HÃNG THÁM TỬ TƯ
Chương 4 : Cuộc phiêu lưu của con quái vật nước ngoài (The adventure of the sinister stranger)
– Một ngày chán ngắt. – Tommy càu nhàu vừa ngáp trẹo quai hàm.
– Gần đến giờ dùng trà rồi. – Tuppence nói xen, đến lượt bà cũng ngáp.
Công việc ít thuận lợi đối với Hãng thám tử quốc tế. Bức thư của người lái buôn giăm bông ngóng đã lâu mà không tới và các cuộc điều tra nghiêm túc không tiến triển nhanh.
Albert, nhân viên chân chạy, bước vào đặt lên bàn một gói niêm phong.
– Bí mật của gói hàng niêm phong – Tommy lên tiếng, giọng cường điệu – Bên trong có những viên ngọc truyền thuyết của một nữ đại công tước Nga hay không? Hay là một khối thuốc nổ để lật nhào những “thám tử lừng danh của Blunt”?
– Sự thực, – Tuppence nhận xét khi xé bao bì – đó là món quà cưới em tặng cho Francis Haviland. Rất lịch sự, anh thấy không?
Tom cầm lấy chiếc hộp mỏng bằng bạc đựng thuốc lá bà đưa cho chồng, nhận thấy dòng chữ tự tay bà khắc “Tặng Francis. Tuppence”, mở nắp ra, đậy nắp lại và hất hàm tỏ ý đánh giá :
– Em quẳng tiền qua cửa sổ, em thân yêu. Tháng tới sinh nhật anh, anh thích tặng phẩm như thế này, nhưng bằng vàng. Em nghĩ thế nào mà nỡ làm hỏng một thứ kỳ quan như thế này đối với cái anh chàng Francis Haviland đã và sẽ là một người ngu đần vào loại nhất mà tạo hóa đã vĩnh viễn sinh ra.
– Anh quên là em đã làm tài xế cho lão ta suốt thời chiến, lúc ấy lão là đại tướng. Chà, đó là thời các cụ ngày xưa!
– Đúng thế – Tommy nhượng bộ! – Anh hồi tưởng lại bao nhiêu người đẹp đã từng vây lấy anh trong bệnh viện. Nhưng không vì thế mà anh tặng cho mỗi người một món quà cưới. Anh không tin rằng cô dâu sẽ đánh giá cao lắm món quà biếu của em, Tuppence.
– Nó xinh xắn và mang theo người tiện lợi, anh thấy không? – Tuppence nói, tảng lờ nhận xét của chồng.
Tommy nhét hộp thuốc lá vào túi mình.
– Tuyệt – Chàng khẳng định – Kìa Albert mang đến chuyến thư cuối cùng trong ngày. Rất có thể, nữ công tước De Perthshire nhờ ta tìm con chó quý Bắc Kinh của bà ta.
Họ cùng nhau chọn thư. Bỗng Tommy buột một tiếng rít kéo dài và vung lên một bì thư.
– Chiếc phong bì xanh với một con tem Nga. Em có nhớ những gì sếp đã nói về việc này không?
– Một sự kiện giật gân đây! – Tuppence kêu – Anh bóc nhanh lên xem có phải nội dung phù hợp với dự kiến không nào. Em cho là nó có liên quan đến một người lái buôn giăm bông? Chờ em một chút, Tommy, chúng mình không có sữa pha trà: Người bán sữa quên dành cho ta. Em sẽ cho Albert đi mua.
Lát sau trở lại, bà ta đã sai Albert chạy đi và thấy Tommy cầm bức thư trong tay.
– Đúng như chúng mình đoán, Tuppence, đúng từng lời với những gì sếp đã báo trước với chúng ta.
Đến lượt Tuppence đọc.
Câu kết kéo dài theo thể văn giả tạo và hình như được gửi đến từ một người tên là Gregor Feodorsky nào đó, ông ta nóng lòng chờ nhận được tin của bà vợ. Hãng thám tử quốc tế yêu cầu đừng để ý đến phí tổn trong nỗ lực tìm kiếm bà ta. Cá nhân ông Feodorsky không thể rời khỏi nước ông lúc này, do một cuộc khủng hoảng trong việc bán heo.
– Em còn do dự không biết những điều đó thực sự có ý nghĩa hay không? – Tuppence nhận xét với vẻ ngẫm nghĩ trong khi trải lá thư ra trước mặt mình.
– Một mật mã nào đó, anh đoán vậy. Nhưng đó không phải là việc của ta. Chúng ta chỉ cần hạn chế ở chỗ chuyển nó cho sếp càng nhanh càng tốt. Trước hết, cần bóc tem để xác minh xem có đúng số 16 viết ở dưới hay không.
