Kẻ Tầm Xương

Chương 17 – Part 02



Nhưng cô vẫn tiếp tục: “Anh không còn làm công việc khám nghiệm hiện trường được nữa, tôi lấy làm tiếc về điều đó. Nhưng anh đang làm ảnh hưởng tới cuộc điều tra chỉ vì muốn ve vuốt lòng tự ái của mình và tôi nói như thế thật vớ vẩn.” Cô vơ lấy chiếc mũ tuần tra và lao ra khỏi phòng.
Anh nghĩ sẽ có tiếng sập cửa rất mạnh, có thể cả tiếng kính vỡ. Nhưng chỉ có một tiếng va nhẹ, rồi im lặng.
Khi Jerry Banks nhặt cuốn sổ của mình lên và lần giở nó với vẻ tập trung thái quá, Sellitto nói: “Lincoln, tôi xin lỗi. Tôi…”
“Không sao”, Rhyme nói, ngáp thật dài, hy vọng làm cho trái tim nhức nhối của anh bình ổn. “Hoàn toàn không sao.”
Mấy viên cảnh sát đứng cạnh cái bàn gần như trống trơn trong sự im lặng đáng sợ, sau đó Cooper nói: “Gói ghém đi thôi.” Anh ta nhấc hộp kính hiển vi lên bàn, bắt đầu tháo ống ngắm với sự chăm chút của một nhạc công đang tháo cây kèn saxophone của mình.
“Được rồi, Thom”, Rhyme nói. “Mặt trời lặn rồi đấy. Cậu có biết thế nghĩa là gì không? Các quầy bar mở cửa.”
Phòng chiến trận của họ thật ấn tượng. Nó vượt xa phòng ngủ của Rhyme.
Ba tá đặc vụ, máy tính và bảng điện tử như trong phim của Tom Clancy chiếm nửa tầng trong tòa nhà liên bang. Các đặc vụ trông như luật sư hay nhân viên ngân hàng đầu tư. Sơ mi trắng, cà vạt. Bảnh bao là từ đầu tiên xuất hiện trong đầu. Amelia Sachs đứng giữa phòng, nổi bật trong bộ đồng phục màu xanh hải quân, thấm đầy máu chuột, bụi bẩn và tế bào của đám súc vật đã chết hàng trăm năm.
Cô đã hết run rẩy vì cuộc cãi vã với Rhyme và mặc dù đầu óc cô quay cuồng với hàng nghìn điều cô muốn nói, ước gì cô đã nói, cô bắt mình tập trung vào những gì đang diễn ra xung quanh.
Một đặc vụ cao mặc bộ vét xám không chê vào đâu được đang hội ý với Dellray – hai người đàn ông cao lớn, cúi đầu nghiêm nghị. Cô tin rằng anh ta là Thomas Perkins, đặc vụ phụ trách văn phòng Manhattan, nhưng cô không chắc chắn lắm; quan hệ với FBI của một nhân viên Đội Tuần tra cũng không nhiều hơn của nhân viên tạp vụ hay là nhân viên bán bảo hiểm. Anh ta trông có vẻ thiếu hài hước, có năng lực và luôn luôn nhìn lên tấm bản đồ Manhattan to tướng treo trên tường. Perkins gật đầu mấy lần khi Dellray báo cáo với anh ta, sau đó anh ta bước đến chỗ cái bàn gỗ ép, trên đó đầy những cặp tài liệu, nhìn xuống nhóm đặc vụ và bắt đầu nói.
“Mọi người làm ơn chú ý… Tôi vừa nói chuyện với giám đốc và chưởng lý tại Washington. Tất cả chúng ta đều biết về đối tượng tại sân bay Kennedy. Đây là một hồ sơ không bình thường. Bắt cóc, không có yếu tố tình dục, thường thì đó không phải động cơ giết người hàng loạt. Trên thực tế, đây là đối tượng đầu tiên của loại này mà chúng ta bắt gặp tại Quận Nam. Tính đến khả năng có quan hệ với những sự kiện tại Liên Hiệp Quốc trong tuần này, chúng ta đang phối hợp với trụ sở trung tâm, Quantico và văn phòng Tổng thư ký. Chúng ta được quyền hoàn toàn chủ động trong vụ này. Mức ưu tiên cao nhất.”
