Kẻ Tầm Xương

Chương 12 – Part 02



Cô nằm nghiêng, bất động.
Mắt cô đã quen với bóng tối lờ mờ của đường hầm và cô có thể nhìn thấy những con vật khốn khiếp đang lại gần hơn. Cô đặc biệt để mắt đến một con.
Chân Monelle đau ghê gớm, nhưng cơn đau chính lại nằm ở cánh tay, chỗ hắn cắt sâu vào da thịt. Vì tay bị còng ra sau nên cô không nhìn thấy vết thương, không biết mình chảy bao nhiêu máu. Nhưng chắc là rất nhiều; cô cảm thấy rất uể oải và có thể cảm nhận được vết thương rỉ máu dinh dính trên tay và bên sườn.
Có tiếng cào – những cái móng hình kim cào trên nên xi măng. Những khối màu nâu xám hối hả lao trong bóng tối. Những con chuột cống tiếp tục giật cục đi về phía cô. Chúng phải có đến hàng trăm con.
Cô bắt mình nằm im và theo dõi con chuột đen. Schwarzie, cô đặt tên cho nó. Nó đứng ngay trước mặt, đi tới đi lui, nghiên cứu cô.
Monelle Gerger đã đi vòng quanh thế giới hai lần khi cô mới mười chín tuổi. Cô đi nhờ xe dọc Sri Lanka, Campuchia và Pakistan. Đi qua Nebraska, nơi những người đàn bà nhìn bộ ngực không áo lót và những cái vòng đeo lông mày của cô với vẻ khinh miệt. Đi qua Iran, nơi những người đàn ông nhìn cánh tay trần của cô như lũ chó động đực. Cô ngủ trong công viên thành phố ở Thành phố Guatemala và ở ba ngày với lực lượng nổi loạn ở Nicaragua lúc bị lạc đường khi đến khu bảo tồn động vật hoang dã.
Nhưng chưa bao giờ cô hoảng sợ như lúc này.
Mein Gott.
Và điều cô hoảng sợ nhất chính là điều cô sắp làm với bản thân mình.
Một con chuột chạy tới gần, thân thể màu nâu của nó lao tới trước, lùi lại sau, rồi lại tiến lên mấy inch. Bọn chuột đang sợ, cô nghĩ vậy, vì chúng chuyển động giống bò sát hơn bọn gặm nhấm. Một cái mũi rắn, cái đuôi rắn. Và những cặp mắt đỏ ngầu khốn khiếp.
Đằng sau đó là Schwarzie, to gần bằng một con mèo nhỏ. Nó đứng trên hai chân sau nhìn thứ làm nó phấn khích. Quan sát. Chờ đợi.
Thế rồi con chuột con tấn công. Vội vàng trên bốn cái chân nhọn hoắt, lờ đi tiếng thét bị bóp nghẹt của cô, nó lao tới, nhanh và thắng. Nhanh như sóc, nó rứt một miếng thịt từ cái chân bị cắt của cô. Vết thương nhói lên như bị bỏng. Monelle kêu ré lên – vì đau, và vì giận dữ. Tao không cần mày. Cô đạp gót giày rất mạnh lên lưng nó với một tiếng rắc khô khốc. Nó giãy một cái rồi nằm im.
Một con khác xông lên cổ cô, rứt một miếng rồi chạy lui, nhìn chằm chằm vào cô, nháy nháy mũi như thế nó đang liếm mép, hưởng thụ mùi vị của cô.
Dieser Schmerz[81]…
Cô rùng mình vì cơn đau rát tỏa ra từ vết cắn. Dieser Schmerz! Đau quá! Monelle bắt mình nằm im.
Kẻ tấn công tí hon định lao lên lần nữa, nhưng rồi động đậy và quay đi. Monelle biết tại sao. Schwarzie cuối cùng đã tiến lên hàng đầu. Nó đi lấy cái nó muốn.
Tốt, tốt.