– Đồng ý. Nhưng em tưởng tượng…
Bà ngưng bặt và Tommy ngạc nhiên về sự đột nhiên ngừng lại ấy, ngẩng đầu để phát hiện cái bóng to bè của một người đàn ông không quen làm nghẽn lối vào gian phòng.
Vị khách không mời có dáng vẻ oai vệ, đôi vai đồ sộ và một khuôn mặt tròn xoe kết thúc bằng một quai hàm khỏe. Ông ta quãng bốn mươi lăm tuổi.
– Xin ngài thứ lỗi cho tôi – Vừa tiến lên, mũ cầm tay, ông ta bắt đầu nói – Thấy bàn đón tiếp bỏ trống và chiếc cửa này mở, tôi đã tự tiện vào làm phiền ngài. Có đúng là tôi đến Hãng thám tử quốc tế của ông Blunt không ạ?
– Đúng rồi.
– Và hẳn ngài là ông Blunt. Ông Theosdore Blunt phải không ạ?
– Đúng vậy. Ông muốn hỏi ý kiến tôi? Đây là cô thư ký của tôi, cô Robinson.
Tuppence duyên dáng nghiêng đầu nhưng bà tiếp tục quan sát người lạ qua hàng mi hạ xuống. Bà không biết ông ta đã đứng ngoài cửa bao lâu và có thể đã nhìn thấy và nghe thấy những gì. Cũng không lọt khỏi mắt bà khi ông ta nói chuyện với Tommy mà mắt vẫn nhìn chiếc phong bì xanh bà cầm trong tay.
Tiếng Tommy đưa phắt bà về với hiện tại.
– Cô Robinson, xin cô ghi cho. Giờ đây, thưa ông, xin ông vui lòng trình bày với tôi lý do ông tới đây.
Tuppence vơ lấy cuốn sổ và chiếc bút chì và người đàn ông to lớn bắt đầu với một giọng cộc lốc :
– Tên tôi là Bower. Bác sĩ Charles Bower. Tôi sống ở Hampstead nơi tôi mở phòng khám bệnh. Tôi đến ngài, thưa ông Blunt vì nhiều sự kiện khá kỳ lạ xảy ra mới đây.
– Tôi nghe ông đây, thưa ông Bower.
– Hai lần suốt cả tuần qua tôi được gọi điện mời đi khẩn cấp… nhưng đến nơi lại không phải. Lần đầu tiên tôi nghĩ rằng người ta muốn trêu tôi, nhưng lần thứ hai, lúc trở về, tôi nhận thấy một số giấy tờ cá nhân của tôi đã bị lục và để lại lộn xộn. Nghĩ kỹ lại thì vẫn thấy giống như lần đầu. Tôi soát lại tất cả các ngăn kéo thật tỉ mỉ và khẳng định rằng cả phòng làm việc của tôi đã bị lục soát hoàn toàn và vội vã.
Ông Bower ngừng lời và chòng chọc nhìn người đối diện bằng con mắt dò xét.
– Và sao nữa, thưa ông Bower? – Thám tử mỉm cười nói.
– Ông nghĩ xem như thế là cái gì?
– Thực ra trước hết tôi muốn biết các sự kiện đã. Ông cất giữ những gì trong phòng làm việc của ông?
– Các giấy tờ cá nhân.
– Vâng, còn gì nữa, gồm những gì? Chúng có ý nghĩa gì dưới con mắt đơn giản của tên ăn trộm… hoặc của mọi người khác?
– Tôi không cho rằng, đối với một kẻ gian thông thường, chúng có thể có chút giá trị gì, nhưng những ghi chép của tôi về mấy chất alcoloide chưa ai biết tới, có thể có liên quan đến người nào cần bổ sung những kiến thức kỹ thuật phù hợp. Tôi nghiên cứu những alcaloides này từ nhiều năm nay. Đó là những thuốc độc chết người và hầu như không thể phát hiện, nó gây nên những phản ứng không ai biết.
– Vậy bí mật của chúng có giá trị thương mại hay không?
– Đối với những người không chút e ngại gì thì có.
– Và ông ngờ cho… ai?
Viên thầy thuốc nhún đôi vai vạm vỡ.
– Nhìn bề ngoài, không có cửa nào bị phá. Vậy vấn đề là có người nào đó sống chung trong nhà. Tuy nhiên tôi không thể tin…
Ông ta bỗng ngừng lại để nói tiếp với một giọng nghiêm trọng :
– Thưa ông Blunt, tôi phải hoàn toàn phó thác việc này cho ông. Tôi không dám báo cảnh sát. Trong số ba gia nhân của tôi, hầu như tôi hoàn toàn tin tưởng. Chúng phục vụ tôi từ lâu với lòng trung thành. Tuy vậy, người ta có bao giờ ngờ được. Và tôi có hai người cháu, Bertram và Henry. Henry là một chàng trai tốt… một chàng trai rất tốt. Nó không gây cho tôi chút lo lắng nào bao giờ. Bertram, ôi chao, tính cách hoàn toàn ngược lại: chống đối, tiêu hoang và tính lười biếng thì hết chỗ nói.
