Kẻ Tầm Xương

Chương 23



Anh ta tóm họ ngay trước nhà Rhyme.
Nhanh như rắn, Jerry Banks đang bê cạnh sườn, như một món quà từ Santa Fe.
Dellray và hai đặc vụ bước từ trong ngõ ra. Anh ta tuyên bố với vẻ thoải mái: “Có tin mới đây, bé yêu. Cô đã bị bắt vì tội ăn cắp chứng cứ đang thuộc sự quản lý của chính phủ Mỹ.”
Lincoln Rhyme đã nhầm. Dellray không hề về tòa nhà kiểu liên bang. Anh ta theo dõi chỗ ở của anh.
Banks đảo mắt. “Bình tĩnh nào, Dellray. Chúng tôi đã cứu được nạn nhân.”
“Con giai, con làm được việc thật tốt rồi đấy. Nếu không, chúng ta sẽ kết án con tội giết người.”
“Nhưng chúng tôi cứu được ông ta”, Sachs nói. “Còn anh thì không.”
“Vớ vẩn.”
“Còng quý cô trẻ tuổi này lại”, con Kỳ nhông bất ngờ nói với đặc vụ lực lưỡng đứng cạnh anh ta.
Cô bắt đầu. “Chúng tôi tìm thấy thêm manh mối, đặc vụ Dellray. Hắn đã bắt được một nạn nhân khác. Tôi không biết chúng ta còn bao nhiêu thời gian.”
“À, còn phải mời cả anh bạn này tới dự tiệc cùng chúng ta nữa chứ.” Dellray hất đầu về phía Banks. Một nữ đặc vụ FBI đang tiến lại chỗ anh ta, còn anh ta có vẻ như đang nghĩ đến việc đánh nhau với cô ta.
Dellray nói vui vẻ: “Đừng, đừng, đừng. Cậu không muốn thế đâu.”
Banks miễn cưỡng chìa tay ra.
Sachs giận dữ nở một nụ cười lạnh lùng với viên đặc vụ. “Chuyến đi đến Morningside Heights của anh thế nào?”
“Hắn đã giết chết chàng lái taxi ấy. Các chàng trai PERT của chúng tôi đang lồm cồm khắp nhà như giòi bò trong phân.”
“Và đó là tất cả những gì họ sẽ tìm thấy”, Sachs nói. “Đối tượng này biết về hiện trường vụ án tốt hơn anh và tôi.”
“Về trung tâm.” Dellray tuyên bố, hất đầu về phía Sachs. Cô có quyền được yên lặng. Cô có…”
“Được rồi’, một giọng nói vang lên phía sau họ. Sachs quay lại và nhìn thấy Jim Polling đang sải bước lên vỉa hè. Cái áo thể thao thùng thình, tối màu anh ta đang mặc thật nhàu nát. Giống như là anh ta đã mặc nó khi đi ngủ, mặc dù khuôn mặt u ám của anh ta nói rằng đã mấy ngày nay anh ta chưa được ngủ. Có thể nhìn thấy bộ râu cả ngày chưa được cạo và mái tóc thực sự rối bù của anh ta.
Dellray chớp mắt một cách khó chịu, không phải viên cảnh sát làm anh ta thấy bất ổn mà là thân hình cao lớn của chưởng lý quận Nam đang ở phía sau Pollong. Và sau nữa là SAC Peskins.
“Được rồi, Fred. Để họ đi.” Giọng nói của viên chưởng lý.
Con Kỳ nhông nói bằng giong nam trung của phát thanh viên chương trình âm nhạc đài FM: ”Cô ta lấy trộm vật chứng, thưa ngài.Cô ta…”
“Tôi chỉ làm vài phân tích pháp y thôi”, Sachs nói.
“Nghe này…”, Dellray bắt đầu.
