Đáng lẽ tìm cô ta không khó đến thế chứ,” Parrish Sawyer lẩm bẩm, dựa ra đằng sau ghế của hắn và gõ những ngón tay được cắt tỉa sạch sẽ lên tay ghế. “Tôi cực kì thất vọng với Sở cảnh sát Minneapolis. Grace bé nhỏ không có ô tô, không có kĩ năng sinh tồn nào, vậy mà cô ta vẫn lừa được bọn họ. Việc đó thực sự làm tôi ngạc nhiên; tôi đã trông mong cô ta vừa la hét vừa lao tới nhà một người hàng xóm, hay viên cảnh sát đầu tiên mà cô ta tìm được, nhưng không, thay vào đó cô ta lặn mất tăm ở đâu đó. Thật là phiền phức, nhưng tất cả những gì cô ta đang làm chỉ trì hoãn điều không tránh khỏi. Nếu cảnh sát không thể tìm thấy cô ta, tôi tự tin là anh làm được.”
“Vâng,” Conrad trả lời. Hắn không rườm rà. Hắn là một người đàn ông kiệm lời, nhưng trong nhiều năm qua Parrish phát hiện ra hắn cực kì đáng tin cậy. Conrad có thể là tên cũng có thể là họ của hắn; chẳng ai biết được. Hắn to bè và lực lưỡng và trông không sáng sủa lắm; cái đầu hình viên đạn của hắn được phủ lớp tóc đen ngắn củn rủ trên cái trán ngắn, một điểm tương đồng không may với loài khỉ, lại càng được nhấn mạnh hơn bằng cặp mắt đen và ấn đường gồ lên. Cơ thể mập lùn của hắn có thể di chuyển với tốc độ và sự chính xác đáng kinh ngạc, và đằng sau biểu cảm dửng dưng của hắn là một bộ não vừa tinh khôn vừa nhanh nhạy. Và điều tốt nhất là Parrish chưa từng nhìn thấy Conrad thể hiện bất kì một dấu hiệu bạc nhược nào của lương tâm. Hắn thực thi các mệnh lệnh với sự chính xác máy móc đáng ngưỡng mộ, và việc hắn nghĩ gì về chúng thì chẳng ai ngoài chính hắn biết.
“Khi anh tìm thấy cô ta,” Parrish nói tiếp, “mang chiếc máy tính và những tài liệu đó cho tôi ngay lập tức.” Hắn không đưa thêm chỉ dẫn nào về việc phải xử Grace St. John ra sao; Conrad không cần chỉ dẫn trong những chuyện đơn giản như thế.
Cái đầu hình viên đạn gật nhẹ thật nhanh, và Conrad lặng lẽ rời khỏi phòng. Còn một mình, Parrish thở dài, những ngón tay của hắn vẫn còn thể hiện sự bực tức của hắn trước tình huống này.
Mọi chuyện đã trở nên lộn xộn không thể tin được. Chẳng có gì theo đúng kế hoạch hết. Đáng lẽ bọn họ phải có mặt ở đó, cả ba người; hắn đã đảm bảo cả ba chiếc xe đều hiện hữu trước khi vào nhà. Nhưng Grace không ở đó, và cả máy tính cũng như tài liệu của cô ta cũng không. Hơn thế nữa, Ford và Bryant đã nói dối khá giỏi; Parrish không ngờ được chuyện đó, và hắn không thích bị bất ngờ. Ai mà nghĩ được hai thằng khảo cổ mọt sách lại dựng nên một tình huống chính xác đến thế, và trong chỉ một giây đã tạo ra một lời nói dối đáng tin cậy?
Nhưng chúng đã làm đuợc, và hắn đã mắc một sai lầm rất tệ hại là tin lời chúng. Sự bất cẩn như thế chẳng giống hắn chút nào, và cảm giác bị biến thành thằng ngốc thì rất bực bội.
Không may, có vẻ như Grace đã đứng ngay ngoài ngôi nhà, theo dõi và lắng nghe. Âm thanh nhỏ kì lạ hắn đã nghe bên ngoài cửa sổ có thể là cô ta; để lại một khe trên rèm cửa, dù chỉ là một khe bé tí, lại là một sai lầm khác thường nữa. Vài ngày quả thực là rất khốn nạn.