Nó là con chuột cô đang chờ đợi. Vì có vẻ như nó không quan tâm đến máu thịt cô; cách đây hai mươi phút nó đã tới gần, phấn khích với miếng băng dính màu bạc dán trên miệng cô.
Con chuột bé hơn vội vàng chạy đến nhập đàn khi Schwarzie tiến lên trên những cái chân tí hon, bẩn thỉu. Dừng lại. Lại tiến lên. Sáu feet, năm.
Rồi ba.
Cô nằm im như chết. Thở thật nhẹ hết mức có thể, sợ hơi thở của mình sẽ làm con chuột sợ hãi.
Schwarzie dừng lại. Rồi tiến lên. Sau đó dừng hẳn. Cách đầu cô hai feet.
Không được động đậy.
Lưng nó vồng cao, môi nó liên tục đưa đẩy trên hàm răng nâu vàng. Nó tiến lên thêm một foot nữa và dừng lại, mắt đảo điên. Ngồi dậy, xoa hai cái chân đầy móng vuốt vào nhau, rồi lại tiến lên.
Monelle Gerger giả chết.
Chỉ còn sáu inch nữa thôi. Vorwärts[82]!
Nào!
Thế rồi nó đến sát mặt cô. Cô ngửi thấy mùi rác rưởi và dầu mỡ trên cơ thể nó, mùi phân, mùi thịt thối. Nó đánh hơi và cô cảm thấy những cái râu của nó cù mũi cô buồn không chịu nổi khi những cái răng nhỏ xíu thò ra khỏi miệng và bắt đầu gặm miếng băng dính.
Nó gặm quanh miệng cô tới năm phút. Có lúc, một con chuột khác xông tới, cắn vào mắt cá chân của cô. Cô nhắm mắt và cố quên cơn đau. Schwarzie đuổi nó đi rồi đứng trong bóng tối nghiên cứu cô.
Vorwärts, Schwarzie! Nào!
Nó từ từ quay lại chỗ cô. Lệ ròng ròng trên má, Monelle miễn cưỡng hạ thấp miệng mình xuống cho nó.
Gặm, gặm…
Nào!
Cô cảm thấy hơi thở nóng bức, ghê tởm của nó trong miệng mình khi nó cắn xuyên qua lớp băng dính và bắt đầu rứt ra những miếng nhựa lớn lấp loáng màu bạc. Nó kéo những mẫu nhựa từ miệng ra, tham lam kẹp chúng giữa hai chân trước.
Không hiểu đã đủ lớn chưa? Cô tự hỏi.
Phải thế thôi. Cô không thể chịu nổi nữa.
Cô chậm rãi nhấc đầu lên, từng mm một. Schwarzie nháy mắt và nghiêng về phía trước, vẻ tò mò.
Monelle há rộng miệng và nghe thấy âm thanh tuyệt vời khi miếng băng dính rách toang. Cô hít không khí thật sâu vào phổi. Cô lại thở được rồi!
Và cô đã có thể kêu cứu.
“Bitte, helfen Sie mir![83]”
Schwarzie lùi lại, giật mình vì tiếng hú dựng tóc gáy của cô, đánh rơi cả miếng băng dính bạc quý báu của nó. Nhưng nó không chạy xa. Nó dừng và quay lại, đứng lên hai chân sau béo mập.
Lờ đi cái cơ thể gù đen ngòm của nó, cô đá cái cột mà cô đang bị trói vào. Bụi và bùn đất rơi xuống như một màn tuyết nâu nhưng cây cột gỗ không động đậy. Cô la hét cho tới khi họng bỏng rát.
“Bitte![84]”
Dòng xe cộ nhớp nháp nuốt chửng âm thanh đó.
Bất động một lúc. Sau đó Schwarzie bắt đầu đi lại phía cô. Lần này nó không đi một mình. Một đàn chuột gian xảo đi theo nó. Run rẩy, căng thẳng. Nhưng cương quyết tiến lên khi ngửi thấy mùi máu hấp dẫn của cô.