“Không”, Polling nói, hoàn toàn làm chủ. Không hề có âm hưởng giận dữ. “Không, chúng tôi không nghe.” Anh ta quay sang Sachs và cáu kỉnh: “Còn cô thì đừng cố làm trò.”
“Không, thưa ngài. Xin lỗi, thưa ngài.”
Viên chưởng lý nói với Dellray: ”Fred, anh hành động theo suy luận và đã thất bại. Đó là sự thật.”
“Một đầu mối tốt”, Delllray nói.
“Chúng tôi thay đổi hướng điều tra”, viên chưởng lý tiếp tục.
Perkins nói: “Chúng tôi đã họp với giám đốc và với phòng Nghiên cứu Hành vi. Chúng tôi quyết định rằng hướng điều tra của các thám tử Rhyme và Sellitto là đúng.”
“Nhưng đặc tính của tôi biết chắc rằng điều gì đó đã xảy ra tại sân bay. Và đó không phải là thứ mà anh ta thích lắm.”
“Chúng ta sẽ quay lại chuyện đó, Fred”, viên chưởng lý nói cộc lốc. “Bất kể là tên khốn này muốn gì thì nhóm của Rhyme cũng đã cứu được nạn nhân.”
Nhứng ngón tay dài ngoẵng của Dellray cuộn lại thành nắm đấm, nhưng sau đó lại mở ra: “Tôi đánh giá cao việc này, thưa ngài. Nhưng…”
“Đặc vụ Dellray, chúng tôi đã quyết định rồi.”
Khuôn mặt đen bóng – thật hăng hái khi anh điều binh khiển tướng trong toà nhà kiểu liên bang – lúc này ủ rũ, dè dặt. Trong một khắc, anh chàng mê nhạc jazz biến mất. “Vâng, thưa ngài.”
“Con tin gần đây nhất có thể bị chết nếu thám tử Sachs không can thiệp”, viên chưởng lý nói.
“Là sĩ quan Sachs, thưa ngài”, cô chỉnh lại. “Vả lại phần lớn là nhờ Lincoln Rhyme. Tôi chỉ là tay sai của anh ta thôi. Có thể nói như vậy.”
“Vụ này trả về thành phố”, viên chưởng lý tuyên bố. “A-T của Cục vẫn tiếp tục xử lý mối liên hệ với người đưa tin liên quan tới khủng bố nhưng với số lượng người ít hơn. Tất cả những thông tin mà họ có được đều phải chuyển cho các thám tử Rhyme và Sellitto. Dellray, anh phải chuyển người sang để họ sử dụng cho bất kỳ nỗ lực tìm kiếm, theo dõi hay giải cứu con tin nào. Hoặc bất cứ thứ gì họ cần. Anh hiểu chứ?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Tốt. Ạnh nên tháo còng cho các sĩ quan này ngay.”
Dellray bình tĩnh mở khóa còng và thả nó vào túi mình. Anh ta đi ra chỗ một chiếc xe lớn đậu gần đó. Khi Sachs nhặt cái túi đựng vật chứng lên, cô nhìn thấy anh ta đứng một mình bên rìa một vệt sáng đèn đường, đằng sau xe của anh ta, ngón tay trỏ vuốt vuốt điếu thuốc. Cô có một chút cảm thông với nhân viên liên bang này, sau đó cô quay lại chạy lên cầu thang, hai bậc một, theo sau Jerry Banks và con rắn chuông của anh ta.
 
“Tôi nghĩ ra rồi. À, hầu hết.”
Sachs bước và phòng Rhyme đúng lúc anh đưa ra tuyên bố này. Anh ta khá hài lòng với bản thân.
“Mọi thứ, trừ con rắn và cái mớ hỗn độn này.”
Cô giao vật chứng mới cho Mel Cooper. Căn phòng lại được chuyển đổi, những cái bàn được chất đầy lọ thủy tinh, cốc thí nghiệm, hộp tròn đựng thuốc, thiết bị phòng thí nghiệm và những cái hộp. Không nhiều như ở trụ sở FBI nhưng với Amelia Sachs, kỳ lạ thay nó lại khiến cô thấy như đang ở nhà.
