BÍ MẬT NGÔI NHÀ NGHỈ

NGÀI QUÝ TỘC NGƯỜI Ý



Ông Poirot và tôi cùng có nhiều bạn bè thân thiết.
Trong số những người này, phải kể đến bác sĩ Hawker, ông bác sĩ dễ mến này có thói quen thỉnh thoảng chiều thường tạt qua nói chuyện phiếm với ông Poirot, là một trong số người mà ông ta hâm mộ cuồng nhiệt. Ông bác sĩ rất thành thật và tin cậy khi nói về địa vị gia đình ông ta ngày xưa, cũng như sự hâm mộ của mình với những nhân vật tài ba một thời.
Vào một buổi chiều đầu tháng Sáu, ông ta tới lúc tám giờ rưỡi. Ngồi với nhau, chúng tôi thoải mái trao đổi về một chủ đề đáng lưu ý là những vụ phạm tội giết người có sử dụng chất độc arsenic. Sau chừng mười lăm phút, đang giữa câu chuyện, thì cánh cửa bỗng bật mở, một phụ nữ hoảng hốt, cuống cuồng chạy vào:
“Ôi, thưa bác sĩ, có người cần ông! Tiếng nói thật khủng khiếp. Nó làm tôi phải chạy đi ngay”.
Tôi nhận ra người khách mới đến này là người giúp việc của bác sĩ Hawker, cô Rider. Bác sĩ là người độc thân, ông ta ở trong một ngôi nhà kiểu cổ cách chúng tôi một con đường. Cô Rider bình thường rất bình tĩnh, nhưng bây giờ lời nói của cô ta chẳng mạch lạc chút nào.
“Tiếng gì khủng khiếp? Ai, có việc gì?”
“Điện thoại, thưa bác sĩ. Tôi trả lời điện thoại… Có tiếng nói: Cứu tôi, vang lên. Bác sĩ cứu tôi! Chúng giết tôi!… Rồi lại im. Tôi hỏi: Ai gọi đó?… Ai gọi bác sĩ vậy? thì tôi nghe đầu kia có tiếng thều thào, hình như là: Focatine, có mấy tiếng như: Regent’s Court”.
Ông bác sĩ vội vàng kêu lên:
“Bá tước Foscatini. Ông ấy có một căn hộ ở Regent’s Court. Tôi phải đến đó ngay. Chắc có việc gì không hay rồi”.
“Ông đủ bình tĩnh chứ?” – Poirot hỏi.
“Tôi đang trị bệnh cho ông ta mấy tuần qua. Đó là một ông người Ý nhưng nói tiếng Anh rất giỏi. Thôi, xin chúc ông một đêm yên lành.,., thưa ông Poirot, nếu như…” – Ông ta bỗng ngần ngại.
‘Tôi hiểu ông nghĩ gì rồi” – Ông Poirot mỉm cười. – “Tôi thấy tốt hơn là tôi sẽ đi theo ông. Anh Hastings, nhờ anh xuống gọi giùm một chiếc taxi.”.
Mọi khi thì có nhiều taxi qua lại nườm nượp, nhưng lần này, tôi phải đợi rất lâu mới đón được một chiếc, và rồi chúng tôi cùng hướng thẳng về khu Regent’s Court. Đó là một khu căn hộ gần đường St. John’s Wood. Những căn hộ này mới được xây dựng gần đây nên được trang bị rất tiện nghi.
Không có ai tại khách sảnh. Bác sĩ Hawker bấm chuông gọi thang máy, khi thang máy xuống, ông ta nói với người trực thang mặc bộ đồng phục nói nơi mình muốn tới.
“Hộ số mười một. Bá tước Foscatini. Tôi nghe tin ở đó đang xảy ra tai nạn”.
Người trực thang máy nhìn ông ta chằm chằm.
“Nghe ông nói thật lạ. Ông Graves… tức là người hầu của Bá tước Foscatini… vừa mới xuống thang, ra ngoài cách đây nửa giờ, mà ông ta có nói gì đâu”.
“Giờ bá tước đang ở một mình trong căn hộ chứ?”.
“Không, thưa ông, có hai ông khách cùng ăn tối với ông ấy”.
