BI KỊCH VỀ 3 CÁI CHẾT
Phần thứ ba: Phá án – Chương mười ba : Phu nhân De Rushbridger
Trước giờ đáp tàu, Hercule Poirot và ông Satterthwaite có một cuộc trao đổi ngắn với nàng Lyndon, thư ký riêng của ngài quá cố Bartholomew Strange. Nàng thật tình muốn giúp một tay, nhưng nghĩ lại chẳng có tin tức nào quan hệ hơn. Tên phu nhân Rushbridger ghi trong sổ tay ngài Bartholomew là một bệnh nhân và ngài chỉ nhắc đến tên bà mỗi khi cần xem lại cách điều trị.
Hai vị khách đến khu dưỡng đường khoảng mười hai giờ trưa. Người giúp việc bước ra mở cửa vui mừng mặt đỏ ửng. Ông Satterthwaite hỏi thăm ngay bà y tá trưởng.
– Em không chắc là bà có thể tiếp khách sáng nay, người giúp việc báo trước.
Ông Satterthwaite lấy tấm danh thiếp ra ghi vài hàng.
– Nhờ cô trình lại bà tấm giấy này.
Tiếp theo hai vị được mời vô một căn phòng khách nhỏ. Năm phút sau cửa mở, bà y tá trưởng bước vô. Hôm nay trông bà không còn cái vẻ lanh lợi như trước.
Ông Satterthwaite đứng ngay dậy :
– Tôi nghĩ là bà còn nhớ ra tôi! – Ông mở lời – Tôi và ngài Charles Cartwright đến đây ngay sau khi hay tin ngài Bartholomew Strange bị giết chết.
– Dạ, phải, thưa ông Satterthwaite, tôi vẫn còn nhớ, gặp lúc ngài Charles hỏi thăm phu nhân De Rushbridger bệnh hoạn, đây thật là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.
– Xin phép bà, tôi hân hạnh được giới thiệu, ông Hercule Poirot.
Poirot cúi rạp người, bà đáp lại qua loa. Bà cất tiếng :
– Tôi chưa hiểu làm thế nào ông nhận được bức điện như ông vừa nói. Việc này có vẻ bí mật. Có chắc gì dính dáng đến cái chết ngài bác sĩ? Phải đấy là một kẻ điên – tôi chỉ có thể suy ra như vậy. Ta gọi báo cho cảnh sát thế là xong. Khiếp thật!
– Gọi cảnh sát? – Ông Satterthwaite hỏi lại, vẻ kinh ngạc.
– Dạ, lúc mười giờ họ có đến đây.
– Cảnh sát đến? – Hercule Poirot hỏi lại.
– Có lẽ ta nên đi gặp bà De Rushbridger ngay – Ông Satterthwaite đề nghị – Bởi bà cũng có nhắn ta đến đây.
Bà y tá trưởng chận ngang câu chuyện :
– Ồ, ông Satterthwaite, vậy là ông chưa hiểu gì hết!
– Hiểu thế nào? – Poirot hỏi vặn giọng gay gắt.
– Tội nghiệp bà De Rushbridger. Bà ấy chết rồi.
– Chết rồi? – Poirot thét to – Bỏ mẹ. Thế là xong, phải, thế là xong. Ta phải biết ngay. – Poirot im lặng – Làm thế nào bà ấy chết được nhỉ?
– Đó là một bí ẩn. Người ta gởi đến cho bà một hộp sô-cô-la – một loại sô-cô-la tẩm rượu – qua bưu điện. Bà mới nếm một chút – mùi vị thật ghê tởm, nhưng tôi thì cho là vì thấy lạ bà mới thử nuốt vô trong người. Khi đó bà lại không thể phun ra khỏi miệng.
– Phải, phải đấy, và nếu lỡ nuốt vô trong người, thật khó mà…
– Vậy là bà đã nuốt vô trong người, bà kêu cứu, y tá chạy tới, chẳng giúp được gì. Hai phút sau bà mới chết. Bác sĩ cho gọi cảnh sát, họ đến kiểm tra cái món sô-cô-la. Kiểm tra trên lớp mặt có dấu trầy trụa, phía dưới còn nguyên.
– Vậy là có tẩm thuốc độc?
– Có đây – Poirot nói – Lại cái chất nicotine. Quả đúng là một cú độc địa! Một cú thật là táo bạo.
– Chúng ta chậm mất rồi, ông Satterthwaite nói – Không còn cơ hội để nghe bà ấy nhắn nhủ, trừ khi – chỉ trừ khi – bà trăn trối lại với một người thân? – Nói xong ông đứng nhìn về phía bà y tá trưởng.
Poirot lắc đầu :
– Không còn ai tin tưởng để bà trăn trối, ông cứ đợi đấy.
– Ta phải hỏi – Ông Satterthwaite nói – Trong số y tá cũng có một người, ta đoán chừng.
– Ta tìm mọi cách để hỏi cho ra ngay – Ông Poirot ra lệnh – xem chừng mong manh lắm.