“Nói tôi nghe”, cô nói.
“Ngày mai là Chủ Nhật… xin lỗi – hôm nay là Chủ nhật. Hắn sẽ đốt một nhà thờ.”
“Làm thế nào mà anh nghĩ ra được?”
“Ngày tháng.”
“Trên mẩu giấy? Nó có ý nghĩa gì?”
“Cô đã bao giờ nghe nói tới những người vô chính phủ chưa?”
“Những người Nga nhỏ bé mặc áo choàng mang theo những quả bom trông như quả bóng bowling phải không?” Banks nói.
“Từ một anh chàng đọc truyện tranh” Rhyme khô khan nhận xét. “Cội-rễ-truyện-tranh-sáng-thứ-Bảy của anh ta đang thể hiện đây, Banks. Chủ nghĩa vô chính phủ là một phong trào xã hội cũ kêu gọi loại bỏ chính phủ. Một người vô chính phủ – Enrico Malatesta – có tuyên ngôn ‘tuyên truyền bằng hành động’. Dịch ra là giết người và gây lộn xộn. Một trong những kẻ theo gót ông ta, một người Mỹ tên là Eugene Lockworthy, sống ở New York. Một buổi sáng Chủ nhật, hắn ta khóa cửa một nhà thờ ở Upper East Side[119] ngay sau khi buổi lẽ bắt đầu và đốt nơi đó. Giết mười tám người đi lễ.”
“Và nó xảy ra vào ngày Hai mươi tháng Năm năm 1906?” Sachs hỏi.
“Đúng.”
“Tôi sẽ không hỏi làm thế nào mà anh nghĩ ra được.”
Rhyme nhún vai. “Rõ ràng quá. Đối tượng của chúng ta thích lịch sự, đúng không? Hắn cho ta vài que diêm để nói với ta rằng, hắn lên kế hoạch cho một vụ hỏa hoạn. Tôi vừa nghĩ tới những vụ cháy nổi tiếng của thành phố – Triangle Shirtwaist, Crystal Palace[120], du thuyền Tướng Slocum… tôi xem lại ngày tháng – Ngày Hai mươi tháng Năm là đám cháy nhà thờ First Methodist.”
Sachs hỏi: “Nhưng ở đâu? Cũng chỗ nhà thờ ấy?”
“Tôi nghĩ là không phải”, Sellitto nói. “Bây giờ chỗ đó là một cao ốc thương mại, 823 không thích những chỗ mới. Tôi có một vài người dự phòng nhưng ta không chắc là hắn sẽ đi nhà thờ.”
“Và chúng ta nghĩ”, Rhyme nói thêm, “hắn sẽ đợi cho tới khi buổi lễ bắt đầu.”
“Vì sao?”
“Có một điều, vì đó là cách Lockworthy đã làm”, Sellitto tiếp tục. “Hơn nữa, chúng tôi cũng nghĩ tới điều Terry Dobyns nói với chúng ta – tăng tiền cược. Nhiều nạn nhân hơn.”
“Như vậy là ta có thêm chút thời gian. Cho tới khi buổi lễ bắt đầu.”
Rhyme nhìn lên trần nhà. “Rồi, có bao nhiêu nhà thờ ở Manhattan?”
“Hàng trăm cái.”
“Nghe hoa mỹ lắm, Banks. Ý tôi là – chúng ta tiếp tục xem xét manh mối. Hắn sẽ phải thu gọn còn vài cái thôi.”
Tiếng chân bước trên cầu thang.
Lại là hai anh em sinh đôi.
“Chúng tôi gặp Fred Dellray ở ngoài kia.”
“Anh ta chẳng thân mật chút nào.”
“Hay vui vẻ.”