Hắn và đội của Conrad đã nhanh chóng rút lui, không để lại dấu vân tay hay dấu hiệu nào khác chỉ ra sự hiện diện của chúng, và cảnh trong phòng ngủ trông khá giống như bọn họ đã dự trù. Bất kì cảnh sát nào bước vào đó, với hai người đàn ông ở trần nửa người cùng với nhau trong một phòng, cả hai đều bị bắn vào đầu, và một bà vợ mất tích – chà, chẳng cần phải là một thiên tài mới hiểu ra. Những nhà hành pháp giỏi nhất ở Minneapolis đã phản ứng đúng như hắn mong đợi; họ thận trọng, giữ mọi chi tiết khỏi cánh phóng viên, nhưng Grace là nghi phạm số một của họ.
Hắn đã nghĩ cô ta sẽ tìm kiếm sự giúp đỡ ngay lập tức, vì thế hắn trở lại ngôi nhà xa hoa ở Wayzata để chờ. Hắn không lo lắng về những lời buộc tội của cô ta; rút cuộc, tại sao hắn lại giết hai người chỉ để đánh cắp những tài liệu mà hắn có thể có được chỉ bằng cách bảo họ đưa cho hắn? Hắn là một thành viên được kính trọng và có nhiều mối quan hệ trong cộng đồng. Hắn ở trong hội đồng quản trị của hai bệnh viện, hắn đóng góp những khoản từ thiện mang tính chính trị rất thường xuyên và rộng rãi, và một vài trong số những gia đình giàu có nhất ở Minnesota đã hi vọng dụ hắn vào bẫy bằng con đường hôn nhân – tất nhiên chỉ là hi vọng hão. Hơn nữa, hắn có bằng chứng ngoại phạm nhờ người giúp việc của hắn, Antonetta Dolk. Bà ta sẽ thề là hắn làm việc trong phòng suốt buổi tối, rằng bà ta thậm chí còn mang cà phê tới cho hắn. Antonetta có thể thắng bất kì một máy đo nói dối nào do con người tạo ra, một khả năng hữu dụng đối với người giúp việc, và một khả năng hắn coi trọng hơn chuyện lau dọn rất nhiều. Tất nhiên, bà ta làm việc cho Tổ chức; hắn tạo một vòng vây những con người trung thành với riêng hắn quanh mình.
Nghĩ đến việc tập tài liệu đã xuất hiện sau thời gian dài đến thế! Chúng đã được lấy ra từ một cuộc khai quật chẳng đáng quan tâm ở miền nam nước Pháp, cuộc khai quật đem lại quá ít, và chẳng có gì tỏ ra là thuộc vào thời đại huy hoàng nào cả, đến mức những tài liệu ấy không gây được sự chú ý nào. Chắc chắn không ai chịu trách nhiệm đánh giá mọi hiện vật và báo cáo những thứ đáng quan tâm cho hắn tìm thấy bất kì một cái gì thú vị trong những tài liệu chỉ tầm vài trăm năm tuổi ấy. Hắn sẽ phải chăm sóc cả tên cẩu thả đó – một việc khác cho Conrad. Nếu những tài liệu đó đã được đánh giá đúng mực, chúng sẽ không bao giờ được chụp, lưu trữ, và gửi những bức hình cho Grace St. John để dịch như bình thường. Sẽ không có việc gì như thế này xảy ra, và thông tin đó đã nằm trong tay hắn thay vì tay Grace.
Chính là Ford đã báo cho hắn biết nội dung của tập tài liệu rối rắm, và do đó gây ra cái chết của chính anh ta. Đời mới nực cười làm sao, Parrish nghĩ. Lời nhận xét vô tình của Ford về dự án mới nhất của Grace, cái gì đó liên quan tới các Hiệp sĩ thánh chiến, đã gây ra mọi chuyện.