– Nếu tôi hiểu đúng thì ông nghi cho cậu cháu Bertram của ông đã dính líu vào vụ này? Về phía tôi, tôi không nghĩ vậy. Rất có thể là Henry, chàng trai quá tốt mà tôi nghi vấn.
– Nhưng vì sao ạ?
– Vẫn theo cái thói thông thường là như vậy. Theo kinh nghiệm của tôi, thưa ông thân mến, những kẻ mập mờ bao giờ cũng vô tội và ngược lại. Thực ra, tôi ngày càng nghiêng về buộc cho anh chàng Henry tốt bụng.
– Xin ngài thứ lỗi, – Tuppence can thiệp bằng một tiếng nói khác – nếu tôi không lầm – ngài bác sĩ Bower có thói quen giữ những ghi chép về… ờ… về những alcoloides chưa ai biết tới, trong phòng làm việc của mình cùng với những giấy tờ khác?
– Trong cùng phòng làm việc, thưa cô, nhưng giấu trong một ngăn kéo mật chỉ có mình tôi mới biết chúng ở đấy. Đó là lý dó đến bây giờ vẫn không tìm thấy chúng.
– Vậy chúng tôi có thể giúp ích gì cho ông trong vụ này, thưa ông Bower? – Tommy hỏi – Ông có đoán là sẽ xảy ra một cuộc lục soát thứ ba nữa không?
– Thưa ông Blunt, tôi hoàn toàn có lý do để tin như vậy. Buổi chiều cùng ngày, tôi nhận được một bức điện của một khách hàng của tôi mà tôi đã gửi đi Bournemouth cách đây vài tuần. Theo bức điện, người ấy đang trong tình trạng nguy kịch và mời tôi khẩn cấp tới thăm. Bị nghi ngờ bởi những sự kiện đã nói với ông, tôi đã đánh điện đi Bournemouth trả sẵn tiền điện trả lời. Tôi được biết rằng bệnh nhân của tôi hoàn toàn khỏe mạnh, không hề muốn tôi đến gặp. Lúc đo tôi có ý nghĩ: Nếu tôi làm như rơi vào bẫy và giả vờ như đi Bournemouth thì chắc chắn bắt được quả tang hắn hoặc bọn kẻ trộm tại cuộc. Họ sẽ chờ, đinh ninh rằng, mọi người đã ngủ để khởi sự. Tôi gợi ý rằng ông có mặt ở trước nhà tôi lúc 22 giờ đêm nay để chúng ta cùng hành sự.
– Nghĩa là bắt kẻ cắp lúc tay đang thò vào túi – Tommy kết luận lúc cầm chiếc rọc giấy gõ xuống bàn – Kế hoạch của ông tôi thấy là tốt. Không có sự hớ hênh nào. Nào, địa chỉ của ông là…
– Nhà Mélézes, Hangman’s Lane… một chỗ khá vắng, tôi ngại là như vậy. Nhưng chúng tôi lưu ý liên lạc Hampstead Heath với ông.
– Tuyệt vời.
Ông khách đứng dậy.
– Tôi chờ ông trước Mélézes… coi như 22 giờ 55.
– 22 giờ 55, đồng ý. Chào ông, BS Bower.
Tommy đứng dậy, bấm chuông trên bàn và Albert xuất hiện để tiễn khách. Người thầy thuốc bước đi rõ ràng là cà nhắc mà không hề ảnh hưởng gì đến dáng đi nặng nề của ông ta.
– Một đối thủ khó tính, Tommy lẩm bẩm. Này, Tuppence, cô bạn thân yêu của anh, em nghĩ gì về chuyện này?
– Em sắp sửa nói với anh hai tiếng: Clubfoot!
– Sao kia?
– Em nói Clubfoot. Việc nghiên cứu các tác giả cổ điển của em không phải là vô ích, Tommy, vụ này là một cú được dựng lên. Alcaloide không ai biết… và rồi sao nữa? Em chưa nghe thấy câu chuyện tương tự thế nào bao giờ!
– Thú thực rằng anh không thấy ông bác sĩ có sức thuyết phục.
– Anh có để ý mắt ông ta nhìn chòng chọc bức thư? Em tin chắc là ông ta thuộc về một băng cướp. Hẳn là chúng phát hiện rằng anh không phải là Blunt và giờ đây chúng chỉ rình để lột da chúng ta.
– Trong trường hợp này, – Tommy tuyên bố trong khi mở tủ và ngắm nghía những hàng sách của mình bằng con mắt trìu mến – chúng ta dễ dàng lựa chọn vài diễn của chúng mình. Chúng ta là anh em nhà Okewood. Và anh sẽ là Desmond, ông nói thêm với giọng khẳng định.
