Trong lúc Peter đóng cửa, Justus cân nhắc những bước cần thực hiện tiếp theo:
– Tốt nhất là bọn mình cùng với đống thông tin này quay trở Rocky Beach. Về đến Bộ Tham Mưu, ta có thể bình tĩnh xử lý nó. Hiện thời, có tiếp tục ở đây bọn mình cũng chẳng làm được chuyện gì hơn.
– Mình không phản đối – Bob nói.
Khi Peter đã xong xuôi với cánh cửa thứ hai, họ lại theo những bậc cầu thang bước lên trên. Justus mở cửa. Ngay phía bên kia là Albert. Trông như thể ông ta không hề nhúc nhích ra khỏi chỗ này suốt thời gian qua, đúng như Justus đã đoán.
– Một chuyến đi lâu dài dưới tầng hầm – Albert lạnh lùng trách móc.
– Một khoảng giải lao ngắn thôi mà – Thám Tử Trưởng bình tĩnh đáp trả và giơ ra hai ngón tay của bàn tay phải, như đang giữ một điếu thuốc lá vô hình. Bây giờ chúng tôi còn một cuộc hẹn gấp nữa. Liệu ông có thể báo cho ông Carter biết rằng chúng tôi sẽ gọi lại cho ông ấy sau? Cám ơn! Đây là chìa khóa tầng hầm – Justus ấn chiếc chìa khóa vào tay Albert và đi về phía cửa ra. Cậu không muốn ở gần tay quản gia này thêm một giây, nhưng người kia giữ cậu lại.
– Có người muốn nói chuyện với bọn mày – gã lẩm bẩm.
– Thế sao, ai vậy?
– A, các cậu đây rồi – một giọng nói nhỏ nhẹ vọng xuống từ lan can tầng trên. Cả bộ ba nhìn lên. Trên đó là một người phụ nữ nhỏ nhắn mặc chiếc áo gió màu đỏ. Mái tóc thẫm màu của chị được buộc ra đằng sau thành một búi rối rắm. Vội vàng, người phụ nữ theo cầu thang chạy xuống.
– Các cậu muốn đi rồi sao? Cũng may mà tôi còn gặp được các cậu! – Cchị nói tiếp, hầu như vẫn còn trong giọng thì thào. Ta đi ra ngoài đi!
Không chờ câu trả lời, chị lách qua mặt ba thám tử và bước ngay ra ngoài nhà. Ba người đi theo trong ánh mắt nghi ngờ của Albert.
Người phụ nữ cứ đi mải miết, chỉ khi đã cách nhà một đoạn khá xa chị mới dừng lại và đứng chờ Bộ Ba???. Chị nhấp nháy mắt trong ánh mặt trời chói chang, chìa tay về phía họ và rụt rè mỉm cười.
– Tôi là Enid Connally, bạn gái của anh Carter.
– Rất hân hạnh, tôi là Justus Jonas – Thám Tử Trưởng nói rồi giới thiệu hai bạn mình.
– Cho tôi xin lỗi cái kiểu cách đường đột này, nhưng ở ngoài đây ta nói chuyện dễ hơn, các cậu biết không – chị nhanh lẹ ném một cái nhìn lướt qua bờ vai Bob về phía ngôi nhà, như thể e ngại đang bị quan sát. Casper đã kể cho tôi nghe về các cậu. Cách đây tới vài ngày rồi, anh ấy định gọi điện cho các em. Tôi đã tìm cách khuyên anh ấy đừng làm, nhưng bây giờ… chắc mọi chuyện đã rõ ràng rồi.
Lại thêm một nụ cười ngượng ngùng nữa.
– Cho phép tôi được hỏi, tại sao bà muốn khuyên Carter đừng làm, thưa bà Connally?
– Ô – là cô thôi. Cô Connally. Vâng thì, tôi không muốn anh ấy lại kéo thêm những người khác vào vụ này.
– Vào vụ nào?
– Các cậu biết rồi đấy, vụ đánh mất trí nhớ. Đó là cả một câu chuyện khó nhọc đối với anh ấy. Tôi thấy nếu chất cái gánh nặng đó lên vai ba người còn trẻ như các em thì thật là việc không hay.
– Ông ấy không hề làm điều đó, – Justus nói. Nói cho chính xác ra, ông ấy không hề kể cho tôi nghe về vụ tai nạn ôtô. Ông ấy nhờ chúng tôi giúp trong một việc khác hẳn.