SAC nhìn Dellray đang nói: “Chúng ta tiếp quản vụ này từ NYPD nhưng chúng ta sẽ dùng họ làm lực lượng hỗ trợ và nguồn nhân lực. Chúng ta có một sĩ quan hiện trường vụ án tại đây để báo cáo về hiện trường.” Ở đây, giọng Dellray khác hẳn. Không còn là ngày Nhặng nữa.
“Cô đã đăng ký vật chứng chưa?” Perkins hỏi Sachs.
Sachs thừa nhận cô chưa làm. “Chúng tôi bận cứu nạn nhân.”
Điều này làm SAC khó chịu. Nếu không khi xử án, những vụ ngon ăn thường bị đình trệ vì không đăng ký vật chứng. Đó là điều đầu tiên mà luật sư của tội phạm tóm lấy.
“Nhớ làm trước khi ra về.”
“Vâng, thưa ngài.”
Vẻ mặt Rhyme thật tệ khi anh ta đoán mình ton hót với Eckert và buộc họ phải đóng cửa. Thật tệ…
Sachs của tôi nghĩ ra, Sachs của tôi bảo toàn hiện trường…
Cô lại cậy móng tay. Thôi đi, cô nhủ thầm như cô vẫn thường làm, và lại tiếp tục chọc móng tay vào thịt. Cảm giác đau đớn thật tốt. Đó là điều mà bác sĩ trị liệu không bao giờ hiểu.
SAC nói: “Đặc vụ Dellray? Anh có thể báo cáo với mọi người cách chúng ta sẽ làm không?”
Dellray nhìn lướt qua SAC và các đặc vụ khác rồi tiếp tục: “Tại thời điểm này chúng ta có đặc vụ hiện trường đánh tất cả các nhóm khủng bố chính trong thành phố và theo đuổi bất kỳ manh mối nào mà chúng ta có để dẫn chúng ta đến nơi ở của đối tượng. Tất cả CI, tất cả đặc vụ ngầm. Điều đó có nghĩa ta sẽ làm tổn thương một số chiến dịch hiện tại, nhưng chúng tôi quyết định nó xứng đáng với rủi ro.”
“Việc của chúng ta ở đây là phản ứng nhanh. Các anh sẽ được chia thành từng nhóm sáu đặc vụ và sẵn sàng truy đuổi với bất cứ manh mối nào. Các anh phải sẵn sàng cứu con tin và hỗ trợ tấn công chiến lũy.”
“Thưa ngài”, Sachs nói.
Perkins ngẩng lên, nhăn mặt. Rõ ràng không ai có quyền làm gián đoạn buổi báo cáo trước phần hỏi đáp được phép. “Có việc gì thế, sĩ quan?”
“À, tôi chỉ có chút băn khoăn. Còn nạn nhân thì sao, thưa ngài?”
“Ai? Cô gái người Đức? Cô nghĩ chúng ta phải thẩm vấn cô ta lần nữa à?”
“Không, thưa ngài. Ý tôi là nạn nhân tiếp theo.”
Perkins trả lời: “Tất nhiên chúng ta luôn nhận thức được là có thể sẽ có những mục tiêu khác.”
Sachs nói tiếp: “Hắn đã có rồi.”
“Thật không?” SAC liếc nhìn Dellray đang nhún vai. Perkins hỏi Sachs: “Làm sao cô biết?”
“À, chính xác thì tôi không biết, thưa ngài. Nhưng hắn ta đã để lại manh mối ở hiện trường cuối cùng và hắn sẽ không làm thế nếu hắn không có nạn nhân khác. Hoặc đang chuẩn bị bắt một nạn nhân.”
“Đã ghi nhận, thưa sĩ quan”, SAC tiếp tục. “Chúng ta sẽ huy động mức nhanh nhất có thể để bảo đảm không có chuyện gì xảy ra với họ.”