Tuppence nhún vai.
– Tùy ý em. Anh rất thích như Francis vì anh ta thông minh hơn hẳn trong hai người. Desmond luôn gặp rắc rối lúng túng và Francis nổi lên vào lúc quyết định, giả trang người làm vườn hoặc một người nào đó để cứu vãn tình thế.
– A! Nhưng anh sẽ là một siêu – Desmond. Khi anh đi tới trước nhà Mélézes…
Tuppence ngắt lời ông không câu nệ.
– Dù sao anh cũng không đến Hampstead đêm nay chứ?
– Sao lại không.
– Để rơi vào một cái bẫy mà chúng ta đã khám phá!
– Để rơi vào một cái bẫy không còn là bẫy vì chúng ta biết nó là cái bẫy. Điều tế nhị! Anh có cảm tưởng rằng ông bác sĩ tốt bụng ấy sắp có một ngạc nhiên nho nhỏ.
– Em không thích những cái ấy. Anh có nhớ sự cố gì khi Desmond không tuân theo lệnh của sếp và hành động một mình? Quân lệnh của chúng ta rõ ràng: chúng ta cần chuyển thư từ và phân tích mọi sự kiện khả nghi.
– Em phạm sai lầm nhẹ đấy. Chúng ta cần tường thuật cuộc đến thăm của người nào nếu con số 16 trước mặt chúng ta. Mà anh biết không phải trường hợp này.
– Biện bạch sai rồi!
– Thôi miễn bàn. Anh có ý định hành động một mình. Cô bạn thân yêu Tuppence của anh ơi, không có gì đáng tiếc sẽ đến với anh đâu. Anh sẽ tới hiện trường, trang bị từ đầu tới chân. Điều quan trọng là anh dựa vào thế thủ của anh và chúng không hề hay biết. Sếp sẽ khen việc làm và sáng kiến của anh.
– Tuy nhiên em không thích như thế. Người đàn ông ấy khỏe như một con đười ươi.
– Để yên tâm, em thân mến, anh cứ nghĩ đến khẩu tự động của anh và cái miệng xinh xắn màu xanh của nó.
Albert vọt vào gian phòng và khép cửa lại, tiến lên, một chiếc phong bì trong tay.
– Một quý ông muốn gặp ông. Khi tôi trộ ông ta như mọi khi bằng cách khẳng định rằng ông đang bận làm việc với Sở Cảnh sát, ông ta nói với tôi rằng ông ta biết rồi. Ông ta khẳng định là mới từ chỗ Sở Cảnh Sát tới. Và ông ta viết cái gì lên tấm cạc nhét vào chiếc phong bì này.
Tommy liếc nhìn tấm danh thiếp và một nụ cười làm rạng rỡ khuôn mặt ông.
– Con người hào hoa phong nhã đùa cậu bằng cách nói lên sự thật đấy Albert ạ – Cho ông ta vào.
Ông đưa tấm thiếp cho Tuppence. Ngay ở chỗ tên Thanh tra Dymchurch, có nguệch ngoạc bút chì “một người bạn của Marriot”.
Lát sau người của Sở vào phòng giấy. Nhỏ nhắn, lùn, mắt soi mói, ông ta giống thanh tra Marriot.
– Xin chào! Marriot phải đi xứ Galles phía Nam, nhưng trước khi đi, ông ta dặn tôi để ý tới hai bạn và về vụ ấy, nói chung.
– Ồ! Chớ có ngại, thưa ông – Ông ta nói thêm ngay lúc Tommy hình như sắp hỏi – chúng tôi hoàn toàn biết rõ tình hình. Không thuộc phạm vị của chúng tôi và chúng tôi không muốn chơi trò tiếm vị, nhưng có kẻ mới nhận ra tất cả ở đây đều không khớp với hiện tượng bề ngoài. Chiều nay ông có cuộc viếng thăm của một quý ông. Tôi không biết ông ta tự giới thiệu tên là gì và tôi không rõ căn cước thực của ông ta, nhưng tôi nắm được một số chi tiết về ông này. Dù sao cũng có thể tìm hiểu thêm về ông ấy. Có lẽ tôi đã phỏng đoán đúng rằng ông ta đã ấn định một cái hẹn đêm nay ở một địa điểm nào đó phải không?
– Đúng vậy.
– Đúng như tôi nghĩ. Tại 16 Đại lộ Westerham, công viên Finsbury?
– Không phải. Chỗ đó, ông nhầm đấy – Tommy mỉm cười cải chính – Đó là nhà Mélézes ở Hampstead.
Dymchurch hình như hoàn toàn bị lạc hướng :
– Tôi không hiểu – Ông ta lẩm bẩm – Hẳn là thuộc về một băng khác. Ông nói là Mélézes ở Hampstead ư?