Parrish đã nhanh chóng kiểm tra hồ sơ công tác và lần theo những tài liệu gốc tới kho ở Paris. Người Pháp có thể rất khó tính về việc cho phép các cổ vật, thậm chí cả những cổ vật không cổ lắm, rời khỏi đất nước họ. Parrish đã cử người của hắn tới thu hồi những giấy tờ, nhưng lại phát hiện ra chúng đã bị huỷ, rõ ràng là do hoả hoạn – mặc dù không có gì khác trong hầm bị phá huỷ. Chẳng còn lại gì từ những tài liệu ấy trừ một đống tro tàn màu trắng.
Grace St. John có những bản sao duy nhất. Và theo như hồ sơ công tác, cô ta đã bắt đầu dịch được ba ngày rồi. Grace rất giỏi trong công việc của cô ta; thực tế, cô ta là chuyên gia ngôn ngữ giỏi nhất của hắn. Hắn không thể mạo hiểm để cô ta giải mã được đủ phần tài liệu để biết cái cô ta có; cô ta, cùng với tất cả những người biết cô ta đang làm việc với cái gì, đều phải bị xoá sổ.
Kì lạ là Grace lại gây ra nhiều khó khăn hơn cả Ford hay Bryant. Hắn đã biết cô ta được bao lâu rồi? Gần mười năm? Cô ta luôn có vẻ là tuýp người nhợt nhạt, rụt rè, không trang điểm, mái tóc chải hết ra sau trong một bím tóc tẻ nhạt, hơn quá cân một chút. Sự thiếu hụt phong cách hoàn toàn của cô ta xúc phạm tình cảm của hắn. Vì tất cả những lý do đó, trong mấy năm qua đã vài lần hắn muốn quyến rũ cô ta. Giống như hắn đã thấy chán đám phụ nữ; và Grace bé nhỏ thể hiện một thách thức nào đấy, với những đức hạnh lố bịch của tầng lớp trung lưu của cô ta. Cô ta “yêu” chồng, và trung thành với anh ta. Nhưng cô ta có làn da hoàn hảo, giống như sứ trong suốt, và một cái miệng đầy nhục cảm đến kinh ngạc mà hắn chưa từng trông thấy. Parrish mỉm cười, cảm thấy máu dâng lên trong người khi hắn nghĩ đến những cách hắn sẽ dùng được cái miệng đó, rộng và mềm và bĩu ra. Ford già tội nghiệp chắc chắn là không đủ trí tưởng tượng để tận hưởng cô ta như hắn!
Cô ta sẽ bất lực như một đứa trẻ trên đường phố. Bất kì điều gì cũng có thể xảy ra cho cô ta trong đêm. Có thể cô ta đã chết rồi.
Nếu thế, một vấn đề sẽ được giải quyết một cách thuận tiện, nhưng hắn thực lòng mong cô ta vẫn còn sống. Cô ta sẽ giữ những tài liệu đó bên mình, và khi Conrad tìm được cô ta, hắn cũng sẽ tìm được tài liệu. Tuy nhiên, nếu bất kì một tên rác rưởi nào vẫn lang thang trên phố vào ban đêm giết cô ta thì máy tính của cô ta sẽ bị cướp và rao bán, và tài liệu sẽ bị vứt đi. Một khi những bản sao tài liệu đã biến mất giữa thế giới bóng đêm, chắc chắn chúng sẽ không bao giờ xuất hiện lần nữa. Chúng sẽ biến mất, và cùng với chúng là những thông tin mấu chốt được tìm kiếm từ lâu. Tổ chức sẽ chẳng còn mục đích tồn tại nào nữa, và những kế hoạch của hắn sẽ tan thành cát bụi, y như những tài liệu gốc vậy.
Việc đó không được phép xảy ra. Dù cách này hay cách khác, hắn cũng sẽ có những tài liệu đó.
Grace không thể ngủ được. Nàng kiệt sức, nhưng mỗi lần nhắm mắt nàng lại thấy đôi mắt đột nhiên trống rỗng kinh khủng của Ford khi viên đạn cướp đi sinh mạng của anh, nhìn thấy anh đổ ập xuống giường.