Dellray nói với cô: “Chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất ta nên tập trung chủ yếu vào con quái vật.”
“Thám tử Sachs…”, Perkins bắt đầu.
“Tôi không phải thám tử, thưa ngài. Tôi là sĩ quan Đội Tuần tra.”
“Được rồi”, SAC tiếp tục, nhìn chồng tài liệu. “Nếu có thể, hãy cho chúng tôi một số điểm chính, sẽ rất hữu ích.”
Ba mươi đặc vụ nhìn cô. Có hai phụ nữ.
“Cứ nói cho chúng tôi nghe những gì cô nhìn thấy”, Dellray nói, cắn một điếu thuốc chưa đốt giữa hai hàm răng tuyệt đẹp.
Cô đưa cho họ tóm tắt về những lần tìm kiếm của cô tại hiện trường cùng kết luận của Rhyme và Terry Dobyns. Hầu hết các đặc vụ cảm thấy lo lắng về phương thức MO[102] kỳ lạ của đối tượng.
“Như một trò chơi chết tiệt”, một đặc vụ lẩm bẩm.
Một người hỏi liệu trong những manh mối đó họ có thể giải mã được thông điệp chính trị nào không?
“Thưa ngài, thực sự chúng tôi không cho rằng hắn là kẻ khủng bố”, Sachs khăng khăng.
Perkins chuyển sự chú ý đặc biệt của mình sang Sachs. “Cho phép tôi hỏi, sĩ quan, cô công nhận là hắn thông minh, đúng không?”
“Rất thông minh.”
“Hắn có thể bịp hai lần không?”
“Ý của anh là gì?”
“Cô… Tôi phải nói rằng NYPD nghĩ hắn là một trường hợp tâm thần. Ý tôi là nhân cách tội phạm. Nhưng có phải hắn đủ thông minh để khiến cô nghĩ thế hay không? Trong khi có thể điều gì khác đang diễn ra.”
“Điều gì?”
“Manh mối hắn để lại chẳng hạn. Có thể là nghi binh?”
“Không, thưa ngài. Đó là hướng dẫn”, Sachs nói. “Dẫn chúng tôi đến chỗ nạn nhân.”
“Tôi hiểu”, Thomas Perkins nhanh trí nói. “Nhưng hắn cũng có thể làm thế để đưa chúng ta ra xa mục tiêu của hắn, đúng không nào?”
Cô chưa nghĩ tới điều này. “Tôi cho rằng cũng có thể.”
“Sếp Wilson cũng đang cố lấy người từ nhóm phục vụ an ninh cho Liên Hiệp Quốc để làm vụ bắt cóc này. Đối tượng có thể đang làm mọi người bị phân tán để hắn tự do thực thi sứ mạng thực sự của hắn.”
Sachs nhớ lại là trước đây cô cũng có những ý tưởng tương tự khi nhìn thấy những nhân viên tìm kiếm trên Phố Pearl. “Và mục tiêu đó có thể là Liên Hiệp Quốc?”
“Chúng tôi nghĩ vậy”, Dellray nói. “Bọn tội phạm đứng đằng sau vụ đánh bom UNESCO ở London có thể muốn thử lại lần nữa.”
Có nghĩa là Rhyme đang đi theo hướng hoàn toàn sai. Ý nghĩ này làm gánh nặng của cô nhẹ đi đôi chút.
“Sĩ quan, giờ cô có thể kiểm tra từng chứng cứ cho chúng tôi chứ?”
Dellray đưa cho cô bảng danh sách mọi thứ cô tìm được và cô đọc từng hạng mục. Khi nói chuyện, cô nhận thấy những hoạt động sôi sục quanh mình – vài đặc vụ nhận điện thoại, một số đứng thì thầm với người khác, số khác ghi chép. Nhưng khi nhìn vào bảng danh sách, cô nói thêm: “Tôi có lấy được một dấu vân tay của hắn tại hiện trường cuối cùng”, cô nhận thấy căn phòng tuyệt đối im lặng. Cô nhìn lên. Mọi khuôn mặt trong văn phòng đều nhìn chăm chăm vào cô như một cơn sốc vừa đi qua – nếu như đặc vụ liên bang còn có khả năng bị sốc.