Ông Satterthwaite quay lại nhìn bà y tá trưởng vừa cho gọi hai người y tá lo chăm sóc ngày đêm theo dõi bà De Rushbridger đến hỏi thăm cũng chẳng moi được một tin tức nào. Bà De Rushbridger không hề nhắc cái chết của ngài Bartholomew, không ai đoán được bức điện từ đâu gởi đến.
Theo yêu cầu của Poirot hai vị khách đến ngay phòng riêng của nạn nhân. Họ gặp ông thanh tra mật thám Crossfield đã có mặt tại chỗ, ông Satterthwaite giới thiệu ngay với Poirot.
Hai vị khách bước đến giường nhìn nạn nhân còn nằm đó. Bà độ tuổi bốn mươi, tóc đen nước da tái nhợt, vẻ mặt còn vương lại dấu hiệu vùng vẫy – nỗi sợ hãi trước cái chết.
Ông Satterthwaite chậm rãi nói :
– Đáng thương cho một linh hồn…
Rồi ông nhìn qua phía Hercule Poirot, vẻ mặt nhà thám tử nhỏ thó hiện ra một đường nét lạ thường. Nhìn vẻ mặt Poirot, ông Satterthwaite thấy ớn lạnh…
Ông Satterthwaite cất tiếng :
– Bà định nói điều gì đó thì bị chận ngang lại, ai đó đã giết chết bà… bị giết chết ngay lúc muốn nói…
Poirot gật :
– Đúng, rõ ràng là vậy đó.
– Bà đã bị giết chết trước lúc muốn nói với chúng ta một điều gì đó.
– Có thể bà cũng chẳng biết nói gì… Thôi ta đừng để mất thời gian… Ta còn nhiều việc phải làm. Sẽ không còn ai bị giết chết nữa. Nên nhớ lấy.
Chợt ông Satterthwaite hỏi vẻ ưu tư.
– Liệu rồi có trùng hợp với ý kiến của ông về tên hung thủ.
– Có, có chứ… Nhưng tôi nhận ra được một điều: kẻ giết người lần này thật cực kỳ táo tợn ngoài sức tưởng tượng… Ta phải cẩn thận đề phòng.
Thanh tra Crossfield theo hai vị khách bước ra ngoài, ông mới nghe họ bàn về bức điện tín. Được đánh đi từ nhà bưu điện ở Melfort, sau khi dò la tin tức, được biết một cậu bé đã gửi đi bức điện này. Người phụ nữ làm việc tại đó còn nhớ, bởi nội dung bức .điện khiến bà ngạc nhiên vô cùng, nhắc lại vụ việc cái chết của ngài Bartholomew Strange.
Sau mấy bữa dùng cơm trưa chung với ông thanh tra mật thám, và đã đánh điện báo cho ngài Charles, cuộc điều tra lại bắt đầu.
Sáu giờ sáng hôm sau thì nhận dạng được thằng bé gửi đi bức điện. Hắn kể đầu đuôi câu chuyện. Một người đàn ông ăn mặc tồi tàn đến giao bức điện tận tay. Người này nói bức điện do một “bà điên điên” giao lại cho ông tại địa điểm “nhà ở công viên”. Bà đứng từ trên cửa sổ ném xuống quấn quanh bức điện hai đồng tiền nửa hào. Ban đầu ông ta ngỡ mình gặp phải một chuyện kỳ cục, ông vội lê bước qua chỗ khác, gặp thằng bé ông mới đưa cho nó cả hai đồng tiền thêm sáu xu lẻ cho hết luôn.
Cuộc điều tra được mở ra, đi tìm tung tích người đàn ông. Trước mắt chưa tìm ra một manh mối nào khác hơn, Poirot và ông Satterthwaite quay về lại London.
Gần nửa đêm hai vị khách mới về đến nơi. Nàng Egg đã trở về nhà mẹ, nhưng họ lại gặp ngay ngài Charles, vậy là cả ba người bắt tay vô việc.
– Này ông bạn, – Poirot mở đầu – cứ đi theo tôi. Chỉ còn mỗi cách tìm ra manh mối vụ án – ta vận dụng chất xám. Ta cứ đi vòng quanh nước Ăng-lê này chờ tìm cho ra được người đàn ông lạ mặt thu thập đủ tin tức – làm ăn theo kiểu tài tử, vô nguyên tắc như vậy không nên. Đầu mối của mọi việc nó nằm ngay ở trong tay ta.
Ngài Charles tỏ vẻ hoài nghi :
– Vậy chúng ta cần làm ngay những gì?
– Tôi muốn mọi người tập trung tư tưởng. Tôi yêu cầu quý vị không để bỏ qua một phút lơ là nào hết.
Ngài Charles lắc đầu, khẽ nhếch miệng cười :
– Liệu tập trung tư tưởng như vậy có thể giúp cho ông tìm ra câu nói ngay lúc người đàn bà nạn nhân còn sống?
– Tôi cho là như vậy.
– Chuyện nghe khó tin. Này, ông Poirot, ông có cách làm việc của ông. Ông hơn tôi ở chỗ có thể hiểu ra một phần bí ẩn vụ án. Tôi đang lúng túng, điều đó nói thật với ông. Dù sao, tôi còn nhiều việc trước mắt phải làm.