Trời vẫn còn mưa. Nàng ngồi cuộn tròn trong một khoang chứa đồ kim loại, trốn đằng sau chiếc máy cắt cỏ bị thiếu một bánh, một hộp dụng cụ đầy dầu mỡ, một vài hộp sơn phủ bụi, và vài hộp các tông ẩm mốc ghi chữ “Đồ trang trí GS.” Khoang 8-10 không bị khoá, nhưng mà chẳng có gì đáng để ăn trộm trong đó, trừ vài cái cờ lê và tua vít.
Nàng không chắc chính xác mình đang ở đâu. Nàng chỉ đơn giản là đi về hướng bắc cho đến khi nàng quá mệt không đi xa thêm được nữa, rồi tìm một chỗ trú ẩn trong toà nhà kho đằng sau một ngôi nhà trại kiểu những năm năm mươi. Khu phố có những dấu hiệu xuống cấp khi tư cách đáng trọng của tầng lớp dưới trung lưu dần dần giảm đi. Không có chiếc xe nào đậu trong nhà xe, vì thế nàng đã mạo hiệm cho rằng không ai ở đây. Nếu có người hàng xóm nào ở nhà, cơn mưa sẽ giữ họ ở trong nhà, và không có ai hét vào nàng khi nàng chầm chậm đi ngang qua sân sau và mở một cánh cửa kim loại hờ hững.
Nàng đã bò qua đống lộn xộn cho đến khi tới được góc bên trong, rồi ngồi bệt xuống nền xi măng bẩn thỉu. Nàng đã ngồi trong trạng thái ngẩn ngơ, nhìn chằm chằm vào khoảng không. Thời gian trôi qua, nhưng nàng không biết tí gì. Sau một lúc nàng nghe thấy tiếng xe đi đến, và vài tiếng đóng cửa xe. Trẻ con la hét và cãi vã, và giọng một người phụ nữ bực bội bảo chúng thôi đi. Có tiếng cửa nhà mở ra ầm ĩ, rồi tiếng đóng của một cánh cửa khác, và tiếng người nói chuyện bị cách âm đằng sau các bức tường bao quanh sự ấm áp và an lành.
Grace dựa trên đầu gối. Nàng quá mệt, và quá đói. Nàng không biết phải làm gì tiếp.
Ford và Bryant sẽ được chôn cất, và nàng sẽ không có mặt ở đó để nhìn họ lần cuối cùng, để chạm vào họ, để đặt hoa trên mồ của họ.
Cổ họng nàng cử động, nghiến lại trước nỗi đau thương trào lên khiến nàng phải đu đưa người từ trước ra sau. Nàng thấy mình đang tan tác, cảm thấy sự kiểm soát của nàng vụn vỡ, và nàng siết chặt cánh tay quanh mình như thể bằng cách đó nàng sẽ ôm giữ được mọi thứ với nhau.
Nàng chưa bao giờ nhận họ Wessner của Ford làm họ mình. Nàng đã giữ cái tên St. John thời con gái. Lý do rất thực dụng, rất hiện đại; bằng cấp của nàng được trao với cái tên Grace St. John, và còn có bằng lái xe, số bảo hiểm xã hội, quá nhiều giấy tờ cần phải chuyển đổi nếu nàng đổi tên. Và tất nhiên, Minneapolis là nơi tiên phong của lập trường chính trị vững vàng; nếu nàng lấy tên của Ford thì sẽ bị giới học giả coi là sự vụng về không sửa chữa nổi. (chỗ này mình không hiểu nổi tại sao lại thế)
Nỗi đau gần như không chịu đựng nổi. Ford đã sẵn sàng chết vì nàng, vậy mà nàng đã không bằng lòng dùng họ của anh như họ của mình. Anh chưa bao giờ hỏi, thậm chí chưa từng nhắc đến; nếu hiểu tính Ford sẽ biết việc đó chẳng mấy quan trọng với anh. Anh quá căn cơ; cuộc hôn nhân của họ mới là điều quan trọng với anh, chứ không phải cái tên nàng dùng. Nhưng đột nhiên với nàng, nó lại thành vấn đề. Nàng khao khát được kết nối với anh, một mối liên kết mà giờ đây nàng sẽ không bao giờ có nữa, cũng như nàng sẽ không bao giờ có con với anh được nữa.