Xương và gỗ, gỗ và xương.
“Mel, anh có gì đằng kia thế?” Rhyme hất đầu về phía cái máy tính gắn với máy GC-MS. Cooper đang thử lại chỗ bụi họ tìm thấy trong mẫu gỗ.
“Vẫn rất giàu nitrogen. Vượt ngưỡng.”
Ba lần thử riêng biệt, kết quả như nhau. Kiểm tra chẩn đoán cho thấy thiết bị làm việc tốt. Cooper suy tư rồi nói: “Nhiều nitrogen như vậy thì có thể là nơi sản xuất súng hoặc đạn dược.”
“Thế thì phải là Connecticut, không phải Manhattan.” Rhyme nhìn đồng hồ. 6:30. Ngày hôm nay thời gian trôi thật nhanh. Ba năm rưỡi qua nó trôi mới chậm làm sao. Anh cảm thấy như anh đã thức nhiều ngày liền.
Viên thám tử trẻ tuổi miệt mài trên tấm bản đồ Manhattan, đẩy miếng xương đốt sống nhợt nhạt vừa rơi xuống nền nhà lúc nãy sang một bên.
Cái đĩa đó là do một chuyên gia cột sống của Rhyme, Peter Taylor, để lại. Trong một lần gặp trước với anh ta. Người bác sĩ lành nghề đã khám cho anh, sau đó ngồi vào chiếc ghế mây kêu sột soạt và lấy thứ gì đó trong túi ra.
“Thời gian để diễn và nói”, người bác sĩ nói.
Rhyme liếc nhìn bàn tay mở rộng của Taylor.
“Đây là đốt sống thứ tư. Giống như đốt sống ở cổ anh. Cái đốt sống bị vỡ. Anh có thấy mẩu đuôi bé ở đây không?” Tay bác sĩ xoay khúc xương lại một lúc rồi hỏi. “Anh nghĩ gì khi anh nhìn thấy nó?”
Rhyme kính trọng Taylor – người không đối xử với anh như một đứa trẻ hay thằng dở hơi hay sự bất tiện lớn – nhưng ngày hôm đó anh không có tâm trạng chơi trò gây cảm hứng. Anh không trả lời.
Taylor vẫn nói tiếp: “Vài bệnh nhân của tôi nghĩ nó giống như con cá đuối. Một số khác cho rằng đó là tàu vũ trụ. Hoặc một cái máy bay. Hay xe tải. Bất cứ lúc nào tôi hỏi câu này, người ta thường so sánh nó với cái gì đó to lớn. Không ai nói: ‘Ồ, một mẩu calcium và magnesium.’ Thấy không, họ không thích ý tưởng là một thứ gì đó rất tầm thường như thế lại biến cuộc sống của họ thành địa ngục.”
Rhyme nhìn lại ông ta với vẻ nghi ngờ nhưng ông bác sĩ tóc bạc, điềm tĩnh này là một tay cứng rắn với các bệnh nhân SCI nên ông ta lịch sự nói: “Đừng làm tôi cụt hứng chứ, Lincoln.”
Taylor đưa cái đĩa lại gần mặt Rhyme. “Anh nghĩ rằng không công bằng khi một thứ nhỏ thế này có thể đem đến cho anh nhiều đau khổ đến vậy. Nhưng quên nó đi. Quên nó đi. Tôi muốn anh nhớ những điều trước khi xảy ra tai nạn. Những điều tốt và điều xấu trong cuộc đời anh. Hạnh phúc, khổ đau… Anh có thể cảm thấy những điều này lần nữa.” Khuôn mặt ông bác sĩ chuyển thành bất động. “Nhưng thành thực mà nói, tất cả những gì tôi đang nhìn thấy lúc này là một kẻ đang đầu hàng.”