“Ôi trời, nhìn này.” Saul – Rhyme tin rằng đó là Saul ; anh ta quên mất ai là người có tàn nhang – hất đầu về phía con rắn. “Trong một đêm, tôi đã phải nhìn thấy thứ này nhiều hơn là tôi muốn rồi đấy.”
“Rắn?” Rhyme hỏi.
“Chúng tôi đến Metamorphosis. Đó là…”
“… một chỗ rất ghê rợn. Có gặp ông chủ ở đấy. Một anh chàng kỳ quặc. Các anh chắc cũng đoán được.”
“Để râu dài lắm. Chúng tôi ước là mình không đến đấy tối đó”, Bedding tiếp.
“Họ bán dơi nhồi bông và côn trùng…”
“Dài tới năm inch.”
“… và có những con quái vật như con này.” Sachs hất đầu về phía con rắn.
“Bọ cạp, rất nhiều bọ cạp.”
“Thôi được, khoảng một tháng trước họ bị đột nhập và đoán thử xem cái gì bị mất? Một bộ xương rắn chuông.”
“Họ có báo không?” Rhyme hỏi.
“Có.”
“Nhưng tổng giá trị tài sản mất cắp chỉ khoảng một trăm đô la. Vì thế Larceny không muốn lôi tất cả mọi người vào, các anh biết đấy.”
“Nhưng nói với họ.”
Sachs gật đầu. “Con rắn không phải là thứ duy nhất bị mất. Kẻ trộm còn lấy đi mấy chục cái xương.”
“Xương người à?” Rhyme hỏi.
“Đúng. Người chủ nghĩ điều đó thật hài hước. Những con côn trùng…”
“Quên năm inch đi, một số con dài tới tám inch. Dễ.”
“…chúng trị giá ba, bốn trăm. Nhưng tất cả vật chứng bị lấy là con rắn và xương.”
“Có xương nào đặc biệt không?”
“Một nhóm. Giống như mẫu Whitman của anh.”
“Hắn ta nói thế, không phải chúng tôi.”
“Chủ yếu là xương nhỏ. Tay và chân. Và xương sườn, có thể là cả hai cái.”
“Anh ta không chắc lắm.”
“Có báo cáo hiện trường nào không?”
“Cho xương bị đánh cắp? Không đâu.”
Những Chàng trai Dũng cảm lại đi ra, vào thành phố, tới hiện trường cuối cùng để điều tra khu vực lân cận.
Rhyme băn khoăn về con rắn. Có phải nó cho họ biết địa điểm không? Nó có liên quan đến đám cháy Nhà thờ First Methodist không? Nếu bọn rắn chuông là đặc thù của Manhattan thì những công trình phát triển thành phố đã từ lâu đóng vai trò Thánh Patrick và đã quét dọn chúng ra khỏi đảo rồi. Hắn có chơi chữ rắn hay chuông không?”
Bất ngờ Rhyme tin rằng anh ta đã hiểu ra. “Con rắn là dành cho chúng ta.”
“Chúng ta?” Banks cười.
“Một cái tát vào mặt.”
“Mặt ai?”
“Tất cả những ai đang tìm hắn. Tôi nghĩ đây là một chuyện đùa độc địa.”
“Tôi không cười quá to đâu”, Sachs nói.
“Câu của cô khá là buồn cười đấy.” Banks nhăn mặt.
“Tôi nghĩ chúng ta khá hơn hắn tưởng và hắn không thích điều này. Hắn phát điên và hắn đổ nó sang cho chúng ta. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta đi. Hắn đang nhạo báng chúng ta.”