Cô bất lực nhìn Dellray, anh ta đang ngẩng đầu lên. “Có phải cô bảo cô vớ được một dấu tay?”
“Vâng, đúng như thế. Hắn bị rơi găng tay khi vật lộn với nạn nhân cuối cùng, khi nhặt lên tay hắn quét xuống sàn.”
“Ở đâu?” Dellray hỏi nhanh.
“Lạy Chúa”, một đặc vụ kêu lên. “Sao cô chẳng nói gì?”
“À, tôi…”
“Tìm đi. Tìm nó ngay đi!” Một người khác kêu lên.
Tiếng xì xầm lan khắp phòng.
Tay run run, Sachs lục lọi trong cái túi đựng vật chứng và đưa cho Dellray bức hình Polaroid chụp dấu tay. Anh ta giơ nó lên, nhìn thật cẩn thận. Đưa cho một người mà cô đoán là chuyên gia về dấu tay xem. “Tốt”, đặc vụ này nói. “Chắc chắn là loại A.”
Cô biết dấu tay được phân thành các loại A, B và C, và phần lớn các cơ quan thực thi pháp luật không chấp nhận loại thấp hơn. Nhưng niềm kêu hãnh của cô về kỹ năng tìm kiếm vật chứng của mình đã bị đập tan bởi sự chê bai mang tính tập thể của họ khi cô đã không nhắc tới điều đó sớm hơn.
Và mọi thứ bắt đầu nhất loạt diễn ra. Dellray chuyển nó cho một đặc vụ, người này vội chạy đến chỗ một cái máy tính phức tạp ở góc văn phòng và đặt nó lên một bề mặt cong lớn của một cỗ máy có tên gọi Optic-Scan. Một đặc vụ khác bật máy tính và gõ lệnh trong khi Dellray vội vàng nhấc điện thoại. Anh ta sốt ruột giậm chân, và cúi đầu như thể có ai đó ở đầu dây bên kia đang trả lời điện thoại.
“Ginnie, Dellray đây. Vụ này rất xương đấy, nhưng tôi cần anh cắt tất cả các yêu cầu AFIS[103] từ khu Đông Bắc để làm cái tôi gửi cho anh đây… Tôi có Perkins ở đây. Anh ấy đồng ý rồi, nếu thế chưa đủ tôi sẽ gọi cho người ở Washington… Việc có liên quan đến Liên Hiệp Quốc.”
Sachs biết AFIS được các sở cảnh sát toàn quốc sử dụng. Chính là hệ thống Dellray lúc này đang dừng lại.
Đặc vụ ngồi máy tính nói: “Quét rồi. Chúng tôi đang gửi đi.”
“Sẽ mất bao lâu?”
“Mười, mười lăm phút.”
Dellray ép các ngón tay bẩn thỉu vào nhau. “Làm ơn, làm ơn, làm ơn đi.”
Xung quanh cô là một cơn lốc các hoạt động. Sachs nghe những giọng nói về vũ khí, trực thăng, xe hơi, các nhà đàm phán chống khủng bố. Gọi điện thoại, gõ bàn phím, trải bản đồ, kiểm tra súng ngắn.
Perkins đang nghe điện, nói chuyện với những người giải cứu con tin hoặc Thị trưởng, hoặc Giám đốc. Có thể là tổng thống. Ai biết được? Sachs nói với Dellray: “Tôi không biết là dấu tay lại quan trọng đến thế.”
“Luôn là chuyện lớn. Ít nhất là khi có AFIS. Trước kia ta chỉ lấy dấu tay để diễn. Để nạn nhân và báo giới biết là chúng ta có làm gì đó.”
“Anh đùa a?”