– Phải phải, lại bảy cái cánh cửa đáng nguyền rủa nào đó – cô Connally bực bội nói. Tôi biết rồi, tôi biết mà. Nhưng đó không phải là chuyện cho ba cậu thiếu niên trẻ trung như các cậu. Vì thế mà tôi muốn nói chuyện ngắn gọn với các cậu: Casper đã… nhiều khi anh ấy không biết anh ấy làm gì. Gọi điện cho các cậu và làm phiền các cậu với chuyện bảy cánh cửa không phải là một sáng kiến tốt. Tôi nghĩ rằng, tốt hơn là các cậu quên mọi chuyện này đi được không? Nhưng mà tôi thấy rồi, đằng nào các cậu cũng định bỏ ra về. Vậy thì mọi chuyện đều ổn cà.
Trong một thoáng, cả bộ ba thám tử không nói nên lời vì ngạc nhiên.
– Chúng tôi không về hẳn đâu – Bob cuối cùng tuyên bố. Chúng tôi sẽ quay trở lại.
– Tốt hơn là đừng. – Enid Connally nói nhanh, lần này giọng sắc hơn một chút.
– Tại sao đừng? – Justus hỏi với vẻ rình mò.
Người phụ nữ thở dài.
– Tôi biết nói sao đây? Casper đang ở trong một trạng thái yếu ớt. Tôi cứ hy vọng rằng tình hình sẽ tốt hơn lên một khi anh ấy rời bệnh viện về nhà, nhưng trong sự thật nó đã trở thành trầm trọng hơn. Anh ấy khó ngủ và ưa rón rén đi hàng tiếng đồng hồ lang thang quanh ngôi nhà, hay là xuống dưới bãi cát – Giọng người phụ nữ bất chợt sắc lên, cứng rắn – Đã tới lúc anh ấy phải chia tay với chuyện này!
– Chúng tôi rất tiếc, thưa cô, nhưng chúng tôi đã hứa với ông Carter là sẽ giúp ông ấy – Justus giải thích.
Người phụ nữ nóng nảy gật đầu.
– Được. Và chuyện đó chắc chắn cũng là thiện ý của các cậu. Nhưng cứ như thế này thì các cậu cũng chả giúp gì được đâu! Chỉ khiến cho tình trạng anh ấy tệ hại hơn. Tôi yêu cầu các cậu, hãy để yên chuyện này. Đã tới lúc anh ấy phải quay trở về với cuộc sống bình thường và chia tay với những trò điên khùng kia.
– Ra chị cho việc có người muốn gợi lại ký ức của mình là trò điên khùng ạ? – Justus hỏi.
– Chính thế đó – cô Connally hăm hở giảng giải. Nét bối rối ngượng ngùng ban đầu đã bay biến mất. Nhìn theo phương diện y học, rất khó có khả năng Casper lại gợi lại được trí nhớ sau một khoảng thời gian dài đến như thế! Anh ấy phải chấp nhận tình trạng mất một phần kí ức. Nhưng anh ấy không chịu làm. Và chính điều đó đã làm cho anh ấy đổ bệnh thêm!
– Có phải hiện tượng mất ý thức là không thể chữa chạy được? – Justus hỏi.
– Xác xuất chữa được bệnh rất nhỏ – cô Connally nhắc lại. Nếu các cậu thật sự muốn giúp anh ấy, thì hãy bỏ vụ này và đừng bao giờ quay trở lại nơi đây.
Gió lay tóc Peter. Cậu đứng trên một chiếc ván trượt sóng và lao theo những con sóng cao như núi. Những con sóng hôm nay thật tuyệt, có thể nói là khổng lồ, sức mạnh của nước biển thật khủng khiếp, nhưng cậu đang đứng rất chắc chắn trên tấm ván và điệu nghệ cưỡi trên mặt biển cuộn sóng như thế cả đời chưa hề làm một điều gì khác.
Bạn bè đứng trên bờ hồ hởi la hét khích lệ mỗi khi cậu cùng tấm ván bắn vọt lên cao, xoay người trong không khí rồi lại hạ một cách chắc chắn xuống đỉnh con sóng tiếp theo. Lác đác có những khán giả khác đến nhập bọn và hăm hở theo dõi cú biểu diễn xiếc trên mặt nước. Cậu là ngôi sao trượt sóng danh tiếng nhất của toàn miền bờ biển California.
– Ở đây ta có một tấm ảnh của Carter thời còn đi học – Bob nói và giật Peter ra khỏi cơn mơ ngày – Kỳ thật, cứ theo độ tuổi của ông ta, mình dám quả quyết là ảnh này phải là ảnh đen trắng.
Peter ngồi bên tay lái của chiếc xe MG và đang đưa xe dọc theo con phố bờ biển, thẳng về hướng nam, về Rocky Beach. Ngọn gió lành lạnh mằn mặn vị muối thổi cho trí tượng bay bổng. Mà chẳng phải chỉ là trí tượng của riêng cậu. Bob và Justus kể từ khi lăn bánh chỉ nói duy nhất về vụ án mới. Đúng là đặc trưng hai chàng thám tử. Ngồi ở hàng ghế sau, họ đã bắt đầu xem xét phần nội dung của chiếc hộp nhỏ.
