Ông Poirot và tôi đang ngồi đợi một người bạn cũ, thanh tra Japp ở Sở Scotland Yard, đến uống trà. Ông Poirot cũng vừa sắp xếp những cái dĩa và chén uống trà lại cho chu đáo, việc mà bà chủ nhà của chúng tôi có thói quen vứt hơn là xếp đặt chúng lên bàn. Ông thở mạnh trên cái ấm trà bằng inox, tay cầm chiếc khăn tay lau cho nó bóng lên. Ấm nấu nước cũng đang được đun sôi, một cái hũ sứ nhỏ đầy ắp những miếng chocolate dầy, món khoái khẩu của ông Poirot mà ông hay gọi là “chất độc của dân Anh”.
Có tiếng gõ cửa lốc cốc, rồi ít phút sau, Japp hối hả bước vào.
‘Tôi không đến trễ chứ?” – Ông ta nói vậy khi chào chúng tôi – “Nói thực tôi vừa mới chuyện trò tào lao với Miller, người phụ trách điều tra vụ Davenheim”.
Tôi vểnh tai lên nghe. Ba ngày qua, báo chí gây xôn xao dư luận bằng những bài viết về trường hợp mất tích lạ lùng của ông Davenheim, thành viên kỳ cựu của Liên doanh Davenheim và Salmon, một tổ chức tài chính và ngân hàng rất nổi tiếng. Thứ bảy vừa qua, ông ấy ra khỏi nhà, rồi từ lúc ấy, không ai thấy ông ta nữa. Tôi chăm chú nhìn lên để thu lượm những tin tức thú vị từ ông Japp.
“Tôi vẫn nghĩ” – Tôi nói – “Thời này làm gì có chuyện một người tự nhiên biến đi mất”.
Ông Poirot xoay xoay cái đĩa có miếng bánh mi bơ dày cỡ hai phân và nói bằng giọng chao chát:
“Khá thực tế, anh bạn. Ý anh muốn nói gì về mức độ biến mất ấy?”
“Sự biến mất cũng được xếp hạng và dán nhãn hiệu sao?”. Tôi bật cười lớn.
Ông Japp cười theo. Poirot cau mày nhìn hai chúng tôi.
“Nhưng chắc chắn là như vậy đó! Có ba loại mất tích: Thứ nhất và phổ biến nhất là tự nguyện biến mất. Thứ hai là trường hợp người ta hay gọi một cách dèm pha là “mất trí nhớ”… ít khi có được tính chính xác. Thứ ba là án mạng, là sự vất đi một cách có hiệu quả thể xác một con người. Anh có còn cho tất cả ba loại ấy không thể nào không có hay không?”
“Nó gần như thế thôi. Ông có thể bị mất trí nhớ, nhưng người khác vẫn nhận ra ông… đặc biệt là đối với người nổi tiếng như ông Davenheim. Còn thể xác tự nhiên không thể bốc hơi trong không khí được. Sớm muộn gì thì người ta cũng thấy lại nó thôi, hoặc đang trốn tránh ở một nơi biệt lập, hoặc trong quan tài… Trong mọi trường hợp, một viên chức đào nhiệm, một kẻ vỡ nợ, rúc cổ vào một xó nhà, cũng đều bị mạng lưới thông tin ngày nay trói buộc tức thì. Anh ta có thể vọt thẳng ra nước ngoài, nhưng các bến cảng, các nhà ga đã có những cặp mắt sẵn sàng theo dõi. Nhân dạng và đặc điểm của anh ta sẽ được đăng tải trên các báo hàng ngày và người nào đọc báo đều biết rành rọt. Anh ta trở thành đối tượng đối lập với đồng bào của mình ngay”.
“Anh bạn của tôi ơi!” – Ông Poirot nói — “Anh bị một sai lầm. Anh không tính đến sự kiện mà một người quyết định xa lánh người khác… hoặc có thể gọi người đó bằng một cách nói đầy ý nghĩa bóng bẩy… là một cỗ máy rất đặc biệt, là một con người có phương pháp. Người đó có thể đem sự thông minh, tài ba để tính toán cẩn thận từng chi tiết thực hiện, và rồi tại sao tôi không thấy người đó thành công trong việc làm lạc hướng cảnh sát.
“Nhưng không phải là ông phải không? Tôi mong như thế” – Japp vui vẻ nói, nháy mắt với tôi – “Anh ta không thể làm ông lạc hướng được, hử, ông Poirot?”
Ông Poirot cố gắng tỏ ra khiêm tốn vì rõ ràng là ông thiếu hy vọng để thành công: “Tôi ư, thì cũng thế! Tại sao không? Nó là sự thực mà tôi phải tiếp cận bằng một thứ khoa học chính xác, giống như toán học, điều mà, ôi, lạy đấng Ala, cũng là sự hiếm hoi khá mới mẻ để sinh ra được những thám tử”.
Japp khẽ cắn răng: “Tôi không biết” – Ông ta nói – “Miller trong vụ này có phải là một thằng cha ngông nghênh không? Ông có thể thấy là ông ta không xem xét gì những dấu chân, hoặc tàn điếu thuốc xì gà hay là một mẫu vật gì cả. Ông ta bỏ lỡ tất cả mọi điều”.
“Vì thế, ông bạn ơi” – Poirot nói – “là London có con chim se sẻ. Nhưng đại khái là tôi sẽ không cần đến một con chim màu nâu như vậy để giải quyết vụ việc của ông Davenheim”.