Họ đã lên kế hoạch có hai đứa con. Họ đã nói về chuyện đó, nhưng tạm thời hoãn việc sinh con trong khi cả hai còn đang xây dựng sự nghiệp. Sau mùa Giáng Sinh vừa qua, họ đã quyết định chờ thêm một năm nữa, và Grace đã tiếp tục uống thuốc tránh thai.
Giờ Ford đã chết, và những viên thuốc vô dụng đã bị bỏ lại trong ngôi nhà nàng sẽ không bao giờ còn trở về nữa.
Ôi, Chúa ơi, Ford ơi! Nàng không thể chịu đựng được chuyện này. Nỗi đau quá lớn. Nàng phải làm việc gì đó nếu không nàng sẽ mất trí, vừa la hét vừa chạy ra khỏi cái khoang chứa đồ bẩn thỉu này và đứng giữa phố cho đến khi hoặc bị bắt hoặc bị giết.
Nàng vụng về kéo chiếc cặp máy tính ra khỏi túi ni lông. Ánh sáng trong khoang chứa đồ mờ ảo, xanh lè và quá ít để làm việc trên những bản sao, nhưng nàng đã chuyển một số chúng vào đĩa mềm và nàng có thể làm việc trên máy tính. Nàng quá mệt để hoàn thành được cái gì, nhưng nàng tuyệt vọng cần một vài phút sao lãng. Nàng đã luôn có thể lạc mất trong công việc; có lẽ lần này nó sẽ cứu nàng khỏi cơn điên.
Nàng không có nhiều chỗ trống lắm khi bị nhét vào trong góc thế này. Nàng kê lại những chiếc hộp đựng đồ trang trí Giáng Sinh, trượt một cái vào trước mặt nàng để làm thành chiếc bàn; từ kinh nghiệm của mình nàng biết rằng laptop toả ra quá nhiều nhiệt để đặt được lên đùi. Nàng đặt cái di chuột xuống, rồi mở nắp máy tính và ấn nút bật ở bên cạnh. Màn hình sáng lên và chiếc máy phát ra những âm thanh của quá trình khởi động. Khi danh mục hiện trên màn hình, nàng di con trỏ xuống một chương trình nàng muốn và kích vào đó. Nàng đã biết nàng cần cái đĩa nào, và đã cho sẵn vào ổ A.
Chiếc đĩa chứa phần nàng đang làm việc trước đó, khi trí tò mò dẫn nàng tới việc nghiên cứu thêm về các Hiệp sĩ thánh chiến. Ngôn ngữ của nó là cổ ngữ Pháp, một thứ nàng quá quen thuộc đến nỗi nàng có thể làm việc được trong cả tâm trạng tê liệt như thế này.
Nàng truy nhập vào file, và những từ ngữ lấp đầy màn hình. Những chữ cái bị mờ đi vì thời gian, kết cấu kì lạ, và những người thời trung cổ thì có cách đánh vần quá ư là sáng tạo. Vào thời kì đó không có một chuẩn mực đánh vần nào cả, vì thế người ta dùng bất kể cái gì nghe có vẻ đúng với họ.
Grace nhìn chằm chằm vào màn hình, từ từ kéo con trỏ xuống khi nàng đọc và tái hoà nhập vào công việc. Bất chấp mọi thứ, nàng có thể cảm nhận được sự tập trung của mình đang trở lại, thu hẹp phạm vi khi những tài liệu kéo nàng vào trong vòng quyền lực của nó. Cái tên lại nhảy ra trước mặt nàng lần nữa, “Niall của Scotland,” và nàng hít vào một hơi thật sâu. Nàng thả người trong tư thế ngồi bắt chéo chân trên nền xi măng, di chuyển tới máy tính gần hơn khi nàng tự động lôi một cây bút và cuốn sổ luôn đặt trong cặp máy tính ra để ghi chú.
Bất kể ngài Niall của Scotland này là ai trước khi gia nhập Dòng Đền Thánh, ông ta cũng nhanh chóng nổi lên là chiến binh vĩ đại nhất của nó. Nàng lướt qua những dòng chữ khó đọc trên màn hình, tốc kí những đoạn nàng không hoàn toàn hiểu rõ, hay những từ không quen thuộc với nàng. Nàng không để ý hơi thở mình đã nhanh hơn, hay cảm thấy lượng ô xy tăng lên đang đẩy mạnh sự tập trung của nàng. Thay vào đó nàng cảm thấy như thể nàng đã bị hút vào màn hình, vào trong bản trường ca về một vị thầy tu đã sống và đã chết từ gần bảy trăm năm trước.