“Không, không đùa tẹo nào. Ví dụ Thành phố New York. Cô đi tìm khan – tức là khi cô chẳng có đối tượng nào – cô đi tìm khan theo kiểu thủ công, một kỹ thuật viên sẽ mất năm mươi năm để xem hết thẻ dấu tay. Không đùa đâu. Còn tìm tự động? Mười lăm phút. Thường thì cô sẽ nhận dạng được đối tượng với xác suất khoảng một, hai phần trăm. Giờ ta đạt được gần hai mươi, hai mươi hai phần trăm. Ồ, dấu tay quý như vàng đấy. Cô nói cho Rhyme biết chưa?”
“Anh ta biết, chắc chắn thế.”
“Thế mà anh ta không khua khoắng tất cả mọi người à? Ôi trời ơi, anh chàng này đang trượt dốc.”
“Này, sĩ quan”, SAC Perkins gọi, giữ tay trên điện thoại. “Tôi muốn cô điền luôn thẻ đăng ký vật chứng. Tôi muốn chuyển vật chứng cho PERT.”
PERT. Sachs nhớ Lincoln đã từng là người được Cục thuê để làm việc này.
“Tôi sẽ làm. Chắc chắn rồi.”
“Mallory, Kemple, đưa chỗ vật chứng này đến văn phòng và đưa cho vị khách của chúng ta vài tờ biểu đăng ký vật chứng. Cô có bút không, sĩ quan?”
“Có.”
Cô đi theo hai sĩ quan sang một văn phòng nhỏ, căng thẳng bấm cây bút bi trong khi họ đi tìm kiếm và quay lại với một xấp biểu đăng ký vật chứng do Cục ban hành. Cô ngồi xuống, mở gói.
Giọng nói vang lên đằng sau cô là của Dellray phiền muộn. Một nhân cách đang cố gắng bật ra. Trên đường đến đây, ai đó đã gọi anh ta là Kỳ nhông và cô đang dần hiểu ra lý do.
“Chúng tôi gọi Perkins là Dict Lớn. Không phải là ‘dick[104]’ như cô hiểu đâu. ‘Dict’ như trong từ điển ấy. Nhưng đừng lo cho anh ta. Anh ta thông minh, hơn thế nữa dây của anh ta có thể giật đến tận Washington, là chỗ cần giật trong những vụ như thế này.” Dellray đưa điếu thuốc là lên mũi ngửi, tựa như đó là điếu xì gà hảo hạng. “Cô biết không sĩ quan, cô gian như cáo khi làm điều cô đang làm đấy.”
“Là gì?”
“Ra khỏi Ban Tội phạm Nguy hiểm. Cô không muốn nó đâu.” Khuôn mặt đen đúa gầy gò, bóng nhoáng, chỉ có chút nếp nhăn ở mắt, lần đầu tiên trông có vẻ chân thành kể từ khi cô gặp anh ta. “Việc tốt nhất cô từng làm, là chuyển sang Phòng Quan hệ Công chúng. Ở đó cô sẽ có ích và công việc không biến cô thành bụi. Chắc chắn đấy là điều sẽ xảy ra. Công việc biến cô thành bụi.”
Một trong những nạn nhân cuối cùng chịu sự áp bức điên loạn của James Schneider, chàng trai trẻ tuổi tên là Ortega, đến Manhattan từ Thành phố Mexico, nơi bạo loạn chính trị (cuộc nổi dậy của một kẻ theo thuyết dân túy bắt đầu trước đó một năm) đã làm cho công việc làm ăn trở nên khó khăn. Tuy nhiên, doanh nhân tham vọng này đã biến mất khi tới thành phố chưa được một tuần. Người ta thấy anh ta lần cuối cùng là trước cửa một quán rượu ở khu West Side, các cơ quan chức năng ngay lập tức nghi ngờ rằng anh ta lại là một nạn nhân khác của Schneider. Đáng buồn điều đó lại là sự thực.