– Phải. Tôi cần tới đó lúc 23h.
– Xin đừng tới đó, thưa ông.
– Đấy! – Tuppence kêu lên.
Tommy đỏ mặt.
– Nếu ông nghĩ, thưa ông thanh tra, ông phát khùng.
Nhưng ông thanh tra giơ tay lên dàn hòa.
– Tôi sắp bộc lộ với ông là tôi nghĩ gì, thưa ông Blunt. Địa điểm mà ông phải tìm đến đêm nay lúc 23 giờ chính tại đây, trong văn phòng này.
– Gì vậy? – Cả hai vợ chồng cùng kêu lên.
– Ngay tại đây. Vì sao tôi biết điều đó không quan trọng. Đôi khi có hãng này lấn sang hãng khác, cũng như ngày hôm nay ông đã nhận được một trong những “bức thư màu xanh” nổi tiếng. Ông già “Machin” muốn thế. Vậy là hắn kéo ông đến Hampstead để bảo đảm hiện trường tự dọ và trong khi ông đứng chờ lâu ở Hampstead hắn sẽ lục soát văn phòng của ông một cách hoàn toàn êm ả.
– Nhưng ai cho phép hắn tin rằng bức thư sẽ tìm thấy ở đây? Hắn phải nghĩ rằng tôi giữ trong người hoặc là tôi đã mang nó đi theo chứ!
– Xin ông thứ lỗi, thưa ông. Đó mới là điều hắn không biết. Hẳn là hắn đã nhận ra rằng ông không phải là Blunt nhưng vì sao hắn đoán được là ông không phải chỉ là một quý ông vô hại đã mua lại hãng? Trong trường hợp ấy, bức thư đã nói cùng như bất cứ bức thư nào khác sẽ phải xếp vào một hồ sơ.
– Mà đúng vậy! – Tuppence thốt lên.
– Và ông rất muốn như thế, cũng là điều mà chúng ta sắp làm hắn tin như thế. Như vậy chúng ta có thể bắt quả tang, tại đây, đêm nay.
– Vậy đó là kế hoạch của ông?
– Vâng. Vận may ấy chỉ tới một lần trong cuộc đời. Nào, bây giờ là 18 giờ. Thông thường ông rời văn phòng lúc mấy giờ, thưa ông?
– Lúc 18 giờ, đúng.
– Ông phải hành động như bình thường. Thực ra chúng tôi sẽ bất chợt quay lại sau đó một chút, dù chúng có thể đến trước lúc 23 giờ. Tuy nhiên chúng ta không coi là rủi ro nếu chúng không đến. Xin lỗi ông, tôi đảo mắt xung quanh để phát hiện có thể có tên nào rình mò.
Dymchurch đi ra và Tommy bắt đầu cuộc tranh luận sôi nổi với Tuppence. Việc này kéo dài một lát và đến lúc cuộc tranh luận hăng lên, Tuppence đột nhiên chịu thua.
– Đồng ý. Em bỏ cuộc. Em sẽ lặng lẽ về nhà và không động đậy, hệt như một cô bé ngoan, trong khi anh tóm bắt bọn lừa đảo và chạm cốc với các thám tử. Nhưng anh không mất gì trong khi đợi chờ. Em sẽ đền đáp lại anh bằng cách không tham gia khiêu vũ.
Đúng lúc ấy Dymchurch quay về.
– Tôi thấy hiện trường có vẻ tự do nhưng tốt hơn vẫn là xử sự một cách tự nhiên. Chúng sẽ không canh gác tại chỗ, một khi ông đã rời khỏi đây.
Tuppence gọi Albert và ra lệnh đóng cửa. Rồi cả bốn người ra gara ở không xa chỗ Tommy để xe. Tuppence và Albert ngồi cạnh bà. Hai người đàn ông ngồi ghế sau.
Chẳng bao lâu, họ bị dừng vì nghẽn đường. Cô lái xe nhìn qua vai mình và gật đầu ra hiệu. Tommy và viên thám tử xuống xe và biến vào phố Oxford. Tuppence rồ ga.
– Khôn hơn là chờ một chút trước khi lộn lại, – Dymchurch lưu ý Tommy – vì họ rảo bước trên phố Haleham. Ông có chìa khóa chứ?
Tommy gật đầu khẳng định.
– Bây giờ dùng bữa nhẹ ông thấy thế nào? Còn sớm những có một quán ăn ngay trước mặt. Chúng ta sẽ ngồi gần cửa sổ để có thể quan sát lối vào văn phòng của ông.
Họ ăn ngon miệng và vẫn để mắt ra ngoài đường. Tommy phát hiện thấy viên thanh tra là một người bạn đường đáng mến. Ông ta đã trải qua phần lớn cuộc đời để bắt bọn gián điệp quốc tế và ông kể, về đề tài này, những câu chuyện làm cho chính thính giả của ông phải sửng sốt.