Taylor để khúc xương lại trên cái bàn đầu giường. Có vẻ như tình cờ. Nhưng sau đó Rhyme nhận thấy trong hành động này có sự tính toán. Mấy tháng qua, khi Rhyme đang cố quyết định có nên tự tử hay không, anh thường nhìn cái đĩa nhỏ đó. Nó đã trở thành biểu tượng cho luận điểm của Taylor – luận điểm ủng hộ cuộc sống. Nhưng cuối cùng phía này đã thua; những lời nói của ông bác sĩ, có đúng đến đâu chăng nữa cũng không thể vượt qua được gánh nặng của những cơn đau, đau đầu và kiệt sức mà Lincoln Rhyme phải chịu đựng ngày này qua ngày khác.
Lúc này anh tránh nhìn chiếc đĩa – quay sang Amelia Sachs – và nói: “Tôi muốn cô nghĩ lại về hiện trường một lần nữa.”
“Tôi đã nói với anh mọi thứ tôi nhìn thấy.”
“Không phải là nhìn thấy. Tôi muốn biết tất cả những gì cô cảm thấy.”
Rhyme nhớ lại hàng nghìn lần anh khám nghiệm hiện trường. Đôi khi phép màu cũng xảy ra. Anh có thể nhìn ngó xung quanh và bằng cách nào đó các ý tưởng về đối tượng sẽ đến với anh. Anh không thể giải thích được nó như thế nào. Những nhà hành vi học nói về việc lập hồ sơ như thể chính họ là người sáng chế ra nó. Nhưng các nhà hình sự học đã lập hồ sơ từ hàng trăm năm nay. Đan lưới, đi ở chỗ hắn đã đi, tìm những thứ hắn để lại, nghĩ ra hắn sẽ đem gì theo – và ta sẽ rời khỏi hiện trường với một hồ sơ rõ ràng như một bức chân dung.
“Nói tôi biết”, anh hỏi. “Cô cảm thấy gì?”
“Khó chịu. Căng thẳng. Nóng bức.” Cô nhún vai. “Tôi không biết, tôi thực sự không biết. Xin lỗi.”
Nếu có thể di chuyển, Rhyme đã nhảy ra khỏi giường, nắm lấy vai cô mà lắc. Hét lên: Nhưng cô biết tôi đang nói gì mà! Tôi biết là cô biết. Tại sao cô không làm việc với tôi?… Tại sao cô lờ tôi đi?
Nhưng anh hiểu ra một điều gì đó… Hiểu rằng cô đã ở đó, trong cái tầng hầm ngột ngạt. Cúi người xuống cơ thể bị phá nát của T.J. Ngửi thứ mùi ghê tởm. Anh nhìn thấy điều đó trong ngón tay cái bị cậy đến bật máu của cô, anh nhìn thấy điều đó trong cách cô giữ một khoảng cách lịch sự giữa họ. Cô ghê tởm việc có mặt trong cái tầng hầm kinh khủng đó và cô căm thù anh vì anh nhắc nhở cô rằng, một phần của cô vẫn còn ở đó.
“Cô đã đi ngang qua phòng”, anh nói.
“Tôi thực sự không nghĩ rằng tôi có thể giúp gì thêm.”
“Chơi thôi mà”, anh nói, cố dẹp cơn giận. Anh cười. “Nói cho tôi biết cô nghĩ gì?”
Khuôn mặt cô bất động và cô nói: “Chỉ là… những ý nghĩ. Những ấn tượng thì ai cũng có.”
“Nhưng cô đã ở đó. Mọi người thì không. Nói cho chúng tôi nghe đi.”
“Kiểu như… rất đáng sợ.” Cô nói và cảm thấy hối tiếc vì những từ ngữ vụng về.
Nghiệp dư.
“Tôi cảm thấy…”
“Ai đó đang nhìn cô?” Anh hỏi.
Điều đó làm cô ngạc nhiên. “Đúng. Chính xác là thế.”