“Nói đi, thưa ông, ông sẽ không thẩm định từng chi tiết các dấu vết ư?”
“Không phải tôi muốn nói vậy. Mọi thứ đều có ích trong mỗi mặt. Nguy hiểm nhất là người ta có thể khoác lên nó vẻ quan trọng không đáng. Hầu hết mọi chi tiết là vô ích, nhưng chỉ có một hoặc hai chi tiết là quan trọng thôi. Đó là vấn đề của cái đầu, một chút chất xám”… ông gõ gõ tay lên trán… “chỗ đó cho người ta câu trả lời đúng. Còn mọi thứ cảm giác có thể dẫn tới sai lầm. Người ta phải tìm ra sự thật ở bên trong sự việc… chứ không phải bên ngoài”.
“Ông Poirot, ông không nói rằng ông sẽ nghiên cứu để giải quyết một vụ mà không cần bước ra khỏi chiếc ghế ông đang ngồi, phải không?”
“Chính xác đó là điều tôi muốn nói… chỉ cần đặt các yếu tố sự việc trước mặt tôi. Tôi nhìn những yếu tố cấu thành sự việc như một chuyên viên nghiên cứu”.
Ông Japp vỗ lên đầu gối mình. “Quỷ tha ma bắt nếu tôi không nghe những lời ông nói. Tôi đánh cược với ông một trăm đồng năm bảng Anh rằng ông không thể đặt tay ông… hoặc là ông bảo tôi chỗ nào tôi phải đặt tay lên… vấn đề ông Davenheim, còn sống hay đã chết, trong vòng một tuần nữa”.
Ông Poirot có chút nghĩ ngợi “Được lắm, ông bạn. Tôi chấp nhận. Trò chơi là cái gì đó có trong máu người Anh của ông mà. Nào… sự việc ấy ra sao?”
“Hôm thứ bảy vừa qua, như thói quen thường lệ, ông Davenheim đã đón chuyến xe lửa 12 giờ 40 phút từ Victoria để đi đến vùng quê Chingside, là nơi ông có một tòa nhà đặt tên là The Cedars. Sau bữa ăn trưa, ông ta đi loanh quanh bên ngoài để chỉ bảo mấy việc cho những người làm vườn. Mọi người đều nhận thấy sức khỏe của ông vẫn bình thường. Trở vào uống trà xong, ông ta thò đầu qua cửa buồng của bà vợ và bảo rằng ông ta sẽ đi vào làng để gửi mấy cái thư. Ông ta còn nói thêm rằng đang đợi một thương gia tên là Lowen. Nếu ông Lowen có đến trước khi ông ta trở về thì hãy mời sang phòng làm việc đợi ông ta. Rồi ông Davenheim đi qua cửa trước, ung dung xuống nhà xe và ra khỏi cổng, rồi… không ai thấy ông ta nữa. Từ giờ phút ấy ông ta hoàn toàn biến mất”.
“Hay… rất hay… toàn bộ vấn đề nhỏ này có vẻ thú vị đây!” – ông Poirot thì thầm “Kể tiếp đi, ông bạn thân mến”.
“Khoảng một giờ mười lăm phút sau đó, một người đàn ông cao lớn, da sẫm màu có bộ ria mép dày và đen đến kéo chuông gọi cửa, nói rằng ông ta có hẹn với ông Davenheim. Ông ta cho biết tên mình là Lowen, và theo lời dặn của ông thành viên ngân hàng đang vắng mặt, ông khách được mời vào phòng làm việc ngồi đợi. Cả tiếng đồng hồ mà ông Davenheim cũng chưa về. Ong Lovven kéo chuông gọi người nhà và bảo rằng ông ta không thể đợi lâu hơn nữa, vì ông ta phải đón tàu về thành phố. Bà Davenheim xin lỗi về sự vắng nhà của chồng mình mà bà cũng không hiểu nổi vì sao, trong khi bà cũng biết rằng ông Davenheim đã có ý chờ đợi ông khách này.
“Vậy đó, như mọi người biết, ông Davenheim đã không trở về. Sáng sớm chủ nhật, cảnh sát đã được thông báo việc này, nhưng không tìm thấy bất cứ manh mối nào, ông Davenheim dường như đã bị bốc hơi trong không khí vậy. Ông ta cũng không đến bưu điện để gửi thư, cũng như không ai thấy ông ấy có đi vào làng. Tại nhà ga, người ta cũng xác nhận rằng ông ấy không đáp bất cứ chuyến tàu nào. Chiếc xe của ông ấy vẫn nằm yên trong nhà xe. Nếu như ông ta thuê một chiếc xe khác đón ông ta tại một điểm vắng vẻ thì người tài xế nào đó sẽ đến khai báo ngay những gì mà anh ta biết, bởi người ta sẽ thưởng một số tiền lớn cho người cung cấp thông tin, như thông báo đã phổ biến rộng rãi trong làng. Thực ra thì hôm ấy cũng có một cuộc đua ngựa ở Entfield, cách đó năm dặm, nếu ông ta đi bộ ra ga, thì ông ta có thể không bị đám đông chú ý gì. Nhưng từ khi ảnh và đầy đủ đặc điểm cá nhân của ông ta được in trên khắp các báo tới nay vẫn chưa có ai cho biết một tin tức nào về ông ta cả. Dĩ nhiên là chúng tôi cũng nhận được nhiều lá thư từ khắp nơi trên nước Anh, nhưng mọi dấu vết đều hết sức mờ mịt”.