Điện thoại của Sellitto đổ chuông. Anh ta nghe và trả lời. “Emma thân yêu. Cô có gì thế?” Anh ta gật đầu trong khi ghi chép. Sau đó ngẩng lên và thông báo. “Những tên trộm xe cho thuê. Hai chiếc Avis đã biến khỏi chỗ của chúng ở Bronx trong tuần qua, một chiếc ở Midtown. Chúng để ở ngoài vì màu không đúng: đỏ, xanh và trắng. Không có tính dân tộc. Bốn chiếc Hertz bị đánh cắp. Ba chiếc ở Manhattan – một chiếc từ địa điểm của họ ở trung tâm East Side, một chiếc từ Midtown và một chiếc từ Upper West Side. Hai cái màu xanh và – có thể đây là nó – một cái màu nâu. Nhưng chiếc Ford bạc bị lấy từ White Plains. Đó là sự bầu chọn của tôi.”
“Đồng ý”, Rhyme tuyên bố. “White Plains.”
“Làm sao anh biết?” Sachs hỏi. “Monelle nói có thể nó màu be hay màu bạc.”
“Vì anh chàng của chúng ta đang ở trong thành phố”, Rhyme giải thích, “và nếu hắn ta lấy một thứ to như một chiếc xe hơi thì hắn sẽ làm việc đó càng xa hang ổ của hắn càng tốt. Một chiếc xe Ford, anh vừa nói thế à?”
Sellitto hỏi Emma, sau đó ngẩng lên. “Taurus. Kiểu của năm nay. Nội thất màu xám tối. Biển số không trùng.”
Rhyme gật đầu. “Thứ đầu tiên mà hắn thay đổi sẽ là biển số xe. Hãy cảm ơn cô ấy và bảo cô ấy chợp mắt một chút. Nhưng đừng rời điện thoại quá xa.”
“Tôi có gì này, Lincoln”, Mel Cooper gọi.
“Gì thế?”
“Mớ hỗn độn. Tôi đã chạy nó qua cơ sở dữ liệu thương hiệu.” Anh ta bật màn hình. “Tham chiếu chéo… Xem nào, phù hợp nhất có lẽ là Kink-Away. Đó là loại thuốc duỗi tóc được bán trong cửa hàng.”
“Không phù hợp lắm về mặt chính trị, nhưng có ích. Điều này đưa ta đến Harlem, các anh có nghĩ thế không? Thu hẹp số lượng nhà thờ một cách đáng kể.” Banks đang lướt qua mục buổi lễ tôn giáo trong danh bạ của ba tờ báo thành phố. “Tôi đếm được hai mươi ba.”
“Buổi lễ sớm nhất là lúc nào?”
“Ba nơi làm lễ lúc tám giờ. Sáu nơi lúc chín giờ. Một nơi vào lúc chín rưỡi. Còn lại vào mười hay mười một giờ.”
“Hắn ta sẽ đến nhà thờ làm lễ đầu tiên. Hắn đã cho chúng ta vài giờ để tìm kiếm chỗ này rồi.”
Sellitto nói. “Tôi sẽ bảo Haumann tập hợp các anh chàng ESU của chúng ta lại.”
“Còn Dellray thì sao?” Sahcs nói. Cô hình dung ra viên đặc vụ đáng thương đứng một mình trong góc phố phía bên ngoài.
“Hắn ta thì sao?” Sellitto lẩm bẩm.
“À,cho anh ta nhập cuộc với. Anh ta muốn bắt thằng cha kia lắm đấy.”
“Perkins nói anh ta sẽ phải giúp đỡ”, Banks khuyến nghị.
“Cô thực sự muốn có hắn ư?” Sellitto nhăn nhó hỏi.
Sachs gật đầu. “Chắc chắn.”
Rhyme đồng ‎ý. “Được rồi, anh ta có thể chỉ huy các nhóm S&S của liên bang. Tôi muốn mỗi nhà thờ có một nhóm ngay lập tức. Tất cả các lối vào. Nhưng họ phải đứng cách đó thật xa. Tôi không muốn đánh động hắn. Ta có thể bắt quả tang hắn.”
Sellitto nhận một cuộc gọi. Anh ta ngẩng lên, mắt nhắm. “Lạy Chúa.”
“Ồ, không”, Rhyme lẩm bẩm.