– Còn đây chắc phải là bố mẹ ông ta – Bob nói thêm và chỉ vào một tấm ảnh khác.
– Còn đây là lời báo tử cho cả hai người – Justus nói. Cha anh ấy chết tương đối trẻ.
– Thêm một ảnh nữa – Bob lầm bầm và rút một chiếc ảnh khác ra khỏi hộp. Trong ảnh là một người đàn ông già nua với bộ râu trắng như cước, trên đầu quấn một dạng khăn Turban. Ông ta đeo trên cổ một mặt dây chuyền hình bọ dừa, lóng lánh màu vàng trộn xanh lục. Cái vẻ óng ánh của nó gây ấn tượng giả tạo, như thể tấm ảnh này đã được xử lý lại bằng máy tính. Từ hai con mắt của người đàn ông cũng tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ, và quanh đầu ông ta là một dạng vành hào quang siêu nhiên – Ái cha! Ông thánh nào đây nhỉ?
– Oman Shankar! – Justus kêu lên.
Bob đã từng nghe đến tên này. Chấm chậm, cậu nhớ lại.
– Đúng thế! Cậu có lý, Justus!
– Sao, các cậu quen gã ư – Peter hỏi và nhìn vào gương hậu, muốn quan sát tấm ảnh.
– Nếu cậu thỉnh thoáng chịu khó bỏ ra chút thời gian đọc báo thì thể nào cũng biết gã, Peter – Bob trả lời – Oman Shankar là kẻ cầm đầu nhóm đạo Soo-An.
– Thật ra thì gã tên là William Jackson và là người Oklahoma. Nhưng gã tự xưng là Oman Shankar, bởi cái tên này rõ ràng là sang trọng hơn hẳn cho một tay cầm đầu nhóm đạo. Mình đã có lần nghe nói, Soo-An vốn là một dòng đạo xuất xứ từ vùng Tây Tạng và khi được dịch sang tiếng Anh thì từ này chỉ có một nghĩa duy nhất là “tiền”, nhưng mình không biết chắc liệu điều này có đúng không.
– Thế cái nhóm đạo đó làm gì? – Peter hỏi.
– Làm những gì mà đa phần các nhóm đạo khác cũng làm: hứa hẹn sự hạnh phúc vĩnh hằng của con người và tiện thể rút tiền ra khỏi túi họ – Justus trả lời. Soo-An mới nổi lên từ vài chục năm nay. Chính Oman Shankar đã lập nên nó. Lý thuyết của ông ta là một trò thu thập trắng trợn, lắp ráp bằng những mảnh ăn cắp ra từ đủ loại tôn giáo lớn nhỏ trên toàn thế giới. Một chút thiên đường ở đây, một chút tái sinh ở đằng kia, thêm vài vị thần, thêm vài lời răn rất dễ làm theo, bởi nếu không thì chẳng có ai muốn tham gia cả. Và dĩ nhiên là không biết bao nhiêu những lời hứa hẹn. Các thành viên đa phần là những người giàu có, bởi vì đây là nhóm đối tượng mà Oman Shankar nhắm tới. Người nghèo chẳng có chỗ trong nhóm đạo của gã ta. Và qua đó người ta thật nhanh chóng hiểu ra mục đích chính của gã là gì: tiền. Những ai muốn gia nhập Soo-An, chắc phải trả một đống tiền cho Shankar.
Peter sững sờ lắc đầu.
– Thế anh ta nhận được gì?
– Ừ thì, sự hạnh phúc vĩnh hằng, cái đó mình nói rồi mà.
– Nhưng như thế thì là trò lừa đảo tệ hại nhất!
– Cậu lại nói đúng rồi.
– Nhìn này!
Bob kêu lên, cậu vẫn mải miết lục lọi cái hộp trong thời gian Justus đọc bản báo cáo khoa học. Giờ cậu rút ra ngoài một sợi dây chuyền có lủng lẳng một mặt chuyền giống như thứ Oman Shankar đeo trong ảnh. Một con bọ dừa màu vàng trộn xanh lục.
– Còn thêm một thứ nữa đây: một cái ảnh.
Bob đưa cho hai bạn mình cùng xem. Trên ảnh là một nhóm người mặc những chiếc áo dài màu vàng trộn xanh lục, đang tiến hành một điệu múa tập thể trong một căn phòng quét sơn trắng. Tất cả đều đeo bọ dừa quanh cổ.
– Thế này có nghĩa là gì? – Peter hỏi.
-Mình nghĩ bây giờ mọi chuyện rõ rồi – Justus nói ngắn và gõ ngón tay trỏ lên một người trong tấm ảnh, một dáng hình quá quen thuộc. Casper Carter vốn là thành viên của nhóm đạo Soo-An!