Lúc 20 giờ Dymchurch ra hiệu lên đường.
– Đã vào đêm. Bây giờ chúng mình phải vào trong ngôi nhà không cho ai để ý đến ta.
Họ đi qua mặt đường, lướt nhìn kỹ xung quanh và lao vào lối đi. Đoạn họ leo cầu thang và Tommy tra chìa vào ổ khóa. Trong khi thao tác, chàng tưởng như nghe thấy Dymchurch huýt sáo sau lưng chàng.
– Vì sao ông lại huýt sáo thế?
– Không phải tôi, viên cảnh sát bị bắt chợt trả lời. Tôi lại nghĩ là ông?
– Có lẽ, có người nào đó…
Ông bị khựng lại bởi nắm tay mạnh vồ lấy ông từ phía sau và trước khi có thời giờ kêu lên, người ta đã bịt miệng ông và trên mũi một tăm bông tẩm thuốc mê. Tommy can đảm chống chọi nhưng vô ích. Đầu ông bắt đầu ngoẹo đi và đất đảo dưới chân. Ông hôn mê…
Tommy tỉnh lại, bị đau nhưng hoàn toàn hồi phục mọi chức năng. Tác dụng của thuốc gây mê chỉ thoáng qua, tuy đủ thời gian để những kẻ tấn công nhét giẻ vào miệng để ông không kêu được.
Tommy thấy mình nằm sõng soài trong một góc của chính phòng giấy của mình. Hai người đàn ông hối hả quanh bàn làm việc của ông và những ngăn tủ hốc tường, họ vừa xáo lộn lung tung các thứ bên trong vừa chửi rủa thô tục.
– Tôi muốn bị treo cổ mất thôi, thưa ông chủ, – Tên to con ném ra một giọng khô khốc – nếu chúng ta phá căn nhà tồi tàn này mà chẳng thu được cái gì.
– Đúng ra thì nó phải ở chỗ nào đó – Người kia đáp giọng cà khịa – vì không tìm thấy trên người hắn, bởi dĩ nhiên nó phải ở đây.
Vừa nói hắn vừa quay lại nhìn Tommy, ông kinh ngạc nhận ra viên thanh tra Dymchurch. Sự ngạc nhiên của ông làm tên bịp bợm thích thú.
– Anh bạn chúng ta đã tỉnh lại à? Và bạn lại hơi sửng sốt với những điều tôi nhận xét à? Tuy nhiên, thật quá đơn giản! Chúng tôi đoán thấy có chuyện gì ám muội ở “Hảng thám tử quốc tế”. Tôi đề xuất thẩm tra. Nếu ông Blunt mới là một gián điệp, hắn sẽ cảnh giác. Tôi cử ông bạn già Carl Bauer của tôi làm trinh sát. Carl được lệnh xuất hiện với vẻ khả nghi bằng cách kể lại một câu chuyện kỳ quặc. Đoạn ông ta biến đi và tôi vào cuộc. Sự ám chỉ đến thanh tra Marriot nhằm làm ông tin tôi. Đoạn kết thì đơn giản.
Hắn ta cười thích thú.
Tommy hừng hực muốn biểu lộ ý kiến của mình nhưng cái giẻ trong miệng không cho ông nói. Ông những muốn dùng tay và chân nhưng các địch thủ của ông đã nhét kỹ và ông bị trói chặt.
Sự thay đổi đột ngột của người đàn ông đang cúi xuống ông, làm cho ông hoảng sợ. Đóng vai là một thanh tra của Sở Cảnh Sát hắn gây được lòng tin và có thể được coi như người dân Anh điển hình. Nhưng giờ đây không có ai thể ngờ rằng mặc dù sự làm chủ Anh ngữ của hắn, người ta vẫn nhận thấy hắn là một người nước ngoài.
– Coggins, anh bạn tốt của tôi – Tên giả danh tranh tra ra lệnh cho tên tháp tùng rút chiếc chùy ra và đứng gần tù nhân – Tao sẽ tháo giẻ nhét miệng ra cho hắn. Này ông Blunt, ông hãy tin rằng có mà điên thì ông mới kêu cứu. Vả lại tôi tin chắc là ông đã chịu khuất phục. Mặc dầu tuổi còn trẻ, ông là một chàng trai khá thông minh.
Bằng một động tác nhanh gọn, hắn tháo giẻ và lùi lại.
Tommy khởi động quai hàm đau đớn, đảo lưỡi trong miệng, nuốt nước miếng… và nín lặng.
– Tôi khen sự hiểu biết của ông – Dymchurch nhận xét – Dĩ nhiên là ông nhận rõ tầm quan trọng của tình thế? Thực sự ông không có gì nói à?
