Các vị thần chỉ chối từ một thứ: quyền năng thay đổi quá khứ.
ARISTOTLE
5:45 AM Chủ nhật đến 7:00 PM thứ Hai
Mùi hương làm anh tỉnh giấc. Như mọi khi.
Và – cũng giống như rất nhiều buổi sáng – anh không vội vàng mở mắt mà giữ nguyên vị trí nửa nằm, nửa ngồi của mình, cố gắng suy đoán xem mùi hương không quen thuộc đó là gì.
Mùi không khí buổi bình minh? Giọt sương trên những con phố bóng như dầu? Mùi vữa ẩm? Anh cố gắng phân biệt mùi hương của Amelia Sachs nhưng thấy rằng mình không thể.
Ý nghĩ của anh bỏ qua cô và tiếp tục. Mùi gì thế nhỉ?
Chất tẩy rửa? Không phải.
Một thứ hóa chất từ phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Cooper?
Không, anh nhận ra được tất cả những thứ mùi đó.
Đó là… à, đúng rồi… mùi bút viết bảng.
Đến lúc này anh đã có thể mở mắt – sau khi liếc nhìn Sachs vẫn đang ngủ để chắc chắn là cô chưa bỏ đi – và thấy mình đang nhìn vào tấm áp phích Monet treo trên tường. Mùi tỏa ra từ đó. Không khí nóng bức, ẩm thấp của buổi sáng tháng tám này đã làm giấy khô đi và mùi xuất phát từ đó.
– Hiểu biết quy trình khám nghiệm hiện trường
– Có thể có tiền án
– Hiểu biết về dấu vân tay
– Súng = Colt .32
– Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường
– “Cổ xưa” hấp dẫn hắn
– Gọi một nạn nhân là “Hanna”
– Biết tiếng Đức cơ bản
– Thích những chỗ dưới lòng đất
Những con số nhợt nhạt trên đồng hồ chỉ 5:45. Ánh mắt anh quay lại chỗ tấm áp phích. Anh không thể nhìn thấy rõ ràng, chỉ thấy những hoa văn xám trên nền trắng tuyệt đối. Nhưng ánh sáng nhợt nhạt của bầu trời buổi sáng cũng đủ để đọc được phần lớn các từ.
– Đa nhân cách
– Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư
– Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?
– Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay nạn nhân
– Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra
Những con chim ưng đã tỉnh giấc. Anh cảm thấy những tiếng đập cánh run rẩy bên ngoài. Ánh mắt Rhyme quay lại với tấm áp phích. Trong văn phòng của anh ở IRD, anh treo khoảng một tá bảng trắng và trên đó anh ghi lại những đặc tính quan trọng nhất của nghi phạm trong những vụ án lớn. Anh nhớ lại: đi lại, ngắm nghía, suy nghĩ về những người mà họ mô tả.
Những phân tử sơn, bùn, phấn hoa, lá cây…
– Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng.
Nghĩ tới tên trộm đá quý gian xảo mà anh và Lon tóm mười năm trước. Tại Central Booking, tên trộm rụt rè nói họ sẽ không bao giờ tìm được những thứ hắn lấy từ những vụ trước đó, nhưng nếu họ xem xét lệnh ân xá, hắn sẽ nói cho họ biết hắn giấu ở đâu. Rhyme trả lời: ” Được rồi, bọn tao có một chút rắc rối khi tìm xem chúng ở đâu.”
“Chắc chắn rồi”, tên trộm nói.
“Xem này”, Rhyme nói. “bọn tao đã biết tới bức tường đá trong phòng đựng than của một ngôi nhà nông thôn kiểu thuộc địa trên sông Connecticut. Cách Long Island Sound khoảng năm dặm về phía bắc. Tao chỉ chưa biết là ngôi nhà này ở bờ phía đông hay bờ phía tây của dòng sông mà thôi”.
Khi câu chuyện lan ra ngoài, câu nói mà mọi người dùng để mô tả nét mặt của tên trộm lúc đó là: mẹ kiếp, chắc chắn là mày phải đến đấy rồi chứ.
Có thể đấy chính là phép thuật, Sachs ạ. Anh nghĩ.
– Ít nhất một trăm năm tuổi, có thể là một biệt thự hay cơ quan
Anh nhìn lướt tấm áp phích một lần nữa rồi nhắm mắt, ngả đầu xuống chiếc gối tuyệt vời của mình. Đúng lúc đó anh cảm thấy choáng váng. Giống như có ai đó tát vào mặt mình. Cơn sốc lan lên đầu anh như lửa cháy. Mắt mở to, nhìn chằm chằm vào tấm áp phích.
– “Cổ xưa” hấp dẫn hắn
“Sachs!” Anh la lên. “Dậy ngay!”
Cô giật mình và ngồi dậy. “Cái gì? Gì thế…?”
Cổ xưa, cổ xưa, cổ xưa…
“Anh sai mất rồi”, anh nói cộc lốc. “Có vấn đề rồi.”