Rhyme cũng đã từng cảm thấy như vậy. Nhiều lần. Anh cảm thấy điều đó ba năm rưỡi trước, khi cúi mình xuống cơ thể đang phân hủy của người cảnh sát trẻ tuổi, nhặt một sợi vải trên bộ cảnh phục. Anh chắc chắn có ai đó ở gần. Nhưng chẳng có ai – chỉ là một cái rầm gỗ sồi lớn chọn đúng khoảnh khắc đó để gầm lên, tăng tốc và rơi trúng đốt sống cổ thứ tư của Lincoln Rhyme với sức nặng của cả quả đất.
“Cô còn nghĩ gì nữa, Amelia?”
Cô không chống cự nữa. Môi cô thư giãn, mắt cô trôi theo bức tranh Nighthaws – những người ăn tối, cô đơn hay đơn độc một cách mãn nguyện. Cô nói: “Được rồi, tôi nhớ là tôi nói với chính mình: ‘Trời ạ, chỗ này cổ thật.’ Nó giống như những bức tranh mà ta nhìn thấy ở đó các nhà máy trong giai đoạn chuyển giao thế kỷ. Và tôi…”
“Đợi đã”. Rhyme quát lên. “Hãy nghĩ về điều này xem. Cổ xưa…”
Ánh mắt anh lướt qua tấm bản đồ Randel Survey. Trước đó anh đã nhận xét về sự quan tâm của nghi phạm về New York lịch sử. Tòa nhà nơi T.J. chết cũng là một tòa nhà cổ. Và đường hầm nơi họ tìm thấy xác chết đầu tiên cũng vậy. Tàu hỏa Trung tâm New York đã từng chạy trên mặt đất. Có quá nhiều tai nạn gây thương vong đến mức Đại lộ Mười một được đặt tên là Đại lộ Death và tuyến đường sắt cuối cùng bị bắt buộc phải đi ngầm.
“Và Phố Pearl”, anh lẩm bẩm một mình, “là con đường vòng chính của New York trước kia. Vì sao hắn lại quan tâm đến những thứ đồ cổ?”. Anh hỏi Sellitto: “Terry Dobyns còn làm việc cho chúng ta không?”
“Ồ, anh chàng bác sĩ tâm thần? Còn. Chúng tôi cùng làm một vụ năm ngoái. Nhân tiện, anh ta có hỏi anh. Nói là anh ta có gọi điện một, hai lần, và anh không bao giờ…”
“Được rồi, được rồi, được rồi”, Rhyme nói. “Gọi anh ta đến đây. Tôi muốn anh ta suy nghĩ về khuôn mẫu của 823. Còn bây giờ, Amelia, cô còn nghĩ gì nữa?”
Cô nhún vai nhưng tỏ ra rất lãnh đạm. “Chẳng có gì.”
“Không có?”
Thế thì cô có giữ lại cảm giác của mình không? Anh băn khoăn, nhớ lại điều gì đó mà Blaine có nhắc tới một lần khi nhìn thấy một người phụ nữ đẹp bước đi trên Đại lộ Năm: Hàng càng đẹp càng khó mở.
“Tôi không biết…Được rồi, tôi nghĩ tôi có nhớ một việc tôi đã nghĩ đến. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Nó không giống như một quan sát, thế nào nhỉ, chuyên nghiệp.”
Chuyên nghiệp…
Thật tệ hại khi tự mình đặt tiêu chuẩn cho mình, phải không Amelia?
“Hãy cứ nghe xem thế nào”, anh nói với cô ta.
“Khi anh nói với tôi hãy giả vờ tôi là hắn? Và tôi tìm thấy chỗ mà hắn đứng để nhìn cô ta?”
“Tiếp tục đi.”
“Tôi nghĩ…” Trong một khoảnh khắc có vẻ như lệ sắp tràn lên đôi mắt đẹp của cô, anh nhận thấy chúng có sắc xanh óng ánh. Ngay lập tức cô kiểm soát được mình. “Tôi băn khoăn không biết cô ta có nuôi chó không. Cô Colfax ấy mà.”