‘Phải hiểu mấy việc này thế nào nhỉ?” – Tôi hỏi.
Chúng tôi vào thang máy và chỉ giây lát đã lên tới tầng hai là tầng có căn hộ số 11 của ông Foscatini.
“Tôi không gặp những người này, nhưng tôi hiểu rằng họ là những người ngoại quốc”.
Người trực thang máy nói rồi kéo cửa, chúng tôi bước ra ngoài hành lang. Căn hộ số 11 ngay trước mặt chúng tôi. Bác sĩ kéo chuông. Không có tiếng trả lời và chúng tôi cũng không nghe thấy có tiếng gì trong đó. Bác sĩ kéo chuông lần nữa, rồi lần nữa…. Tiếng chuông có vang lên ở bên trong mà vẫn không có dấu hiệu gì khác đáp lại chúng tôi.
“Thật lạ lùng” – Ông bác sĩ lẩm bẩm. Rồi ông ta quay lại chỗ người trực thang máy: “Có chìa khóa vạn năng để mở cửa này không?”.
“Có một chiếc do phòng quản lý giữ ở tầng dưới”.
“Anh đi lấy giùm tôi và nghe này, tôi nghĩ tốt hơn hết là anh nên gọi cảnh sát”.
Ông Poirot biểu lộ sự đồng tình với cách làm đó bằng một cái gật đầu nhẹ.
Người trực thang máy trở lên ngay, cùng với người quản lý:
“Xin ông vui lòng cho chúng tôi biết việc này là như thế nào đây?”.
“Dĩ nhiên. Tôi nhận được tin nhắn qua điện thoại từ Bá tước Poscatini rằng ông ấy bị tấn công và sắp chết. Ông cũng hiểu cho rằng chúng tôi phải lập tức đên ngay… nếu không thì quá muộn”.
Người quản lý chung cư vội mở cửa và tất cả cùng bước vào. Chúng tôi đi qua một cái phòng đợi vuông vắn và thấy cánh cửa phía tay phải mở ra một nửa. Người quản lý gật đầu ra hiệu.
“Phòng ăn đấy”.
Bác sĩ Hawker bước lên đi trước. Chúng tôi theo sát ông ta. Bước vào phòng, miệng tôi há hốc ra. Trên cái bàn tròn giữa phòng có dấu hiệu một bữa ăn vừa xong, ba chiếc ghế bị đẩy ra sau do người ta ăn xong rồi đứng lên. Trong góc gần lò sưởi là một cái bàn viết lớn, ngồi trên chiếc ghế chỗ đó là một người đàn ông… hoặc là một cái gì đó như một người đàn ông. Tay phải của ông ta còn nắm chặt cái ống nghe điện thoại, nhưng người ông ta đổ về phía trước, có lẽ do bị tấn công từ phía sau đầu. Không thấy thứ vũ khí nào ở gần đó. Một pho tượng nhỏ bằng đá cẩm thạch có vẻ đã được đặt trả lại trong lúc vội vã, phần đế tượng bị dính đầy máu.
Chỉ trong một phút, bác sĩ đã khám nghiệm xong: “Bị đập bằng đá, chết ngay lập tức. Tôi đoán rằng trong lúc ông ta gọi điện thoại. Tốt hơn hết là đừng đụng chạm gì tới xác ông ta, chờ cảnh sát đến”.
Theo đề nghị của người quản lý, chúng tôi đi xem hết căn hộ, nhưng đâu thể nào kết luận, trước khi biết rõ những yếu tố cần thiết. Bởi những tên sát nhân đâu còn ẩn trốn tại đó, mà chúng đã cao chạy xa bay, tất nhiên.
Chúng tôi trở lại phòng ăn. Ông Poirot đã không đi xem xét một vòng như chúng tôi. Tôi thấy ông ta đang chăm chú coi kỹ cái bàn ăn làm bằng gỗ dái ngựa, đánh ver-ni bóng lộn. Một lọ hoa hồng được đặt giữa bàn, bên dưới có một chiếc khăn thêu trắng. Có một đĩa trái cây, nhưng ba đĩa thức ăn tráng miệng thì không ai sờ tới. Có ba tách cà phê và cà phê vẫn còn trong những tách ấy… hai cà phê đen, một có sữa. Ba người này đã uống rượu vang và bình rượu vang uống hết phân nửa, vẫn còn để trên cái đĩa giữa bàn, một trong ba người này đã hút xì- gà, hai người kia thì hút thuốc lá điếu. Có một chiếc hộp đựng thuốc lá và xì gà bằng đồi mồi và bạc còn mở ra trên bàn.