“Sáng thứ hai, có một phát hiện khác làm người ta rúng động hơn nữa. Đó là cái tủ sắt an toàn phía sau tấm màn trong phòng làm việc của ông Davenheim bị trộm vét sạch. Các cửa sổ phòng vẫn khóa chặt, điều này có vẻ có sự giúp đỡ của đồng bọn là người ở trong nhà đã khóa cửa sổ lại sau khi
tên trộm thoát ra ngoài, dĩ nhiên là không thể nào nghĩ khác đi được. Mặt khác, từ ngày chủ nhật, sinh hoạt của cả nhà đó đã trở nên hỗn loạn do có sự can thiệp để tìm hiểu sự việc, có vẻ như vụ trộm đã xảy ra từ thứ bảy mà không ai biết gì cho đến thứ hai”.
“Rất chính xác!” – Ông Poirot lạnh lùng nói – “Phải, vậy ông ta đã bị bắt rồi chứ, cái ông Lowen khốn khổ ấy?”
Japp nhăn mặt lại. “Chưa. Nhưng ông ta đang bị theo dõi thật kỹ”.
Ông Poirot gật đầu – “Cái gì trong tủ an toàn bị lấy đi? Ông nghĩ thế nào?”
“Chúng tôi có vào trong đó cùng với một nhân viên bình thường của cơ quan ông ta và bà Davenheim”. Toàn bộ tài sản bị mất là một số lượng rất lớn những ngân phiếu cầm tay, tiền mặt và một số nữ trang. Tất cả số nữ trang của bà Davenheim đều được cất trong tủ an toàn này. Đó là những thứ mà chồng bà ta đã săn tìm nhiều năm nay cho bà, việc này là sở thích của ông ta, (tuy vì khó khăn nào đó trong tháng vừa qua ông ta đã không tặng cho bà một món quà nào quý giá như những viên ngọc trước).
“Tất cả những thứ ấy đều là món béo bở” – Ông Poirot nói, vẻ mặt nhiều nghĩ ngợi – “Nào, ông Lowen thì thế nào? Có ai biết công việc chiều hôm đó giữa ông ta và ông Davenheim là gì không?”
“Vâng, có thể thấy quan hệ giữa hai người cũng không có gì gọi là tốt. Lowen là một tay đầu cơ nhỏ. Tuy nhiên cũng có một đôi lần ông ta thắng ông Davenheim những cú đậm trong thị trường, họ đã ít hoặc không bao giờ gặp nhau. Đó là sự việc có liên quan đến những phần hùn với Nam Mỹ làm ông ta bị phân tán trong việc chỉ đạo”.
“Và ông Davenheim có lợi nhuận ở Nam Mỹ chứ?”.
“Tôi tin là có. Bà Davenheim cũng cho biết là ông ta từng sống suốt mùa thu ở Buenos Aires”.
“Có rắc rối gì trong nội tình gia đình này không? Vợ chồng họ thế nào?”.
“Cuộc sống gia đình của họ rất yên lành, không xảy ra mâu thuẫn nào. Bà Davenheim là một người đàn bà kém thông minh và an phận. Tôi nghĩ bà ta chỉ giữ vai trò mờ nhạt, không có gì nổi bật”.
“Rồi, chúng ta sẽ không tìm kiếm đáp án là một bí ẩn nào ở chỗ đó. Vậy ông ta có ai thù ghét không?”.
“Ông ta có nhiều đối thủ tài chính sung túc và không nghi ngờ gì là có nhiều người mà ông ta cho là tốt hơn những ai có liên quan tới khoản thừa kế lớn lao của ông ta. Nhưng không có ai muốn rời xa ông ta cả… và nếu họ có hành động gì đó, thì cái xác của ông ta ở đâu mà không thấy?”
“Rất đúng. Như anh Hastings đây vẫn thường nói, thể xác con người có thói quen tìm đến chỗ ánh sáng với sự cố chấp của Thần chết”.
“Ngoài ra, một trong những người làm vườn nói rằng có thấy một dáng người đi vòng qua bên nhà về phía vườn hoa hồng. Cái cửa sổ lớn kiểu Pháp của phòng làm việc nhìn ra phía vườn hồng, và ông Davenheim vẫn có thói quen đi vào nhà hay đi ra ngoài từ phía này, nhưng người này ở một khoảng cách xa, nên trong lúc đang làm việc trên những luống củ cải đường, anh ta không dám chắc rằng đó là dáng của ông chủ hay không. Cũng như anh ta không xác định được anh ta thấy như vậy vào giờ phút nào. Chỉ có thể nói rằng nó phải trước sáu giờ, bởi vì sáu giờ anh ta đã nghỉ việc”.
“Còn giờ ông Davenheim rời khỏi nhà là lúc nào?.
“Khoảng năm giờ rưỡi, hơn hoặc kém chút ít”.
“Trước vườn hoa hồng có cái gì?”.
“Một cái hồ”.
“Có nhà thuyền chứ?”
“Có hai chiếc thuyền đáy bằng ở đó. Tôi đoán rằng ông đang nghĩ về một vụ tự vẫn, phải không ông Poirot? Vâng, tôi cũng không định kể cho ông nghe việc ông thanh tra Miller sẽ xuống đó, tổ chức tìm kiếm dưới lòng hồ… Bản tính của ông ta là vậy mà!”