Đầu tiên cô nghĩ đó là vấn đề sức khỏe, vì thế cô nhảy khỏi ghế, vớ lấy túi cứu thương của Thom.
“Không, manh mối cơ, Sachs, manh mối… Anh hiểu sai.” Hơi thở của anh gấp gáp, anh nghiến răng trong lúc suy nghĩ.
Cô mặc quần áo, ngồi thẳng dậy, những ngón tay cô tự động đưa lên gãi đầu. “Gì vậy, Rhyme? Điều gì vậy?”
“Nhà thờ. Có thể nó không phải ở Harlem.” Anh nhắc lại. “Anh sai rồi.”
Giống như với thủ phạm giết gia đình Colin Stanton. Trong ngành hình sự học, ta có thể xác định chính xác hàng trăm manh mối, nhưng manh mối mà ta bỏ qua lại khiến cho người ta mất mạng.
“Mấy giờ rồi?” Cô hỏi.
“Hơn sáu giờ kém mười lăm một chút. Lấy tờ báo đi. Lịch biểu lễ nhà thờ.”
Sachs tìm thấy tờ báo, lướt qua. Sau đó cô ngẩng lên. “Anh nghĩ gì vậy?”
“823 đam mê những thứ cổ xưa. Nếu hắn muốn một nhà thờ cổ của người da đen thì có thể ý hắn không phải là khu phố trên. Philip Payton thành lập công ty bất động sản Mỹ-Phi tại Harlem năm 1900. Còn có hai khu người da đen nữa trong thành phố. Khu trung tâm, chỗ tòa án hiện nay và San Juan Hill. Ở đây chủ yếu là người da trắng… Ôi quỷ thật, anh đang nghĩ gì vậy nhỉ?”
“San Juan Hill ở đâu?”
“Phía bắc Hell’s Kitchen. West side. Nó được đặt tên để tôn vinh tất cả những người lính da đen đã chiến đấu trong cuộc chiến Mỹ – Tây ban nha.”
Cô đọc lướt qua tờ báo.
“Các nhà thờ trong khu trung tâm”, cô nói. “Nếu ở khu Battery Park thì ở đó có viện Seamen. Có một nhà thờ tại đây, họ có làm lễ. Chúa ba ngôi. Thánh Paul.”
“Đó không phải khu của người da đen. Xa hơn nữa về phía bắc và phía đông.”
“Nhà thờ Trưởng lão trong khu Chinatown.”
“Có nhà thờ Tin lành hay Phúc âm nào khồng?”
“Không, không có gì ở khu này. Đây… ôi, quỷ thật.” Ánh mắt cam chịu, cô thở dài. “Ôi, không.”
Rhyme hiểu ra. “Lễ chào mặt trời.”
Cô gật đầu: “Tín lành bánh thánh… Không, Rhyme có một lễ hát thánh ca bắt đầu lúc sáu giờ sáng. Đại lộ năm mươi chin và Mười một.”
“Đó là San Juan Hill! Gọi cho họ đi!”
Cô vơ lấy điện thoại và quay số. Cô đứng cúi đầu, nhíu mày trong lúc lắc đầu. “Trả lời đi, trả lời đi… Quỷ thật. Máy ghi âm. Mục sư chắc đã rời khỏi văn phòng.” Cô nói vào ống nghe. “Đây là NYPD. Chúng tôi có lý do để tin rằng trong nhà thờ của ngài có bom. Hãy sơ tán càng nhanh càng tốt.” Cô dập máy, rồi đi giày.
“Đi đi, Sachs. Em phải tới đó ngay. Ngay bây giờ.”
“Em?”
“Chúng ta ở gần đó hơn đồn gần nhất. Sau mười phút là em tới đó rồi.”
Cô chạy ra cửa, vừa chạy vừa đeo thắt lưng thiết bị vào eo.
“Anh sẽ gọi điện cho đồn.” Anh nói với theo khi cô nhảy xuống cầu thang, tóc như một đám mây đỏ quấn quanh đầu. “Sachs này, nếu em muốn lái xe thật nhanh thì bây giờ là lúc đấy.”
Chiếc xe RRV trượt bánh trên Phố Tám mươi mốt, lao nhanh về phía tây.
Sachs lao đến ngã tư ở Broadway, trượt bánh và va phải chiếc máy bán báo Bưu điện New York, hất nó bắn qua cửa sổ hiệu Zabar trước khi cô điều khiển được chiếc xe. Cô nhớ tới tất cả các loại thiết bị khám nghiệm hiện trường vụ án chở phía sau. Một chiếc xe nặng mông, cô nghĩ; không được quặt khi đang chạy với tốc độ năm mươi.
Sau đó chạy dọc Broadway. Phanh lại ở ngã tư. Nhìn phải, nhìn trái. Không có gì. Nhấn ga!
Cô thoát ra Đại lộ Chín tại trung tâm Lincoln và sau đó chạy xuống phía nam. Mình chỉ…
Quỷ tha ma bắt!