Viên thám tử lau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi và gật đầu. “Trung tâm nhận được một cuộc gọi 911 từ nhân viên trực đêm mở một khu nào đó? Khách sạn Midtown Residence? Một người phụ nữ và con gái cô ta gọi cho anh ta từ La Guardia, nói rằng họ sẽ bắt đầu lên taxi đến. Một lúc trước; nhưng họ lại không đến. Biết tin tức về vụ bắt cóc, anh ta nghĩ anh ta nên gọi điện. Tên cô ta là Carole Ganz. Đến từ Chicago.”
“Quỷ thật”, Bank lẩm bẩm. “Có cả một đứa bé gái. Chắc là ta phải dừng hết taxi ngoài phố cho tới khi tóm được hắn.”
Rhyme vô cùng mệt mỏi. Đầu anh điên đảo. Anh nhớ lại lúc khám nghiệm hiện trường tại một nhà máy sản xuất bom. Nitroglycerin rơi ra từ một ít thuốc nổ thấm vào chiếc ghế bành mà Rhyme phải tìm kiếm dấu vết trên đó. Nitroglycerin làm cho ta đau đầu dữ dội.
Màn hình máy tình của Cooper nhấp nháy. “Thư điện tử”, anh ta nói và mở thông điệp. Anh ta đọc những dòng chữ nhỏ xíu.
“Họ đã phân cực tất cả các mẫu giấy bóng kính mà ESU thu thập được. Họ cho rằng mẩu giấy chúng ta tìm thấy trên khúc xương ở hiện trường Phố Pearl là từ cửa hàng thực phẩm ShopRite. Giống nhất với loại giấy bóng kính mà họ sử dụng.”
“Tốt”, Rhyme nói. Anh hất đầu về phía tấm áp phích. “Gạch bỏ tất cả cửa hàng thực phẩm trừ ShopRite đi. Ta còn những địa điểm nào.”
Anh nhìn Thom xóa tên các cửa hàng, chỉ để lại bốn.
B’way & 82nd
Greenwich & Bank
8th Ave. & 24th
Houston & Lafayette
“Như thế là ta còn lại Upper West Side, West Village, Chelsea và Lower East Side.”
“Nhưng hắn có thể đến bất cứ đâu để mua.”
“Chắc chắn là hắn có thể rồi, Sachs. Hắn có thể mua chúng ở White Plains khi hắn ăn trộm xe. Hay ở Cleveland khi đi thăm mẹ hắn. Nhưng nghe nay, có một điểm là bọn thủ phạm cảm thấy thoải mái với sự lừa dối của chúng và chúng không còn quan tâm đến việc che giấu dấu vết nữa. Những kẻ ngu xuẩn – hay lười biếng – ném khẩu súng còn bốc khói xuống hố rác ngay sau nhà mình và vui vẻ biến đi. Những kẻ thông mình ném nó vào một thùng Spackle rồi vứt vào Hell Gate. Những kẻ xuất sắc lẻn vào nhà máy lọc dầu và làm nó bốc hơi trong lò nóng năm nghìn độ. Nghi phạm của chúng ta thông minh, chắc chắn rồi. Nhưng hắn cũng giống như tất cả các tên tội phạm khác trong lịch sử thế giới. Hắn cũng có giới hạn. Tôi cá là hắn nghĩ chúng ta không có thời gian hay ý định tìm kiếm hắn hay hang ổ của hắn vì chúng ta quá bận bịu với những manh mối để lại. Nhưng tất nhiên là hắn hoàn toàn sai lầm. Đó chính xác sẽ là cách chúng ta tìm ra hắn. Còn bây giờ, hãy xem liệu ta có đến gần được hang ổ của hắn hay không? Mel, có gì trong quần áo của nạn nhân từ hiện trường vừa rồi không?”
Những đợt sóng thủy triều đã giặt sạch hầu hết mọi thứ trên quần áo của William Everett.