Tôi ghi nhận tất cả hiện trạng trước mặt, nhưng tôi buộc lòng phải thú thật rằng tôi không thấy từ đó có chút ánh sáng nào đối vói vụ này. Tôi nhận ra ông Poirot vẫn để mắt quan sát để tìm ra cái mà ông ta cần chú ý.
“Này anh bạn,” – ông Poirot nói – “Anh quên mất một điều. Tôi tìm mà vẫn chưa thấy”.
“Đó là cái gì?”.
“Một sai sót… như một sai sót nhỏ… nào đó của kẻ giết người”.
Ông ta nói rồi qua bước tới chỗ gian bếp sát bên, nhìn vào trong rồi lắc đầu.
“Thưa ông”. – Ông ta nói với người quản lý – “Xin ông vui lòng cho biết cách phục vụ ăn uống ở đây như thế nào ạ?”
Người quản lý dừng lại trước hình vẽ một tổ chim trên tường.
“Được chuyển bằng thang máy” – Ông ta giải thích – “Bữa ăn được chuyển từ nhà bếp ở tầng nóc xuống. Đặt món thì qua điện thoại, sau đó phần ăn được chuyển xuống bằng thang máy, dọn từng món. Khay và đĩa cũng được chuyển trả lên nhà bếp bằng cách đó. Ông hiểu không, như vậy là tránh cho người ta cảm giác chán ngán rất thường thấy khi tới ăn tại nhà hàng”.
Ông Poirot gật đầu, rồi hỏi tiếp:
“Và những cái khay và dĩa ấy được dùng tới nay vẫn còn ở trên nhà bếp chứ. Ông có thể cho tôi lên đó xem qua không?”.
“Ô, tất nhiên, nếu ông muốn! Roberts, người trực thang máy sẽ đưa ông lên đó và giới thiệu ông, nhưng tôi sợ rằng ông cũng chẳng tìm thấy gì có ích đâu. Họ đã nhận lại cả trăm khay và đĩa, có lẽ họ đã chồng đống lên cả rồi.
Nhưng ông Poirot vẫn cố giữ nguyên đề nghị và thế là chúng tôi cùng lên xem qua chỗ nhà bếp để hỏi người nhận lời đặt phần ăn của căn hộ số 11.
“Món ăn được gọi theo thực đơn… cho ba người” – ông ta kể: món súp kiểu Julienne, thăn cá bơn nấu kiểu Normande, món thăn bò và bánh tráng trứng rán phồng… Còn mấy giờ ư? Thì ông ta nói là đúng tám giờ. Không, tôi không tin rằng khay dĩa bây giờ vẫn chưa được rửa. Thật không may, có lẽ ông định tìm dấu tay trên đó chứ gì?”.
“Không đúng lắm”. – Ông Poirot mỉm cười- “Tôi thấy thú vị xem lại mấy cái dĩa của ông Foscatini. Ông ta có ăn sạch những phần ăn của mình chứ?”.
“Tất nhiên, nhưng tôi không thể biết được rằng ông ta đã ăn nhiều hay ít. Những dĩa ăn thì nhem nhuốc, những món ăn cũng hết sạch… ý tôi muốn nói là như vậy, ngoại trừ món bánh tráng trứng chiên phồng, chỉ ăn hết một ít”.
“À!” – Ông Poirot kêu lên tỏ vẻ thú vị với chi tiết này.
Lúc chúng tôi trở xuống căn hộ, Poirot thì thầm vào tai tôi:
“Chúng ta phải có cách làm rõ người đàn ông này.
“Ông muốn nói kẻ sát nhân hay Bá tước Foscatini?”
Người để nghi ngờ cuối cùng là người đàn ông ngăn nắp này. Sau khi kêu cứu và bảo rằng mình sắp chết, ông ta đã cẩn thận treo ống nghe lên điện thoại”.