Ông Poirot uể oải mỉm cười và quay lại tôi: “Anh Hastings, anh làm ơn đưa cho tôi tờ Daily Megaphone.
Nếu tôi nhớ đúng, thì có cái ảnh không rõ của người đàn ông mất tích này”.
Tôi đứng lên đi tìm tờ báo ấy. Và ông Poirot ngồi nghiên cứu bằng cử chỉ rất thận trọng.
“Hừm!” – Ông ta lẩm bẩm – “Có phải ông ta tóc hơi dài và quăn, nhiều râu và ria mép cong, mắt đục phải không?”.
‘Tóc và râu nhuốm bạc chứ?”
Thanh tra Japp gật đầu. “Đúng vậy, ông Poirot. Ông muốn nói về điều ấy sao? Rõ như ban ngày ấy mà.
“Trái lại, chẳng rõ ràng gì hết”.
Người bạn ở Sở Scotiand Yard có vẻ thú vị.
“Những thứ này cho tôi nhiều hy vọng để giải quyết vụ này đây” – Ông Poirot trầm tĩnh nói tiếp.
“Hả?”.
“Tôi tìm thấy một hình ảnh rất tốt khi vụ này còn chưa rõ ràng. Nếu một việc đã rõ như ban ngày… Tốt, thì nên nghi ngờ đi! Có kẻ đã tạo ra như thế!”. Ông Japp lắc đầu thương hại cho ông Poirot: “Được, cứ cho là một chi tiết đó là khôi hài đi. Nhưng nó sẽ không phải là điều dở để thấy ông có một cách rõ ràng hơn”.
“Tôi không thấy” – Ông Poirot khẽ nói – ‘Tôi chỉ nhắm mắt lại và suy nghĩ”.
Japp sôi nổi: “Được thôi, ông sẽ có một tuần lễ rõ ràng sể suy nghĩ”.
“Để ông sẽ mang đến cho tôi những tin tức mới mẻ được triển khai… như kết quả lao động khó nhọc của ông thanh tra Miller có đôi mắt mèo rừng, chẳng hạn như thế!”.
“Chắc chắn rồi. Điều đó nằm trong lời giao hẹn mà.
“Có phải là đáng xấu hổ hay không? – Ông Japp nói khi cùng với tôi đi ra cửa. “Giống như bắt nạt trẻ con”.
Tôi không thể đồng tình với ông ta nhưng cũng mỉm cười. Và tôi vẫn còn cười khi trở vào phòng.
“Tốt thôi!” – Ông Poirot bất ngờ nói Anh làm trò với Papa Poirot đây hả?” – Rồi ông ta lắc mấy ngón tay trước mặt tôi – “Anh không tin chất xám của tôi hả? Đừng có chối! Chúng ta hãy thảo luận một vấn đề nhỏ này coi… Tôi nhận ra có một hai điểm rất thú vị, dù chưa thật rõ ràng đầy đủ”.
“Cái hồ ư?” – Tôi gọi ý.
“Còn hơn cả cái hồ, mà là nhà thuyền”.
Tôi nhìn sang một bên ông Poirot. Ông đang mỉm cười khó hiểu. Tôi biết rằng trong lúc này muốn hỏi ông ta điều gì cũng vô tác dụng.
Chúng tôi đã không nhận được tin gì của Thanh tra Japp cho tới buổi chiều hôm sau. Ông ta tới chỗ chúng tôi vào khoảng chín giờ. Tôi nhận ra ngay tâm trạng của ông ta là có cường điệu với những tin tức mới có.
“Tốt lắm, ông bạn” – Ông Poirot nói – “Mọi việc tiến triển tốt chứ? Nhưng mà đừng có nói với tôi rằng ông đã tìm thấy cái xác của ông Davenheim trong hồ đấy nhé, bởi vì tôi sẽ không tin ông đâu”.
“Chúng tôi không tìm thấy xác, nhưng lại thấy quần áo của ông ta… bộ đồ ông ta mặc ngày hôm đó. Ông nói sao về điều này?”
“Còn quần áo nào khác trong nhà bị mất không?”
“Không, người hầu của ông ta xác nhận điều này. Những gì còn lại trong tủ quần áo của ông ta vẫn còn nguyên vẹn. Còn một việc nữa. Chúng tôi đã bắt giữ Lowen. Một người giúp việc có bổn phận khóa các cửa sổ trong phòng làm việc qua ngả vườn hoa hồng khoảng sáu giờ mười lăm. Đó là khoảng mười phút trước khi ông Lowen rời khỏi ngôi nhà này”.
“Ông ta nói về điều đó như thế nào?”