“Cô nói là họ có đánh nhau, phải không Sahcs? Nghi phạm và ông Everett này.”
“Không hắn là một vụ đánh nhau. Everett tóm áo hắn.”
Rhyme tặc lưỡi. “Chắc là tôi mệt rồi. Nếu tôi nghĩ đến việc đó thì tôi đã bảo cô cạo móng tay ông ta. Kể cả khi ông ta chìm dưới nước thì vẫn có một chỗ…”
“Đây này, cô nói và chìa ra hai cái túi nhựa.”
“Cô có cạo?”
Cô gật đầu.
“Nhưng sao lại hai túi?”
Nhấc lần lượt từng cái lên, cô nói: “Tay phải, tay trái.”
Mel Cooper bật cười. “Ngay cả anh cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc dùng hai túi cho hai tay. Ý hay tuyệt.”
Rhyme gầm gừ. “Phân tích hai tay có khả năng cùng có giá trị giám định.”
“Ôi trời”, Cooper vẫn cười. “Thế có nghĩa là anh ta nghĩ đó là một ý tuyệt vời và anh ta tiếc rằng mình không phải là người đầu tiên nghĩ ra nó.”
Kỹ thuật viên nghiên cứu chỗ cạo móng tay. “Ở đây có ít gạch.”
“Chẳng có tí gạch nào quanh ống cống hay ngoài hiện trường”, Sachs nói.
“Nó bị gãy vụn. Nhưng có cái gì dính vào đó. Tôi không biết đấy là thứ gì.”
Banks hỏi: “Có thể là từ đường hầm chỗ bãi chăn không? Ở đó có rất nhiều gạch, đúng không?”
“Và tất cả xuất phát từ cô Annie Oakley[121] đây”. Rhyme nói, buồn bã hất đầu về phía Sachs. “Không, nhớ lại đi, thủ phạm đã bỏ đi trước khi cô ta rút súng sáu.” Sau đó anh nhăn nhó, thấy mình cố vươn ra phía trước. “Mel, tôi muốn xem mẩu gạch đó. Trên kính hiển vi. Có cách nào không?”
Cooper nhìn ra chỗ máy tính của Rhhyme. “Tôi nghĩ ta có thể làm gì đó.” Anh ta kéo một sợi cáp từ cổng video của chiếc kính hiển vi tới máy tính của anh ta và sau đó đào bới trong cái va li. Anh ta lôi ra một sợi cáp to, dây màu xám. “Đây là cáp nối tiếp”. Anh ta kết nối hai máy tính với nhau và truyền một phần mềm gì đó sang chiếc Compaq của Rhyme. Sau năm phút, Rhyme phấn chấn nhìn được đúng những gì mà Cooper đang nhìn qua ống ngắm kính hiển vi của anh ta.
Đôi mắt của nhà hình sự học quét qua mẩu gạch, đã được phóng đại khổng lồ. Anh cười thành tiếng. “Hắn ta đã tự đánh bẫy mình. Có thấy những đốm trắng màu trắng dính vào mẩu gạch không?”
“Cái gì đấy?” Sellitto hỏi.
“Trông giống như hồ dán”, Cooper đề xuất.
“Chính xác. Từ cuộn băng dính làm sạch lông thú vật trên quần áo. Những tên tội phạm thực sự cẩn thận dùng thứ này để xóa sạch dấu vết khỏi quần áo chúng. Nhưng chúng bị phản pháo. Vài mẩu hồ rơi ra khỏi cuộn băng dính và dính vào quần áo của hắn. Như vậy ta biết đó là từ nơi ẩn nấp an toàn của hắn. Chính mẩu hồ giữ sạch mẩu gạch lại cho tới khi móng tay của Everett nhặt nó lên.”
“Mẩu gạch ấy có nói cho ta biết điều gì không?” Sachs hỏi.