Tôi đăm đăm nhìn ông Poirot. Những lời nói của ông lúc này với những việc thẩm tra hồi nãy cho tôi thấy một cái gì đó khá lạ lùng.
“Ông nghĩ là đã có chất độc chứ gì?” – Tôi hỏi – Còn cú đánh vào đầu nữa chứ”.
Ông Poirot chỉ mỉm cười.
Chúng tôi trở xuống căn hộ và thấy một thanh tra Cảnh sát địa phương và hai cảnh sát viên đã tới. Họ tỏ vẻ khó chịu vì sự có mặt của chúng tôi, nhưng ông Poirot cố làm hòa khi khoe rằng chúng tôi là bạn của Thanh tra Japp ở Sở Scotland Yard, thanh tra cảnh sát miễn cưỡng cho phép chúng tôi ở lại. Thật may vì chúng tôi đã trở lại năm phút trước khi một người trung niên chạy ào vào phòng trong trạng thái đau đớn và xúc động.
Đó là Graves, người hầu của Bá tước Foscatini. Lời anh ta kể cũng gây cho người nghe cảm giác bàng hoàng.
Graves cho biết, buổi sáng hôm trước có hai người khách đòi gặp ông chủ của anh ta. Họ đều là người Ý, một người cỡ bốn mươi, xưng là Ascanio. Còn người kia thì trẻ hơn, ăn mặc rất đẹp, cỡ hai mươi bốn tuổi.
Hiển nhiên là ông Foscatini đã chuẩn bị sẵn để tiếp đón những người khách này, nên ông đã bảo Graves đi ra ngoài vì một việc không có gì đáng kể. Nói đến đây anh ta chợt dừng lại, ngần ngại. Tuy nhiên, cuối cùng khi bị chúng tôi chất vấn Graves cũng thừa nhận rằng anh ta cũng không vâng lời đi ngay, mà vẫn nấn ná để nghe ngóng cuộc trò chuyện của ba người kia.
Họ nói chuyện rất khẽ nên ý định nghe lén của Graves không được kết quả là bao nhiêu, tuy nhiên anh ta cũng đúc kết được vấn đề mà những người này thảo luận thuộc về những gì có liên quan đến tiền bạc, trên nền tảng là sự chèn ép lẫn nhau. Dù có vấn đề gì đó nhưng cuối cùng họ cũng đi đến một sự thỏa thuận. Và ông Foscatini nói lớn hơn nên anh ta có thể nghe rõ ràng mấy lời này: “Bây giờ tôi không có nhiều thì giờ để tranh cãi đâu, thưa các ông. Nếu các ông đến dùng bữa tối với tôi ngày mai, lúc tám giờ, chúng ta sẽ kết thúc cuộc thảo luận này”.
Sợ bị phát hiện rằng mình nghe trộm, Graves vội vàng bỏ đi làm công việc mà ông chủ sai bảo. Hôm nay, hai ông khách đã đến rất đúng hẹn, là tám giờ. Trong bữa ăn tối, họ nói đủ mọi chuyện trên đời… chính trị, thời tiết và thế giới kịch nghệ. Khi Graves đem chai rượu vang ra đặt lên bàn và mang cà phê vào thì ông Foscatini bảo anh ta có thể không phải làm gì cả, trong tối nay.
“Điều đó có thường xảy ra mỗi khi ông ấy có khách không?” Thanh tra cảnh sát hỏi.
“Không, thưa ông, chưa bao giờ. Nó làm tôi đã phải nghĩ rằng đó là một việc không bình thường mà ông chủ phải thương thảo với hai người khách này”.
Graves chỉ hiểu được đến đó là hết. Anh ta rời khỏi căn hộ lúc tám giờ ba mươi phút, và gặp một người bạn, rồi cùng đi với người này đến nhà hát Metropolitan, đường Edgware.
Không ai thấy hai người khách ấy rời khỏi phòng vào lúc nào, nhưng giờ xảy ra cái chết của ông Foscatini được xác định là 8 giờ 47 phút. Một cái đồng hồ nhỏ trên bàn viết bị tay ông Foscatini hất văng đi đã dừng kim lại trong giờ phút đó, cũng sát với giờ mà cô Rider nghe điện thoại.