“Đầu tiên ông ta phủ nhận lời khai cho rằng ông ta đã rời khỏi phòng làm việc. Nhưng khi chị giúp việc xác nhận thì ông ta nói mình quên là có ra đứng bên ngoài cửa sổ để ngắm loại hoa hồng lạ. Chẳng khác gì một câu chuyện bệnh hoạn! Và có bằng cớ mới nhất ló dần ra ánh sáng để chống lại ông ta. Ông Davenheim luôn luôn đeo một chiếc nhẫn lớn có gắn một viên kim cương trên ngón tay út phải. Đúng vậy, chiếc nhẫn ấy đã được đem cầm ở Lon-don tối thứ bảy đó bởi một người đàn ông mang tên là Billy Kellett. Tên này thì khá quen thuộc với cảnh sát… vì mới ba tháng trước, hồi mùa thu, hắn ta đã nẫng của một quí ngài chiếc đồng hồ đeo tay. Được biết anh ta đã mang chiếc nhẫn đi cầm cả năm chỗ khác nhau, chỉ có chỗ cuối cùng mới chịu cầm, rồi khi chếnh choáng vì say rượu, anh ta đã tấn công một cảnh sát, hậu quả là anh ta bị bắt giam. Tôi đã cùng thanh tra Miller xuống Bow Street gặp anh ta. Anh ta đã tỉnh rượu và tôi không hoàn toàn thỏa mãn khi trấn áp anh ta để khép anh ta có dính líu đến án mạng. Đây là lời khai của anh ta, một lời khai nhiều lạ lùng:
“Anh ta đã tới trường đua ngựa Entiield hôm thứ bảy, mà tôi dám nói rằng anh ta tới đó vì vụ này hơn là để cá cược. Hơn nữa, anh ta lại gặp một ngày xui xẻo thì làm gì có may mắn nào. Anh ta đã đi lang thang theo đường Chingside, rồi ngồi nghỉ tại một cái rãnh trước khi vào làng. Ít phút sau, anh ta thấy một người đàn ông đi trên đường làng, mà theo anh ta mô tả đó là một người da sậm, nhiều râu, ăn diện rất bảnh.
“Kellett núp sau một đống đá bên đường. Lúc người này đến chỗ anh ta thì dừng lại, nhìn trước nhìn sau và nhận thấy con đường hoàn toàn vắng vẻ, ông ta móc trong túi ra một vật nhỏ rồi ném nó vào hàng rào bên đường. Rồi ông ta đi về phía nhà ga. Cái vật được ném rơi xuống gây tiếng kêu keng thu hút sự hiếu kỳ cho kẻ ngồi trong đường rãnh kia. Anh ta bèn tìm kiếm xem coi đó là cái gì và nhanh chóng phát hiện ra chiếc nhẫn! Đó là lời kể của Kellett. Nó dễ để ta nói rằng sự tố cáo Lowen là hoàn toàn đúng và dĩ nhiên là lời nói của một người như Kellett cũng không nên coi thường. Nó giúp ta nhận định rằng ông ta đã gặp Davenheim trên đường, cướp đoạt chiếc nhẫn và giết chết ông ấy”.
Poirot lắc đầu: “Rất có thể sửa lại, ông bạn ạ. Anh ta đâu có nói gì dù cho ta nhận định được vấn đề cái xác. Nó sẽ được thấy rõ bây giờ đây. Thứ hai, sự việc vì con đường vắng vẻ mà ông ta ném chiếc nhẫn đi mâu thuẫn với việc cho rằng ông ta đã có hành động giết người để thu đoạt chiếc nhẫn. Thứ ba, kẻ ăn cắp vặt vẫn khác hơn kẻ giết người. Thứ tư, nếu anh ta đã bị giam từ thứ bảy thì đó là quá nhiều sự trùng hợp khi anh ta có thể tả hình dáng Lowen vô tình chính xác như vậy”.
Ông Japp gật đầu: “Tôi không nói rằng ông không đúng. Nhưng với toàn bộ tình tiết đó, ông không thế có được phán đoán đúng để ghi nhận được nhiều về một chứng cớ của con chim trong lồng đâu. Có gì đó rất kỳ lạ đối với tôi là Lowen cũng không thể tìm được cách nào thông minh hơn để giải thích việc chiếc nhẫn”.
Ông Poirot nhún vai: “Này, sau mọi điều, nếu nó được tìm thấy ở một nơi không xa, ta vẫn có thể tin rằng chính ông Davenheim đã đánh rơi nó ở chỗ đó”.
“Nhưng tại sao nó không thể bị lôi ra khỏi xác chết?” Tôi góp tiếng.
“Đó cũng có thể là nguyên nhân” – Japp nói – “Ông có biết phía trước cái hồ chính xác là gì… là một cái cổng nhỏ của con đường đi ra đồi, và không đầy ba phút đi bộ nó sẽ đưa ông tới… ông biết cái gì không?… Một cái lò vôi”.
“Lạy Chúa!” – Tôi kêu lên – “Ý ông muốn nói rằng vôi sẽ tiêu hủy xác chết, nhưng không làm tan đi kim loại như chiếc nhẫn chứ gì?”
“Đúng như vậy”.
“Điều đó làm cho tôi cảm thấy tội ác này thật khủng khiếp”.
Cùng có một nhận xét như nhau, chúng tôi quay nhìn ông Poirot. Ông ta có vẻ như mất hết phản xạ, đôi mày cau lại chứng tỏ tinh thần đang làm việc tối đa. Vậy lời đầu tiên ông ta sẽ nói là gì? Chúng tôi không phải ngờ vực gì lâu lắm. Bằng một cử động, thái độ của ông ta lập tức biến đổi, quay qua ông Japp, ông ta hỏi:
“Ông có nghĩ gì không, ông bạn? Như ông bà Davenheim cùng ngủ chung một phòng, điều ấy có thể có hay không?”