“Nó đã cũ. Và đắt tiền – gạch rẻ tiền rất xốp có trộn chất làm đầy. Tôi nghĩ chỗ của hắn có thế là một cơ quan hay tòa nhà của ai đó rất giàu có. Tòa nhà ít nhất đã một trăm năm. Có thể cổ hơn.”
“À, đây rồi”, Cooper nói. “Có vẻ là một mẩu găng tay nữa. Nếu thứ này cứ tiếp tục phân rã thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ có dấu vân tay của hắn thôi.”
Màn hình của Rhyme nhấp nháy và một khắc sau anh nhận thấy có một mẩu da nhỏ xuất hiện trên màn hình. “Có thứ trông buồn cười này”, Cooper nói.
“Không phải màu đỏ”, Rhyme nhận xét. “Như mẩu kia. Mẩu này lại màu đen. Cho nó qua máy GC-MS xem.”
Cooper thử, sau đố gõ lên màn hình của anh ta. “Đó là da. Nhưng thuốc nhuộm khác. Có thể nó đã bị dây bẩn hoặc phai màu.”
Rhyme nghiêng người về phía trước, căng thẳng, nhìn kỹ mẩu da trên màn hình và anh nhận ra mình gặp rắc rối. Rắc rối nghiêm trọng.
“Này, anh ổn chứ?” Sachs chính là người thốt lên.
Rhyme không trả lời. Cổ và cằm anh bắt đầu rung bần bật. Một cảm giác như cơn rối loạn tràn lên từ cạnh cột sống đã gãy của anh và lan lên đầu. Sau đó, tựa như bộ điều chỉnh nhiệt được bật lên, cơn lạnh và gai ốc biến mất, anh bắt đầu toát mồ hôi. Mồ hôi túa ra trên mặt anh và cù anh buồn phát điên.
“Thom!” Anh thì thầm. “Nó đến đấy.”
Sau đó anh thở hổn hển, cơn đau đầu dâng lên và lan tỏa theo thành hộp sọ. Anh nghiến chặt răng, lắc đầu, làm bất cứ điều gì có thể để ngăn chặn cơn đau không thể chịu đựng được. Nhưng chẳng có ích gì. Đèn trong phòng nhấp nháy. Cơn đau dữ dội tới mức phản ứng của anh là chạy trốn khỏi nó, chạy trên đôi chân bại liệt đã không nhúc nhích được trong nhiều năm.
“Lincoln!” Sellitto la lớn.
“Nhìn mặt anh ấy kìa”, Sachs hổn hển, “nó đỏ rực”.
Còn tay anh thì trắng bệch như ngà voi. Cả người anh dước kinh độ C4[122] thần kỳ đang trắng bệch. Máu của Rhyme, trong một sứ mệnh tuyệt vọng, sai lầm là phải đến được chỗ nó nghĩ nó cần đến, đang dồn lên những ống mao dẫn trên não anh, khiến chúng dãn ra, đe dọa làm nổ tung những mạch máu yếu ớt.
Dù cơ đột quỵ càng ngày càng tệ hại hơn, nhưng Rhyme vẫn biết được Thom đang vươn trên người anh, kéo tung cái chăn ra khỏi giường. Anh vẫn biết Sachs tiến về phía trước, đôi mắt xanh dương tỏa sáng của cô co lại vì lo lắng. Điều cuối cùng anh nhìn thấy trước khi bóng tối trùm xuống là con chim ưng đang tung bay ra khỏi bờ tường trên đôi cánh to lớn của nó, bị giật mình vì những hoạt động rối loạn bất ngờ trong phòng, tìm kiếm sự quên lãng dễ dàng trong làn không khí nóng bỏng bên trên những con phố trống vắng của thành phố.
 
Chú thích
[119] Upper East Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm ở sông Đông.
[120] Crystal Palace: Cung điện Pha Lê, một địa danh ở New York.
[121] Annie Oakley: Nữ diễn viên, xạ thủ người Mỹ đầu thế kỷ XX.
[122] C4: Đốt sống C4.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.