– Cái tôi phải nói cứ phải chờ đấy đã – Tommy cằn nhằn – Và điều ấy sẽ không đi đầu mà mất.
– Thật không? Ông thử hình dung ngược lại, cái mà tôi phải nói sẽ không thể chờ đợi, thưa ông Blunt, bức thư ấy ở đâu?
– Ông thân mến, tôi không biết gì về nó hết – Tommy dịu giọng đáp – Tôi không có nó, dĩ nhiên cái ông biết chẳng khác gì tôi. Nếu tôi là ông có lẽ tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm. Đó là niềm vui đối với tôi được ngắm ông chơi trò ú tim cùng với anh bạn Coggis của ông.
Nét mặt người nước ngoài sa sầm lại.
– Ông nói năng tự do quá trớn đó, thưa ông Blunt. Ông có thấy chiếc hộp vuong vắn nhỏ kia không? Đó là đồ lề lủng củng của Coggins. Bên trong có acid sufuric đậm đặc… đúng là, acid và sắt, có thể nung trắng trên ngọn lửa…
Tommy lắc đầu buồn bã.
– Một sự chẩn đoán lầm – Ông than vãn – Tuppence và tôi đã đánh giá sai cuộc phiêu lưu này. Bà ấy không xứng là Clubfoot mà chỉ là Bulldog Drummond và ông là Cardl Peterson không ai bắt chước được.
– Ông nói cái gì mà ghê gớm thế? – Hắn ta càu nhàu.
– A! – Tommy thở dài – Tôi thấy ông không làm quen với các tác giả kinh điển của tiểu thuyết trinh thám. Thật là tai hại!
– Đồ ngốc! Hãy trả lời có hay không về cái chúng tôi yêu cầu ở ông, hay là tôi phải bảo Coggins mang dụng cụ ra?
– Xin ông đừng nôn nóng như thế. Tôi sẵn sàng làm những gì ông muốn, nhưng ông cần giải thích là ông muốn cái gì? Ông không tin rằng dù sao tôi cũng muốn được bị đánh vẩy như một con cá hoặc bị nướng trên than hồng ư? Tôi khiếp sợ sự chịu đựng.
Dymchurch khinh bỉ nhìn ông.
– Trời ơi! Những người Anh này thật nhát gan!
Đúng hơn là ông nên biết họ đầy lương tri, không gì hơn. Hãy để chất acid yên đấy và ta bắt tay vào việc.
– Tôi muốn có bức thư.
– Xin nhắc lại là tôi không có thư.
– Chúng tôi biết nó… chúng tôi cũng biết ai giữ nó. Cô gái.
– Có thể ông nói đúng. Bà ấy có thể nhét vào xắc của mình khi ông bạn nối khố Carl của ông làm chúng tôi khiếp sợ.
– Vậy là ông không chối! Vậy là ông biết điều. Rất tốt. Ông sẽ phải viết cho cô Tuppence ấy như ông vẫn gọi cô ta, yêu cầu cô mang lá thư tới đây, tức khắc.
– Tôi không thể làm thế… – Tommy lên tiếng.
Người kia ngắt lời ông, giận dữ.
– À! Không thể làm ư? Sẽ biết tay chúng tao! Coggins!
– Hãy khoan! Ông không để cho tôi nói hết câu. Tôi định nói rằng tôi không thể viết nếu ông không cởi trói tay cho tôi. Chán chưa! Tôi có phải thuộc loại kỳ dị có thể viết một lời truyền đạt bằng cái mũi hoặc bằng khuỷu tay của chúng đâu!
– Ông sẵn sàng chịu nghe lời chứ?
– Đương nhiên! Tôi đã chẳng khẳng định với ông là gì? Tôi sẽ làm theo ý ông. Để đổi lại, ông sẽ không làm chút gì có hại cho Tuppence chứ? Đó là một cô gái thật dễ ưa.
– Chúng tôi chỉ cần bức thư. – Dymchurch khẳng định với một giọng buông thõng.
Theo hiệu lệnh, Coggins cởi trói cho ông và Tommy làm vài động tác cho hết tê tay.
– A! Khá hơn rồi – Ông vui vẻ lên tiếng – Coggin thân mến, cậu có thể đưa chiếc bút máy của tôi. Hẳn nó ở trên bàn cùng với những thứ lấy từ túi tôi ra.
Miễn cưỡng, cậu ta mang cây bút và tờ giấy cho ông.
– Hãy dè chừng những gì ông viết đây – Dymchurch cảnh báo – Chúng tôi để cho ông viết tùy ý, nhưng nhớ rằng thất bại nghĩa là… cái chết… và nó sẽ đến từ từ.
– Vậy tôi sẽ cố gắng hết sức mình.
Ông ngẫm nghĩ một lát đoạn bắt đầu nguệch ngoạc vài chữ.