Câu hỏi có vẻ rất buồn cười không thích hợp nên cả hai chúng tôi lúc này chỉ nhìn ông ta bằng sự im lặng. Rồi thì ông Japp cũng bật tiếng cười lớn: “Chúa ơi, ông Poirot, tôi nghĩ là ông đang lạc đề bằng những điều làm người ta sửng sốt. Còn với câu hỏi của ông, tôi chắc là tôi không biết được rồi”.
“Ông có thể tìm ra điều đó được chứ?” – Ông Poirot hỏi bằng tính cố chấp kỳ lạ của ông ta.
“Ô, chắc là được thôi… nếu ông cương quyết muốn biết điều đó”.
“Cám ơn ông bạn. Tôi cũng có bổn phận rõ ràng nếu ông nói rõ điều đó”.
Ông Japp nhìn kỹ ông ta một hồi lâu, nhưng ông Poirot có vẻ như quên mất cả hai chúng tôi. Ông thanh tra nhìn tôi lắc đầu vẻ thầm thì: “Ông bạn già đáng tội nghiệp! Hậu quả của chiến tranh vẫn còn trong ông ta quá nặng!” – rồi ông ta rút lui ra khỏi phòng.
Và ông Poirot cứ như đang chìm trong giấc mộng ban ngày, tôi lấy một tờ giấy tự tiêu khiển bằng cách viết nguệch ngoạc lên đó những ghi chú. Nhưng tiếng ông bạn tôi bất ngờ làm tôi bừng tỉnh. Ông ta đã ra khỏi cơn mơ màng của mình và đang ngơ ngác nhìn tôi đầy cảnh giác.
“Anh làm gì vậy, anh bạn?” – Ông ta xổ một câu tiếng Pháp hỏi tôi.
“Tôi đang ghi những đoạn ngắn chợt xảy ra trong đầu tôi như những chi tiẽt chính khá thú vị trong vụ này”.
“Cuối cùng… anh cũng biết làm việc có hệ thống đấy!”. Ông Poirot nói có vẻ tán thành.
Tôi ngầm giấu đi sự vui mừng của mình – “Tôi đọc ông nghe nhé!”.
“Không gì trở ngại”.
Tôi hắng giọng:
“Một: Mọi chứng cứ đều nhằm vào Lowen như là người tấn công cái tủ an toàn.
“Hai: Ông ta có một mối ác cảm với ông Davenheim.
“Ba: Ông ta nói láo khi đã khai lần đầu tiên là ông ta không hề rời khỏi phòng làm việc.
“Bốn: Nếu các bạn thừa nhận câu chuyện của Billy Kellett nói là thật, Lowen sẽ bị lôi kéo vào những nhận định sai lầm”.
Tôi ngừng đọc: “Thế, được không?” – Tôi hỏi, vì tôi cảm thấy tôi đã đặt ngón tay mình lên toàn bộ sự kiện quạn trọng này.
Ông Poirot nhìn tôi có vẻ thương hại, lặng lẽ lắc đầu – “Anh bạn đáng thương của tôi ơi! Với những thứ đó anh không nhận được một sự ban tặng nào đâu! Một chi tiết quan trọng thì anh lại không hề đánh giá! Cũng vì thế, lập luận của anh bị sai”.
“Thế nào?”.
“Để tôi đưa ra cho anh bốn luận điểm: Một, ông Lowen không bao giờ có thể tin rằng ông ta có cơ hội để mở được cái tủ an toàn. Ông ta đến đó vì một cuộc trao đổi công việc. Ông ta không thể tiên đoán được rằng ông Davenheim sẽ vắng mặt vì đi gửi thư và do đó mà ông ta được ở một mình trong phòng làm việc!”
“Ông ta có thể tận dụng thời cơ” – Tôi suy luận.
“Còn đồ nghề đâu? Một thượng lưu ở thành phố không phải lúc nào cũng có dịp để mang cái túi đồ nghề kè kè theo mình để chờ một cơ hội hành động! Và người ta không thể cắt cái tủ sắt an toàn đó bằng một lưỡi dao gọt bút chì, anh nghe rõ chứ!”
‘Thôi được, luận điểm thứ hai thì như thế nào?”
“Anh nói Lowen có mối ác cảm đối với ông Davenheim. Anh nghĩ sao khi nói vậy trong lúc Lowen cũng một đôi lần gặt hái được thành công từ ở chỗ ông này: Nói cho đúng hơn, trong mối giao dịch này ông ta thu được nhiều lợi nhuận. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, anh cũng không thể vì ác cảm mà chống lại người giúp anh kiếm ra lợi lộc… Đó chỉ là cách suy luận của những người khác về việc đó thôi. Cũng chưa có cái gì đáng gọi là ác cảm có thể có đối với ông Davenheim”.
”Được, nhưng ông không thể phủ nhận rằng ông ta đã nói láo khi cho rằng ông ta không hề rời khỏi phòng làm việc?”
“Không. Nhưng ông ta có thể bị ép để nói thế. Nhớ lại xem, bộ quần áo của người mất tích vừa
được tìm thấy trong hồ nước. Dĩ nhiên, thật bình thường là ông ta phải làm một điều tốt hơn là nói thật”.
“Còn điểm thứ tư?”
“Cái này thì tôi đề cao anh. Nếu lời khai của Kellett là sự thực, Lowen sẽ bị lôi kéo vào những nhận định sai lầm. Đó là cái làm cho vụ này có nhiều thú vị”.