Bác sĩ pháp y đã khám nghiệm tử thi, và bây giờ cái xác được đặt nằm trên trường kỷ. Đây là một con người lần đầu tiên tôi mới thấy… da xanh tái màu ô-liu, mũi cao, râu rậm, môi hồng nhạt nổi bật trên hai hàm răng trắng đều. Nét mặt hơi cau tỏ ra vẻ bất mãn.
“Được rồi” – Thanh tra cảnh sát nói, lại nhanh tay mở sổ tay ra “Vụ này đã rõ ràng. Chỉ khó là làm sao chúng ta tìm ra cái ông Ascanio này. Tôi cho rằng địa chỉ của ông ta sẽ không có dịp còn trong sổ tay của người chết này đâu?”.
Nhưng đúng như ông Poirot nhận định, ông Foscatini là một người ngăn nắp, chúng tôi đã thấy mấy chữ “Quý tộc Ascanio, khách sạn Groscenor”.
Thanh tra cảnh sát vội vàng quay điện thoại, xong rồi ông ta nhìn chúng tôi.
“Còn kịp lúc. Ông thượng lưu đó của chúng ta đang chờ tàu để đi Cootinong. Phải, này các ông, bây giờ ta có gì để làm ở đây? Chỉ là một vụ thật tồi tệ, nhưng giờ cũng đã rõ ràng rồi. Một trong số những người Italia này đã trả nợ máu phải vậy hay không?”.
Thế là chúng tôi lặng lẽ giải tán, quay ra đi xuống lầu. Bác sĩ Hawker lộ vẻ bị kích động.
“Giống như tiểu thuyết nhỉ? Những sự kiện thực sự gây hồi hộp. Ông sẽ không tin nếu ông đọc nó hơn là thấy”.
Ông Poirot không nói gì, ông ta đang nghĩ ngợi. Cả buổi tối ấy, ông vẫn tiếp tục không nói gì cả.
Bác sĩ Hawker ngửa người ra sau hỏi: “Ông thanh tra cảnh sát đã nói sao nhỉ? Cái đầu của ông không có được cái gì để nghĩ trong lần này hử?”.
“Ông nghĩ là không sao?”.
“Cái gì có thể nghĩ tới trong vụ này?”.
“Được, thí dụ như có một cái cửa sổ”.
“Cửa sổ ư, nhưng nó vẫn đóng chặt. Không ai có thể ra hay vào bằng ngả đó. Tôi có chú ý chỗ đó cẩn thận”.
“Vì sao ông lại chú ý chỗ đó hết sức cẩn thận?”.
Ông bác sĩ ngớ người ra. Ông Poirot mới giải thích một câu chắc nịch:
“Tôi đã để ý những cái rèm cửa. Chúng không được buông xuống. Như vậy có ít nhiều sự kỳ cục. Rồi tới cà phê. Nó quá đen.
“Phải, nhưng điều đó thì thế nào?”.
“Nó rất đen” – ông Poirot lại lặp lại – “Trong
một sự trùng hợp làm chúng ta nhớ tới những dĩa bánh tráng trứng đã được ăn rất ít, chúng ta nhận ra… cái gì nhỉ?”.
“Ảo tưởng” – bác sĩ cười lớn – “Ông xỏ xiên tôi đó hả?.
“Tôi không bao giờ xỏ xiên. Anh Hastings đây sẽ làm chứng rằng tôi là người thực sự kỳ khôi”.
“Toàn bộ vụ này, tôi không biết ông nhận ra cái gì” – Tôi thú nhận – “Ông không nghi ngờ người hầu ấy chứ gì? Anh ta có thể ở trong băng đó và bỏ thuốc vào trong cà phê. Tôi cho rằng nên xem lại lời khai của anh ta”.
“Không cần nghi ngờ, anh bạn, bởi vì lời khai của Ascanio mới làm tôi thú vị”.
“Ông tin rằng anh ta rõ chứng cứ chứ gì?”.
“Đó đúng là cái mà tôi lo nhất. Tôi không nghi ngờ gì là chúng ta sẽ thấy rõ việc này trong ánh sáng”.