Kẻ Tầm Xương lượn xe trên phố khoảng mười lăm phút quanh Đại học New York, Quảng trường Washington. Rất nhiều người lang thang ngoài phố, nhưng chủ yếu là trẻ con. Sinh viên theo các khóa học hè. Trẻ trượt ván. Không khí vui vẻ, lạ thường. Ca sĩ, nghệ nhân tung hứng, nhào lộn. Những thứ đó làm hắn nhớ đến “bảo tàng” dưới Phố Bowery, rất phổ biến trong những năm 1800. Đó tất nhiên không phải là những bảo tàng mà chỉ là những con đường có mái vòm, ở đó tràn ngập những buổi trình diễn hài kịch tục tĩu, triển lãm quái vật, những tên liều mạng và những người bán dạo bán đủ mọi thứ từ bưu ảnh của Pháp cho tới những mẩu gỗ trên Thánh giá thiêng liêng.
Hắn ta đi chậm lại hai lần nhưng không có ai cần đi taxi, hoặc đủ tiền để đi taxi. Hắn quay về phía nam.
Schneider buộc đá vào chân Señor Ortega[105] và lăn anh ta xuống dưới cầu cảng ra sông Hudson để nước và cá sẽ biến cơ thể anh ta thành xương. Thi thể được tìm thấy hai tuần sau khi anh ta biến mất và người ta chẳng có cách nào biết được nạn nhân bất hạnh còn sống hoặc hoàn toàn tỉnh táo khi bị vứt xuống nước hay không. Tuy nhiên, người ta vẫn nghi ngờ như vậy. Vì Schneider đã tàn bạo cắt ngắn dây trói để cho mặt của Señor Ortega chỉ cách mặt nước vài inch – tay anh ta chắc chắn đã điên loạn khua khoắng khi anh ta nhìn tầng không khí cứu tinh bên trên.
Kẻ Tầm Xương nhìn thấy một chàng thanh niên bệnh hoạn đứng trên vỉa hè. AIDS, hắn nghĩ. Nhưng xương cốt của mày còn mạnh khỏe – và thật hoàn mỹ. Xương cốt của mày sẽ sống mãi… Anh ta không cần đi taxi và khi xe đi ngang qua, Kẻ Tầm Xương thèm thuồng nhìn anh ta qua kính chiếu hậu.
Hắn quay lại đúng lúc để vòng xe tránh một người đàn ông đứng tuổi vừa bước xuống đường, cánh tay gầy gò của ông ta giơ ra gọi xe. Người đàn ông nhảy lui, nhanh hết mức có thể, và chiếc taxi phanh kít, vượt qua ông ta rồi dừng lại.
Người đàn ông mở cửa sau xe nghiêng người vào trong. “Anh phải nhìn xem mình đi đâu chứ.” Ông ta nói câu này như một lời hướng dẫn. Không chút giận dữ.
“Xin lỗi”, Kẻ Tầm Xương nói, vẻ hối lỗi.
Người đàn ông đứng tuổi ngần ngừ một chút, nhìn quanh phố nhưng không thấy chiếc taxi nào khác. Ông ta trèo vào xe.
Cánh cửa đóng sập.
Nghĩ: già và gầy. Da chắc trượt trên xương như lụa.
“Đi đâu đấy?” Hắn nói.
“East Side.”
“Có ngay”, hắn nói trong khi trùm chiếc mặt nạ trượt tuyết lên đầu và đánh tay lái sang phải. Chiếc xe lao về phía tây.
Chú thích
[97] Zodiac: Tên lóng của những tên giết người hàng loạt nổi tiếng ở Mỹ.
[98] Thả xu gọi điện (tiếng lóng): ý nói người nào chỉ điểm.
[99] Pony Express: Nói kháy, một dịch vụ bưu chính xa xưa của Mỹ, dùng ngựa Pony để vận chuyển.
[100] SOP: Quy trình làm việc tiêu chuẩn.
[101] Texas Chainsaw: Cưa máy Texas, một bộ phim kinh dị.
[102] MO (viết tắt của Modus Operandi): Hoạt động.
[103] AFIS: Xem phần phụ lục.
[104] Dick: Dương vật.
[105] Señor Ortega: Ngài Ortega.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.