“Chó? Tại sao cô lại băn khoăn về điều đó?”
Cô ngừng lại một lát rồi nói: “Bạn tôi… vài năm trước. Chúng tôi có nói chuyện mua một con chó khi, đúng hơn là nếu, chúng tôi dọn đến ở với nhau. Tôi luôn muốn có một con. Một con chó giống collie. Thật buồn cười. Đó là giống chó mà bạn tôi cũng rất thích. Thậm chí trước cả khi chúng tôi biết nhau.”
“Một con chó.” Tim Rhyme nổ bục như một con ruồi lao đầu vào cửa kính mùa hè. “Và?”
“Tôi nghĩ rằng người phụ nữ đó…”
“T.J.” Rhyme nói.
“T.J.” Sachs tiếp tục. “Tôi chỉ nghĩ thật buồn nếu cô ta có con vật cưng nào mà không thể về nhà và chơi đùa với chúng nữa. Tôi không hề nghĩ về chồng hay bạn trai cô ta. Tôi chỉ nghĩ về bọn thú cưng.”
“Nhưng vì sao lại là ý nghĩ đó? Chó, những con vật cưng? Tại sao?”
“Tôi không biết tại sao.”
Im lặng.
Cuối cùng cô nói: “Tôi hình dung tôi nhìn cô ta bị trói ở đó…Và tôi nghĩ cách hắn đứng tránh sang một bên để nhìn cô ta. Đứng giữa những cái thùng dầu. Giống như hắn đứng nhìn một con vật ở một bãi chăn được rào kín.”
Rhyme nhìn những sơ đồ sóng hình sin trên màn hình máy tính GC-MS.
Thú vật…
Nitrogen…
“Phân!” Rhyme kêu lên.
Mọi người quay lại nhìn anh.
“Đấy là phân.” Nhìn chằm chằm vào màn hình.
“Đúng, tất nhiên rồi!” Cooper vò đầu nói. “Toàn nitrogen. Đấy là phân bón. Và là loại phân bón cũ.”
Thình lình Rhyme có cảm giác về một trong những khoảnh khắc mà trước đây anh đã gặp. Một ý nghĩ vừa lao vào đầu anh. Hình ảnh của những con cừu.
Sellitto hỏi: “Anh ổn chứ?”
Một con cừu, lang thang trong phố.
Giống như hắn đứng nhìn một con vật…
“Thom”, Sellitto nói, “anh ấy ổn chứ?”
… ở một bãi chăn được rào kín.
Rhyme có thể hình dung ra con vật vô tư. Một quả chuông treo trên cổ, hàng chục con khác theo sau.
“Lincoln”, Thom nói một cách gấp gáp, “anh đang đổ mồ hôi đấy, anh ổn chứ?”
“Suỵt…”, nhà hình sự học ra lệnh.
Anh cảm thấy cơn ngứa lan xuống mặt. Cảm hứng và trụy tim; triệu chứng giống nhau một cách kỳ lạ. Nghĩ, nghĩ đi…
Xương, cột trụ gỗ và phân bón…
“Rồi!” Anh thì thầm. Con cừu Judas[85], dẫn đàn của mình đến chỗ chết.
“Trại chăn nuôi”, Rhyme nói với cả phòng. “Cô ta bị nhốt ở trong một trại chăn nuôi.”
 
Chú thích
[80] Edward Henry Weston (1886 – 1958): Nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Mỹ.
[81] Dieser Schmerz: Đau quá (tiếng Đức).
[82] Vorwärts: Lên đi (tiếng Đức).
[83] Bitte, helfen Sie mir: Cứu tôi với (tiếng Đức).
[84] Bitte: Giúp tôi (tiếng Đức).
[85] Judas: Tên một nhân vật trong Kinh Thánh, kẻ phản bội Chúa Jesus. Ở đây ám chỉ kẻ phản bội.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.