyên của Trần Chẩn, không tấn công nước Tề nữa, rút binh trở về.
Trần Chẩn còn sử dụng nghệ thuật thuyết khách cao siêu này để thuyết phục nước Tề và ba nước lớn Hàn, Triệu, Nguỵ liên minh với nhau, cùng nhau chống Tần.
Năm 298 trước Công nguyên, Trần Chẩn ở nước Nguỵ. Năm đó, nước Tần tấn công nước Nguỵ. Trần Chẩn đã liên kết ba nước Hàn, Triệu và Nguỵ cùng nhau chống Tần, song ông vẫn cảm thấy lực lượng của ba nước chưa đủ để chống lại nước Tần. Vì vậy, Trần Chẩn lại sang nước Tề ở phía Đông, thuyết phục nước Tề gia nhập với liên minh Hàn, Triệu, Nguỵ, cùng nhau đối phó với Tần. Trần Chẩn nói với Tề Vương, hiện nay sáu nước Hàn, Triệu, Nguỵ, Sở, Yên, Tề công phá lẫn nhau, không những không thể thành công ngược lại còn làm mạnh thêm cho nước Tần và làm suy yếu sáu nước của mình. Điều này thực không thể coi là thượng sách của sáu nước. Kẻ có thể tiêu diệt được sáu nước chỉ có thể là nước Tần hùng mạnh. Các nước chư hầu chúng ta, nếu không lo sợ bị nước Tần lớn mạnh uy hiếp mà cứ làm suy yếu lẫn nhau thì kết quả sẽ là cùng nhau chịu thất bại, thương vong và bị nước Tần lớn mạnh thôn tính. Các nước chư hầu chinh phạt lẫn nhau thay nước Tần, đúng với ý nguyện của nước Tần, việc này Tần Vương đến mong còn chẳng được. Tại sao nước Tần khôn ngoan như vậy mà lục quốc lại ngu xuẩn thế? Khi nước Tần chinh phạt thì những người có chí hướng, vua của các nước bị mất sẽ nhục nhã mà chết, người dân mất nước sẽ phải chết thảm thương. Hai nước Nguỵ, Hàn đã trải qua bài học như vậy rồi, trước mắt thì nước Tề vẫn chưa gặp cảnh ngộ như vậy. Đây không phải là vì nước Tần thân thiện với nước Tề, mà là do nước Tần cách xa nước Tề và gần với nước Hàn, Nguỵ. Xem ra nước Tề cũng sắp gặp hoạn nạn rồi. Nước Tần đang muốn tấn công vào vùng Thao Huyện và An ấp của nước Nguỵ. Nếu nước Tần hạ chiếm được hai vùng này, thì sẽ tiến lên phía đông dọc theo sông Hoàng Hà, cứ dọc theo Hoàng Hà mà sang phía đông đánh Tề, đến khi chiếm được lãnh thổ nước Tề mới thôi, làm cô lập hai nước Sở, Nguỵ ở phía nam, cô lập hai nước Yên, Triệu ở phía bắc. Đến lúc đó, nước Tề sẽ chẳng thể xoay sở nổi. Hiện nay, Hàn, Triệu, Nguỵ đã liên kết lại, kết thành lân bang huynh đệ, liên hợp xuất binh cùng bảo vệ Thao Huyện và An Ấp, đây chính là kế sách vẹn toàn. Nếu nước Tề không gia nhập vào liên minh Hàn, Triệu, Nguỵ thì hậu hoạ khôn lường. Nếu Hàn, Triệu, Nguỵ liên kết lại, nước Tần sẽ không dám tấn công nước Yên. Có thể chúng sẽ tấn công nước Sở ở phía nam. Khi hai nước Tần, Sở giao tranh, ba nước Hàn, Triệu, Nguỵ sẽ luôn canh cánh trong lòng chuyện nước Tề không liên kết để bảo vệ bình an các nước chư hầu, vậy lúc đó, ba nước liên kết đánh Tề là điều chắc chắn. Vì vậy, tốt nhất nước Tề hãy nhanh chóng phái quân đội để tham dự vào liên minh ba nước.
Trần Chẩn đã trình bày thẳng thắn, hợp tình hợp lý với Tề Vương những điều lợi hại được mất nếu không tham gia vào liên minh ba nước khiến cho Tề Vương không thể không suy nghĩ một cách nghiêm túc ý kiến của ông. Cuối cùng, Tề Vương đã đồng ý phái binh để liên hợp với ba nước kia cùng nhau chống Tần.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.