Tờ Daily Neivsmonger cho chúng tôi trở lại thảo luận về vụ án này.
Nhà quý tộc Ascanio đã bị bắt giữ và bị khép tội giết chết Bá tước Foscatini. Khi bị bắt, ông ta phủ nhận là mình không biết gì về ông Bá tước và không hề đặt chân đến khu Ragent’s Court vào buổi tối xảy ra tội ác cũng như buổi sáng hôm trước đó. Còn người trẻ tuổi hơn ông ta thì không ai tìm thấy. Ông Ascanio mới từ lục địa ra đây một mình, ở tại khách sạn Grosvenor, hai ngày trước khi có vụ án mạng. Việc truy tầm dấu vết người đàn ông thứ hai hoàn toàn không có kết quả nào.
Tuy nhiên, ông Ascanio cũng không bị giam giữ. Lấy tư cách cá nhân là đại sứ Ý, ông đại sứ đã lên xác nhận với cảnh sát rằng ông Ascanio đã ở cùng với ông ấy tại Tòa đại sứ từ tám đến chín giờ tối hôm ấy. Thế là ông ta đã được thả ra. Tự nhiên, có nhiều người nghĩ rằng đây là một vụ án dính líu đến chính trị, và đang được tính toán kỹ lưỡng để bưng bít kín.
Ông Poirot có vẻ ngã theo những kết luận này.
Tuy vậy, tôi đã ít nhiều ngạc nhiên, khi một buổi sáng ông ta bất ngờ thông báo với tôi rằng đang đợi một người khách vào mười một giờ, và người khách đó không ai khác hơn là ông Ascanio.
“Ông ta muốn tham khảo ý kiến của ông hở?”. “Trái lại, Hastings ạ. Tôi muốn trao đổi ý kiến với ông ta”.
“Về việc gì?”.
“Vụ án mạng ở Regent’s Court”.
“Ông muốn chứng minh rằng ông ta làm viêc đó chứ gì?”.
“Một người không thể bị thử thách hai lần với việc giết người, anh Hastings. Mọi nỗ lực là để tìm thấy lẽ phải thông thường. À, đó là tiếng chuông của ông bạn chúng ta đấy”.
Ít phút sau, ông Ascanio đã bước vào phòng… Dó là một một con người nhỏ thó, gầy gò, đôi mắt đầy bí ẩn. Ông ta vẫn đứng, ngạc nhiên đưa mắt nhìn từ người này sang người khác trong hai chúng tôi:
“Xin lỗi, ai là ông Poirot?”.
Ông bạn cũng nhỏ người của tôi đưa ngón tay gõ gõ vào ngực mình.
“Xin hân hạnh mời ông ngồi, thưa ông. Ông đã nhận được mấy chữ của tôi chứ. Tôi muốn xác định rõ từ nguồn gốc của điều bí ẩn ấy. Trong một phần nào đó, sự cân nhắc của ông có thể giúp được tôi, tôi nghĩ vậy. Thôi, chúng ta hãy vào đề. Ông… đã cùng đi với một người bạn… đến thăm Bá tước Foscatini buổi sáng thứ Ba, ngày Chín…”.
Ông khách người Ý bày tỏ một thái độ giận dữ.
“Tôi đã không làm việc như thế. Tôi đã thề trước tòa như vậy mà…”.
“Tất nhiên rồi… và tôi có một chút ý tưởng cho rằng ông đã không trung thực khi thề như vậy”.
“Ông muốn kiếm chuyện với tôi đấy hả? Chà, hay chưa! Tôi chẳng làm gì để sợ ông đâu. Tôi đã được tuyên bố vô tội”.
“Đúng lắm, và tôi cũng không phải là một thằng khờ khạo, cũng không phải là cái giá treo cổ để dọa dẫm ông… nhưng tôi vì một ý nghĩa của sự minh bạch, hết sức công khai. Vì công lý! Tôi thấy ông làm không như ông nói. Tôi cũng biết rằng ông sẽ phủ nhận. Nhưng ông biết không, chút ý nghĩ nhỏ nhoi của tôi, vẫn là điều tôi coi là rất giá trị. Xin nghe tôi, thưa ông, ông chỉ có một cơ hội để được thành thực với tôi. Tôi không đợi để được biết con người bí mật đưa ông tới nước Anh này. Tôi hiểu rõ một điều, ông có một mục đích đặc biệt là đến gặp Bá tước Foscatini”.