– Em nghĩ gì về chuyện này? Chàng tự tra vấn. Bức thông đạt chấm dứt.
“Tuppence thân yêu,
Em có thể đến văn phòng ngay với bức thư màu xanh không? Chúng ta cần giải mã nó ngay lập tức. Gấp. Francis”.
– Francis? – Viên giả thanh tra nhướng lông mày – Có phải lúc nãy cô ấy gọi ông tên này không?
– Vì ông không có mặt tại lễ rửa tội của tôi, nên ông làm sao mà biết được tên tục của tôi. Nhưng tôi nghĩ rằng chiếc hộp thuốc lá mà ông khui từ trong túi tôi sẽ là cái cớ về sự thực.
Người đàn ông cầm lấy vật trên bàn, đọc dòng chữ khắc tay của Tuppence và mỉm cười.
– Tôi hài lòng nhận thấy ông xử sự khôn ngoan. Coggins, đưa bức thông đạt này cho Vassilli đang đứng sau cánh cửa, bảo anh ta mang nó đi ngay.
20 phút sau trôi qua chậm chạp và 10 phút tiếp theo còn chậm hơn. Dymchurch đi đi lại lại. Mặt hắn sa sầm rất nhanh.
Hắn đột nhiên quay về Tommy, vẻ hăm dọa.
– Nếu ông phạm tội điên cuồng lừa dối chúng tôi…
– Nếu chúng ta có cỗ bài trong tay, chúng ta có thể chơi picke để giết thời gian – Đương sự nói chậm rãi từng lời – Đàn bà bao giờ cũng bắt phải chờ. Tôi hy vọng rằng ông sẽ không xử ác với cô bé Tuppence khi bà tới?
– Ồ, không! Chúng tôi sẽ dàn xếp để ông cùng đi với…
– Đồ tồi! – Tommy gầm lên.
Mọi hoạt động đột nhiên xảy ra trong phòng tiếp khách. Một cái đầu mà Tommy còn chưa biết là ai nhô lên và người đàn ông tuôn ra vài từ tiếng Nga.
– Tốt! – Dymchurch đáp – Cô ta tới… và đi một mình.
Một nỗi kinh hoàng nhẹ làm xúc động đến tắc thở người tù. Lát sau đó, Tuppence lên tiếng :
– Ồ! Đây rồi thưa ông thanh tra. Tôi mang theo lá thư. Francis đâu rồi?
Dứt lời, bà tiến vào gian phòng. Vassilli chồm lên bà và lấy tay bịt miệng bà lại. Dymchurch giật lấy cái xắc từ tay bà để cuống cuồng dốc ngược các thứ bên trong. Bỗng hắn ta reo lên mừng rỡ và múa chiếc phong bì màu xanh dán tem Nga. Coggins phát ra tiếng khàn khàn thích thú.
Và đúng giữa lúc chiến thắng đó, cửa bên kia thông sang bàn giấy của Tuppence khẽ mở ra, thanh tra Marriot và hai người của ông bước vào, tay cầm súng, Marriot quát :
– Giơ tay lên!
Không dùng vũ lực. Bọn cướp sửng sốt, không chống cự chút nào. Súng tự động của Dymchurch ở trên bàn và bọn tháp tùng không có vũ khí.
– Một mẻ lưới tuyệt vời – Thanh tra bình luận trong khi bấm chiếc còng cuối cùng – Và với thời gian, tôi hy vọng rằng việc đánh lưới sẽ còn có hiệu quả hơn nữa.
Điên lên vì giận dữ, Dymchurch nhìn xoáy vào Tuppence làm bà đờ người ra.
– Con ranh – Hắn gầm lên – Chính mày đã dẫn chúng nó đến!
Người đàn bà trẻ cười rộ.
– Không phải là công việc của tôi. Thú thật là tôi đã nghi ngờ khi ông bị ám ảnh về con số 16 chiều này. Chỉ có bức thông đạt của Tommy đã khiến tôi quyết định hành động. Lập tức tôi gọi điện cho thanh tra Marriot, sau đó gặp Albert, anh ta giữ giùm chìa khóa văn phòng. Tôi đến đầu tiên với chiếc phong bì xanh. Còn bức thư… tôi đã nhờ chuyển đi theo lệnh, ngay khi tôi để ông, cả hai người trong phố Oxford.
Duy chỉ một tiếng thu hút sự chú ý của tên giả thanh tra, làm hắn hoài nghi thốt lên :
– Tommy là ai?
Chàng vừa được cởi trói, lại gần đồng đội.
Diễn xuất giỏi, bạn Francis, ông xác nhận trong khi nắm lấy bàn tay Tuppence trong tay mình. Đoạn, quay lại người nước ngoài: Như tôi đã nói, bạn thân mến, ông thực sự đọc những tác gia kinh điển.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.