“Vậy là tôi đã đánh giá đúng một sự kiện quan trọng”
“Có lẽ… nhưng anh bỏ qua cả hai điểm quan trọng nhất, là những điều mà anh không nghi ngờ tới khi chúng là những đầu mối của toàn bộ vụ việc”.
“Tôi van ông, là cái gì vậy?
“Một, sự đam mê chợt lớn lên trong ông Davenheim những năm gần đấy đối với việc mua nữ trang. Thứ hai, chuyến đi Buenos Aires mùa thu vừa qua”.
“Ông Poirot, ông đùa đấy à?”
“Hoàn toàn không. À, một thứ sấm sét bất khả xâm phạm, nhưng tôi hy vọng Japp không quên chút nhiệm vụ nhỏ nhoi của tôi”.
Nhưng người thám tử ấy cũng không hề quên lời nói như đùa, đã gửi một bức điện về chỗ ông Poirot lúc mười một giờ sáng hôm sau, Poirot nhờ tôi mở ra và đọc: “Ông chồng và bà vợ đã ngủ riêng từ mùa đông năm rồi”.
“À!” – Ông Poirot kêu lên – “Và bây giờ chúng ta ở giữa tháng sáu! Tất cả đã được giải quyết xong!”.
Tôi chăm chú nhìn ông ta.
“Anh có tiền gửi ở ngân hàng Davenheim và Salmon không anh bạn?”
“Không” – Tôi trả lời mà rất ngạc nhiên – “Sao thế?”
“Bởi vì tôi sẽ khuyên anh rút ra.., trước khi quá muộn”.
“Tại sao, ông nghi ngờ điều gì vậy?”
“Tôi nghĩ tới một vụ phá sản tồi tệ trong vài ngày nữa.., mà có lẽ sớm hơn. Điều này cũng nhắc tôi rằng chúng ta nên mau chóng đáp lễ cho Japp đi. Nhờ anh đưa tôi cái bút chì và một mấu giấy đánh điện tín. Thế này nhé! “Khuyên ông rút hết tiền gửi ngân hàng vì công vụ đang thực hiện”. Làm thế sẽ giúp cho ông Japp tốt bụng này suy nghĩ đây! Và ông ta sẽ mở mắt ra… mắt sẽ mở to hơn! Ông ta sẽ còn nhận định quá hời hợt như thế… cho tới mai hoặc mốt!”.
Tôi vẫn còn hoài nghi, nhưng ngày hôm sau tôi bị buộc phải nể phục người bạn già có năng lực khác thường này: dòng chữ lớn trên các báo đều nói đến sự thất bại của ngân hàng Davenheim làm xôn xao dư luận. Sự mất tích của nhà tài chính nổi tiếng dù được nhận định theo khía cạnh nào cũng được kết luận là có dính dáng đến vấn đề tài;nh cửa bật mở ra và ông Japp chạy ùa vào, ông ta thả rơi trên bàn tờ báo và bức điện.
“Làm sao mà ông biết được vậy, ông Poirot? Những điểm sáng nào giúp ông biết được?”
Poirot thản nhiên nhìn ông ta mỉm cười “À, ông bạn thân mến, sau bức điện của ông sự việc đã rõ cả. Ngay từ ban đầu ông thấy không, việc cái tủ an toàn bị cạy mở gây nhiều chú ý với tôi. Nữ trang, tiền mặt, ngân phiếu cầm tay… tất cả đều đã cất giữ ở đó… bởi ai? Được ông Davenheim đáng kính người mà ông sẽ nói là nhân vật số Một trông coi những thứ đó. Điều đó gần như chắc chắn là ông ta cất giữ chúng để cho… chính ông ta! Còn thêm cái sự đam mê mua nhiều nữ trang mấy năm vừa qua của ông ta nữa! Đơn giản quá! Ngân khoản mà ông ta biển thủ được, ông ta dành để mua nữ trang, rất giống như để chuyển đổi chúng thành một bản sao khác, dưới một cái tên khác, và số tài sản giá trị khổng lồ này vẫn bình yên ở một nơi cho tới một ngày đẹp trời, khi mọi người đi tìm dấu vết của nó. Sắp xếp đâu đó xong rồi, ông ta gài bẫy ông Lowen. Ông ta khoan một cái lỗ vào tủ an toàn rồi ra dặn mời người khách vào phòng làm việc khi ông này đến và ông ta bỏ đi khỏi nhà… nhưng đi đâu?”. Ông Poirot ngừng nói, thò tay ra bóc một quả trứng luộc.
Ông lại cau mày – “Thế là âm mưu của ông ta không thể xác minh được” – Poirot lại thì thầm – “Đó là gắp lửa bỏ tay người hay là con gà mái đã đặt quả trứng vào cái ổ khác!”
“Không thể coi việc đó như những quả trứng được” – ông Japp xúc động nói – “Cứ để cho họ đặt lên rồi họ dọn đi nếu họ thích như thế. Tiếp theo, ông bạn ấy đi đâu, ông có biết không?”
“Chà, ông ta đi trốn. Cái đầu ông Davenheim này có lẽ có vấn đề rồi”.
“Ông có biết ông ta trốn ở chỗ nào không?”
“Biết chứ! Rất mưu trí!”
“Tròi ơi, nói đi nào”.