Có vẻ như ông đang chờ được hạch hỏi, nếu vậy thì ngoài ý muốn của ngài. Ông Satterthwaite ngước nhìn mọi người một cách bình thản, trong lúc Poirot ngồi một chỗ trầm ngâm.
– Thôi, tôi còn phải đi đây – Ngài nghệ sĩ nói – Ô, còn việc nữa. Tôi đang thắc mắc một chuyện – nàng Wills.
– Nàng đã bỏ đi.
Poirot nhìn chăm chăm về phía ngài Charles.
– Bỏ đi? Bỏ đi đâu kìa?
– Không ai biết… Tôi còn lo nghĩ mãi từ lúc nhận được bức điện của ông. Lúc đó tôi đã bảo là tôi có linh tính là người con gái này còn giữ kín một điều không chịu khai với ta. Giờ ta còn một cơ hội moi ra sự thật. Tôi lấy xe đi đến nhà nàng – lúc đó mới chín giờ rưỡi – đến nơi thì hỏi thăm nàng ngay. Nào ngờ nàng đã bỏ đi từ sáng sớm – nàng đi London nội trong ngày – nàng nhắn lại vậy. Buổi chiều người nhà nhận được điện báo một hai bữa nữa nàng mới về.
– Người nhà có vẻ lo lắng cho nàng?
– Tôi cũng đoán mò như ông, vậy thôi. Ông hay chuyện này chưa, nàng đi không mang theo hành lý.
“Kỳ lạ thật” Poirot khẽ nói một mình.
– Tôi biết mà. Dường như là – tôi chẳng hiểu. Tôi cảm thấy chưa yên tâm.
– Tôi đã nói trước với nàng – Poirot nói – Tôi báo cho mọi người nên đề phòng. Ngài còn nhớ chứ, tôi nói với mọi người. Cứ nói ra hết.
– Đúng, đúng rồi. Vậy ông cũng cho là nàng…?
– Tôi có ý thế này, Poirot nói – Ngay lúc này ta không nên bàn chuyện đó nữa.
Giờ trước tiên là người quản gia, tên Ellis, và kế đến là nàng Wills. Ellis hiện đang ở đâu? Thật khó tin giờ này cảnh sát chưa tóm được hắn.
– Cảnh sát chưa tìm ra xác chết hắn ở đâu thôi. – Poirot nói.
– Vậy ông cũng nghĩ như nàng Egg. Nghĩa là hắn đã chết?
– Ellis không còn sống sót trên đời này nữa.
– Lạy Chúa – Ngài Charles chợt la lớn – Như một cơn ác mộng, ta hoàn toàn không hiểu gì cả.
– Không, không đâu. Phải nói là có lý có tình.
Ngài Charles chăm chăm nhìn ông ta :
– Ông nói vậy sao?
– Đúng rồi. Ngài biết đấy, tôi suy nghĩ có thứ tự lớp lang.
– Tôi không hiểu ông muốn nói gì.
Cả ông Satterthwaite cũng trố mắt nhìn nhà trinh thám nhỏ thó.
– Vậy ông cho là tôi suy nghĩ như thế nào? – Ngài Charles hỏi lại, một phần do bị đụng chạm.
– Ngài có cái suy nghĩ của một nghệ sĩ sáng tạo, độc đáo, nhìn thấy việc đời như một tấn tuồng. Ông Satterthwaite thích xem hát, ông xem người ta diễn tuồng, thích đám đông. Còn tôi một người phàm tục tôi nhìn đời không cần phải tô điểm màu mè, chói lọi.
– Vậy thôi chúng tôi để ông lo mọi việc?
– Tôi có ý như vậy thôi. Chỉ trong hai mươi bốn giờ.
– Chúc ông may mắn. Ngủ ngon nhé.
Hai vị khách ra về chợt ngài Charles nói cho ông Satterthwaite nghe :
– Tay này vậy mà cũng ba hoa chích chòe. – Giọng ông nghe như hờ hững.
Ông Satterthwaite mỉm cười. Vai chính nói. Ngài là vậy đó. Chợt ông hỏi :
– Ta còn nhiều việc phải làm nữa, ngài nói vậy nghĩa là thế nào, thưa ngài Charles?
Nhìn vẻ mặt còn ngái ngủ, ông Satterthwaite biết ngay ngài vừa làm đám cưới từ Hanover Square về đây.
– Ồ, sự thật là, ta – ờ – phải đấy, nàng Egg và ta…
– Tôi rất vui mừng được hay tin – Ông Satterthwaite nói – Xin chúc mừng ngài mọi điều tốt lành.
– Ông biết đấy ta hơn nàng nhiều tuổi.
– Nàng không nghĩ vậy đâu, nàng phán đoán rất tài tình.
– Ông thiệt là tử tế, Satterthwaite. Ông biết không, ta vẫn nghĩ nàng còn yêu anh chàng Manders.
– Tôi lấy làm lạ, sao ngài lại nghĩ vậy? – Ông Satterthwaite nói vô tư.
– Dù sao, giọng ngài quả quyết, “nàng không phải là…”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.