“Ông ta đâu phải là Bá tước” – Ông người Ý này sửa lại.
“Tôi vẫn tra cứu và thấy tên ông ta không có trong niên giám dòng dõi Gotha. Nhưng ngại gì, cái danh vị Bá tước chỉ có lợi trong việc dọa dẫm người ta thôi mà”.
‘Tôi tin là tôi sẽ hết sức thành thật, tôi thấy ông biết nhiều lắm đấy”.
‘Tôi nhờ chất xám của mình để tìm biết được nhiều. Vâng, thưa ông Ascanio, ông đã đến thăm ông bạn quá cố ấy hôm thứ Ba, buổi sáng… phải vậy không?”.
“Đúng, nhưng buổi chiều hôm sau thì không. Không có gì cần đến nữa. Tôi sẽ kể cho ông nghe tất cả. Chắc chắn mọi tin tức đều cho rằng có một người thuộc tầng lớp thượng lưu ở Ý đã có hành động cướp đoạt giống như bọn vô lại trong vụ này. Ông ta đời nhận đủ khoản tiền lớn mới trả lại cho chúng tôi một số tài liệu. Tôi đến Anh là để dàn xếp việc này”
Tôi gọi điện gặp ông ta sáng hôm đó. Một tùy viên còn trẻ tuổi của ông đại sứ cùng đi vói chúng tôi. Ông ta viện đủ lý do hơn là tôi nghĩ, rồi tôi đã trả cho ông ta một khoản tiền kếch xù”.
“Xin lỗi, trả như thế nào?”.
“Bằng tiền Ý làm căn bản quy đổi. Tôi đã trả cho ông ta ngay tại đó, ông ta đã trao lại tôi giấy tờ. Và tôi không bao giờ gặp lại ông ta lần nữa”.
“Tại sao ông không nói hết với cảnh sát khi bị bắt?”.
“Trong chức vụ tế nhị của tôi, tôi bị buộc phải phủ nhận tất cả những sự dính dáng của tổ chức với tôi.
“Vậy ông nghĩ thế nào về vụ việc xảy ra buổi chiều hôm đó?”.
“Tôi chỉ có thể nghĩ rằng có ai đó mở ra được vai trò của bản thân tôi. Tôi hiểu rằng kẻ đó đã không thấy số tiền đó trong căn hộ”.
Ông Poirot nhìn ông ta và lắc đầu.
“Lạ lùng” – ông thì thầm – “Tất cả chúng ta đều có chút chất xám. Nhưng một số người trong chúng ta không biết sử dụng chúng. Chúc ông một buổi sáng tốt lành, thưa ông Ascanio. Tôi tin câu chuyện ông kể. Nó không như tôi đã hình dung. Nhưng tôi phải làm cho suy đoán của tôi rõ ràng hơn”.
Sau khi tiễn người khách ra cửa, ông Poirot quay vào ngồi lên chiếc ghế bành và mỉm cười với tôi.
“Nào, đại úy Hastings, nói thử cùng nghe xem vụ này như thế nào đây?”.
“Phải, tôi cho rằng ông Ascanio nói đúng… có ai đó đã nhận diện ra ông ta”.
“Không bao giờ. Anh không bao giờ vận dụng cái đầu mà Chúa đã cho anh, tôi xin nhắc lại với anh mấy lời mà tôi đã vội nói khi rời khỏi căn hộ ấy đêm đó. Tôi chú ý đến cái rèm cửa không được buông xuống. Đang là tháng Sáu, vẫn còn đủ ánh sáng mặt trời cho tới tám giờ. Ánh đèn không cần thiết trước khi đó. Thế anh bạn nói mấy việc đó là thế nào đi? Tôi đoán rồi anh sẽ có một ấn tượng rất mạnh mẽ. Thôi, chúng ta tiếp tục đi. Cà phê, như tôi nói, là quá đen. Hàm răng của Bá tước Foscatini rất trắng. Từ đó cho chúng ta lập luận rằng ông ta chẳng đụng một tí cà phê nào. Chưa nói tới việc cả ba cái tách đều còn cà phê. Tại sao có người đã ngăn ông Foscatini uống cà phê, khi ông ta không làm thế?”.