Ông Poirot nhặt một con sò trong đĩa đổ bỏ nó vào cái chén ăn trứng, rồi úp cái vỏ trứng lên trên. Cử chỉ đó như bao hàm một ý nghĩa và ông ta mỉm cười vì cách thể hiện tinh tế ấy trước khi thân mật nhìn thẳng vào hai chúng tôi.
“Nghe này, các bạn, các bạn là những người thông minh. Cứ thử đặt câu hỏi với mình, cũng như tôi đã tự hỏi là, nếu mình là ông ta, mình sẽ trốn đi đâu? Hastings, anh nói sao?”
“Nếu là tôi, tôi sẽ chưa vội chuồn đi ngay. Tôi phải ở London… giữa trung tâm của mọi thứ trên đời này, đi lại bằng xe điện, hoặc xe buýt, 10 ăn 1 thì tôi cũng không bao giờ bị nhận ra. An toàn nhất là ở giữa đám đông mà.
“Tôi không đồng ý – Japp phản đối – Phải chuồn đi ngay lập tức… đó là cơ hội duy nhất. Phải xếp đặt sẵn mỗi bước đi trong đầu. Tôi phải có được một con tàu với động cơ tốt để tôi tới một nơi nào đó ngoài các ngã tư của thế giới trước khi cuộc săn lùng tôi bắt đầu!”
Rồi cả hai chúng tôi cùng nhìn ông Poirot: “ông nghĩ sao?”.
Ông Poirot vẫn im lặng một lúc lâu truớc khi nụ cười chợt hiện lên trên nét mặt lạ lùng.
“Này, các bạn nếu tôi trốn ở chỗ cảnh sát, thì các bạn có biết chỗ tôi trốn là đâu không? Trong trại giam đấy!”.
“Sao?”.
“Ông đi kiếm Davenheim để nhốt vào tù, thế ông không bao giờ muốn thấy ông ta vào ngồi trong đó sao?”
“Ý ông muốn nói gì vậy?”
“Ông đã nói với tôi rằng bà Davenheim là một người đàn bà kém thôngminh. Tuy nhiên tôi vẫn nghĩ rằng nếu ông đưa bà ta tới Bow Street cho bà ta nhìn mặt người đàn ông tên là Billy Kellett, bà ta sẽ nhận diện được người này! Dù cho người này đã cạo hết râu ria, có đôi mắt đục với mái tóc cắt ngắn. Phụ nữ gần như luôn luôn nhận ra chồng mình, trong khi cả thế giới có thể bị đánh lừa”.
“Billy Kellett ư? Nhưng anh ta là tên mà cảnh sát quá biết!”.
“Tôi chưa nói với ông rằng ông Davenheim là một người thông minh sao? Đầu óc ông ta đã chuẩn bị cho việc này từ lâu… Mùa thu rồi ông ta không ở Buenos Aires đâu… ông ta đóng vai một gã tên Billy Kellett làm một vụ cách đây ba tháng để bị bắt, thế nên lần này cảnh sát đâu nghi ngờ gì nữa. Ông hãy nhớ, đóng xong màn kịch này ông ta sẽ có một tài sản khổng lồ khi được thả tự do. Đó là cái giá đáng kể khi mọi chuyện trót lọt. Chỉ có…”
“Sao ạ?”
“À, về sau ông ta vẫn phải mang râu và tóc giả, làm sao cho giống một lần nữa, và để ngủ với bộ râu giả cũng không phải là dễ… nó sẽ mời gọi sự phát hiện! Ông ta không dám liều lĩnh chia phần trong buồng ngủ của bà vợ đâu. Ông đã tìm ra giùm tôi việc sáu tháng nay, trước hơn cả lúc mà người ta tưởng ông ta từ Buenos Aires trở về, ông ta và bà Davenheim đã ngủ riêng. Nên tôi càng tin chắc hơn! Mọi việc đều ăn khớp với nhau. Người làm vườn thấy ông chủ của anh ta đi dọc bên nhà là đúng. Ông ta đã ra nhà thuyền, mặc bộ đồ đi rong, các bạn cũng biết như vậy là để che mắt bọn người giúp việc, rồi ông ta vất quần áo của mình xuống hồ và tiến hành kế hoạch đã định: bày ra chuyên ném nhẫn đi với tính chất lạ lùng, rồi tìm cớ tấn công cảnh sát để được đưa vào thiên đường quá an toàn của Bow
Street, nơi mà có nằm mơ cũng không ai nghĩ ông ta đang ở đó”.
“Thật không tưởng tượng nổi” – ông thanh tra Japp lẩm bẩm.
“Cứ hỏi bà ấy di” – Ông bạn già của tôi mỉm cười.
Ngày hôm sau, một bức thư bảo đảm được đặt bên cạnh phần ăn sáng của ông Poirot. Ông ta mở ra, trong đó là một tờ năm bảng Anh. Đôi mày của ông bạn tôi nhíu lại.”À, tuyệt nhỉ! Nhưng tôi phải làm gì với cái này đây? Tôi ân hận quá! Ôi, ông bạn Japp tội nghiệp chưa! À, tôi có một ý! Chúng tôi sẽ có một bữa ăn tối, cả ba người. Tờ giấy bạc này nó bảo tôi như vậy. Việc đó cũng thực là dễ dàng. Tôi xấu hổ quá. Tôi đâu phải là người ăn hiếp trẻ con… ngàn lần không phải! Này anh bạn, anh có điều gì vui mà cười lên sung sướng đến thế?”