Lốp xe rít lên khi bị phanh gấp.
Phố bị cấm.
Một dãy rào cản chặn Đại lộ Chín để chuẩn bị cho hội chợ đường phố buổi sáng nay. Một khẩu hiệu viết Đồ thủ công mỹ nghệ của tất cả các dân tộc. Tay trong tay, chúng ta là một.
Ôi trời… quỷ tha ma bắt Liên Hiệp Quốc. Cô lùi lại một nửa khối nhà và tăng tốc độ lên năm mươi trước khi lao vào dây rào chắn đầu tiên. Rẽ tung những chiếc bàn gấp bằng nhôm và giá bày hàng gỗ, cô rẽ một đường qua hội chợ không người. Sau hai khối nhà, chiếc xe lao qua rào cản phía nam và cô rẽ về hướng tây sang Phố Năm mươi chín, lao lên vỉa hè một đoạn nhiều hơn cô muốn.
Có một nhà thờ cách đó khoảng một trăm thước.
Giáo dân đứng trên bậc cầu thang – cha mẹ, một cô bé con mặc bộ váy diềm màu trắng hồng, những cậu bé mặc vét tối màu và áo trắng, tóc nhuộm bạc hay tạo thành những núm lạ mắt.
Từ dưới cửa sổ đường hầm, một đám khói xám nhỏ đang bốc lên.
Cô đạp cần ga chạm sàn, động cơ gầm rú.
Vớ lấy máy bộ đàm. “RRV Hai gọi trung tâm, nghe rõ?”
Đúng lúc cô nhìn xuống chiếc bộ đàm Motorola để xem âm thanh đã được vặn lên hết cỡ hay chưa, một chiếc Mercedes lớn lao ra khỏi ngõ, đúng đường đi của cô.
Một cái liếc nhìn rất nhanh gia đình đang ngồi trong xe, mọi người mắt mở to vì sợ hãi khi người cha đạp phanh.
Sachs theo bản năng đánh mạnh tay lái sang trái, đưa chiếc xe sang trạng thái trượt có điều khiển. Nào, nào, cô van xin những cái lốp xe… bám vào, bám vào, bám vào! Nhưng mặt đường nhựa trơn trượt đã bị mềm đi dưới sức nóng của mấy ngày qua và bị phủ sương. Chiếc xe trôi trên đường như đi tàu cánh ngầm.
Đuôi xe va mạnh vào đầu chiếc Mercedes với tốc độ năm mươi dặm một giờ. Sau một tiếng động lớn, chiếc 560 cắt đứt sườn bên trái của chiếc xe thùng. Những chiếc va li khám nghiệm hiện trường bay lên không, mở tung và đổ những thứ bên trong ra phố. Những người đi nhà thờ cúi xuống tránh mảnh kính vỡ, nhựa và kim loại.
Túi khí tung ra và phồng lên làm Sachs giật mình. Cô lấy tay che mặt khi chiếc xe thùng nhảy tung qua một dãy xe hơi, qua một cửa hiệu báo và trượt trên đường cho tới khi dừng hẳn, lộn ngược. Báo và túi đựng vật chứng trên mặt đất như những người lính dù tí hon.
Bị dây an toàn treo lộn ngược, tóc che kín mắt, Sachs gạt máu chảy ra từ vết thương trên trán và môi, cố gắng mở khóa. Nó chặt cứng. Xăng nóng chảy vào xe và chảy theo tay cô buồn buồn. Cô rút con dao gấp ở túi sau, mở ra và cắt dây an toàn. Chút nữa bị rơi vào con dao, cô nằm đó, thở hổn hển, ngạt vì khói xăng.
Nào cô bé, ra thôi. Ra nào!
Cửa xe bị kẹt, phía sau của chiếc xe thùng đã bị bẹp nên cũng không có đường thoát. Sachs bắt đầu đạp cửa sổ. Kính không vỡ. Cô co chân đạp thật mạnh vào lớp kính chắn gió đã bị nứt. Không ảnh hưởng gì, ngoại trừ việc cô suýt bong gân chân.
Súng!
Cô sờ vào hông; khẩu súng đã rơi khỏi bao và lăn lóc đâu đó trong xe. Cảm thấy làn mưa xăng nóng bỏng trên tay và trên vai, cô tìm kiếm điên cuồng trong đám giấy và thiết bị khám nghiệm hiện trường vương vãi trên nóc xe.
Sau đó cô nhìn thấy khẩu Glock nặng nề của mình gần cái chao đèn. Cô phủi nó và nhắm vào cửa bên.
Làm đi. Bên ngoài thoáng, vẫn chưa có ai đến xem.
Sau đó cô ngần ngừ. Liệu lửa nòng có làm xăng bắt cháy không?
Cô giữ khẩu súng cách xa bộ đồng phục thấm xăng của cô hết mức có thể, suy nghĩ. Rồi bấm cò.