Tôi lắc đầu và hấp tấp giục ông Poirot và ông ta tiếp:
“Yên tâm, tôi sẽ nói anh nghe. Bằng chứng mà chúng ta đã có đó cho thấy, ông Ascanio và bạn ông ta hoặc cứ cho rằng họ là những kẻ đầu độc đi, họ đã không hề tới căn hộ ấy đêm đó. Không ai thấy họ đi vào, cũng không ai thấy họ trở ra. Chúng ta có bằng cớ về mối quan hệ nhạt nhẽo của một người và ông chủ của anh ta”.
“Ông muốn nói sao?”
“Tôi muốn nói tới dao, nĩa, khay và đĩa đã dẹp đi hết. À, nhưng ý nghĩ đó khá thông minh. Graves chính là tên trộm mà cũng là một tên vô lại, nhưng sao anh ta khá ranh ma vậy? Anh ta đã nghe trộm cuộc nói chuyện buổi sáng trước, đủ để nhận thấy rằng ông Ascanio đang giữ một nhiệm vụ tế nhị, sẽ là cái lá chắn cho anh ta. Buổi chiều hôm sau, anh ta nói với ông chủ rằng mình cần gọi điện thoại. Ông Foscatini đang ngồi chờ nghe, cầm lấy ống nghe đưa ra và từ phía sau Graves đã dùng pho tượng đá cẩm thạch để đập vào đầu ông ta. Và anh ta vội vàng gọi điện thoại dặn phần ăn cho ba người! Khi phần ăn được đưa xuống, anh ta dọn đưa vào đặt lên bàn, làm cho dao, nĩa, dĩa bị dơ đi, vân vân… nhưng anh ta cũng phải xử lý một phần món ăn đó. Anh ta không chỉ là một người có đầu óc thông minh, anh ta còn là một người có cái dạ dày khá tốt! Nhưng sau khi ăn các món ăn đã được đưa xuống lần lượt, thì cái món trứng tráng phồng trở thành quá no đối với anh ta! Anh ta phải hút một điếu xì gà và hai điếu thuốc lá nữa để hoàn tất việc ngụy tạo này. À, nhưng thế là quá tuyệt vời đấy! Xong, anh ta chỉnh đồng hồ thành tám giờ bốn mươi bảy phút, và làm cho nó dừng ngay chỗ đó. Có một việc là anh ta không kéo màn cửa. Nếu như có một bữa ăn tối thực sự ở đó, thì màn cửa phải được buông xuống khi ánh sáng bên ngoài đã hết. Rồi anh ta bỏ đi, nói để người trưc thang máy nghĩ rằng ông chủ anh ta đang tiếp khách. Anh ta vội vàng tới buồng điện thoại khoảng tám giờ bốn mươi bảy phút, để gọi bác sĩ với cái giọng cầu cứu giống như của người sắp chết. Anh ta đã thành công vì cũng không ai thẩm tra xem có cuộc gọi nào từ căn hộ số 11 vào lúc ấy không”.
“Tôi nghĩ rằng, ngoại trừ Hercule Poirot chứ gì?”. Tôi mỉa mai.
“Không chỉ Hercule Poirot này đâu” – ông bạn tôi trả lời kèm theo một nụ cười – “Tôi bây giờ hình dung ra như vậy thôi. Tôi phải chứng tỏ cho anh thấy dự đoán của tôi trước đã. Nhưng rồi anh sẽ thấy, tôi sẽ đúng. Và rồi, thanh tra Japp sẽ lần theo dấu vết một con người mà tôi diễn tả, sẽ bắt giam anh bạn Graves đáng sợ này. Tôi chỉ lo rằng không biết anh ta đã tiêu hết bao nhiêu tiền trong số đoạt được đó”.
Kết cuộc, ông Poirot vẫn đúng. Ông ta luôn luôn là người không chút nhầm lẫn.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.