Niall có “thân hình to lớn, hơn ba elles rưỡi.” Vì tài liệu này bằng tiếng Pháp, Grace quyết định là các thông số hẳn phải được đo bằng đơn vị ell của người Flanders, hai mươi bảy inch, chứ không phải ba mươi bảy inch như đơn vị đo của Anh. Và mặc dù Niall là người Scot, đơn vị ell của người Scot tương đương với khoảng bốn mươi lăm inch, có nghĩa ba ell của người Scot sẽ khiến cho ông ta cao gần mười hai feet. Đơn vị ell của người Flanders hợp lý hơn, khiến cho người đàn ông cao khoảng sáu feet bốn (1m92), so với người thời đó thì cao to nhưng không quái dị. Người thời trung cổ có kích thước rất khác nhau, tuỳ thuộc vào chế độ dinh dưỡng trong thời thơ ấu của họ. Vài hiệp sĩ nhỏ bé đến lố bịch, những bộ áp giáp của họ trông như là làm cho trẻ con, trong khi những người khác thì to lớn kể cả với tiêu chuẩn của thời hiện đại.
Theo như bài xưng tụng này, Niall bất khả chiến bại trong tài đánh kiếm và các kĩ năng chiến đấu khác. Có hết ghi chú này đến ghi chú khác về các cuộc chiến đấu ông ta đã tham gia, những người Saracen đã bị ông ta giết, những Hiệp sĩ đồng đạo đã được ông ta cứu. Grace cảm thấy như thể nàng đang đọc một câu chuyện về người anh hùng thần thoại kiểu Héc-quyn, chứ không phải là ghi chép thời Trung Cổ về một Hiệp sĩ thánh chiến thực sự. Tất nhiên, các Hiệp sĩ thánh chiến là những chiến binh siêu đẳng, là những người giỏi nhất trong thời đại của họ và tương đương với lực lượng đặc nhiệm trong thời hiện đại.
Nhưng nếu những Hiệp sĩ thánh chiến này thực sự giỏi như vậy, thì tại sao chỉ Niall được đặc biệt ngợi ca một mình? Nàng cho rằng nàng đang đọc các ghi chép thực sự của Hiệp sĩ thánh chiến, và trong lúc những người ngoài dễ dàng bị ấn tượng bởi các Hiệp sĩ vĩ đại, thì bản thân các Hiệp sĩ lại coi những chiến công này là rất bình thường. Không lý gì họ lại thêu dệt về thành tích của chỉ một người.
Nàng cuốn màn hình xuống, và có một đoạn ngắt quãng trong câu chuyện. Nội dung có vẻ như là một bức thư, được kí bởi một người nào đó tên là Valcour. Ông ta tỏ lộ các lo lắng về sự an toàn của “Kho Báu,” và tầm quan trọng của việc bảo vệ nó, một thứ có giá trị “lớn hơn cả vàng.”
Kho Báu. Grace ngồi thẳng lưng lại, hơi nghiêng vai để xoa dịu các chỗ đau nhức. Nàng không biết nàng đã ngồi nhìn đăm đăm vào máy tính bao nhiêu lâu, nhưng chân nàng đã tê dại và các cơ ở cổ và vai nàng cứng ngắc. Có điều gì đó về một kho báu trong các tài liệu nàng đã đọc ở máy tính nhà Kristian, nhưng nàng chỉ đọc lướt qua, vì đang tìm bất kì một lưu ý nào về Niall của Scotland, và nàng đã không đọc kĩ lắm. Nàng nhớ là Hiệp sĩ thánh chiến là một dòng thầy tu cực kì giàu có, đến mức các vị vua chúa và các giáo hoàng đã phải vay vàng từ họ. Kho báu của họ là vàng, vậy thì làm sao chúng lại có giá trị “lớn hơn vàng” được?
Nàng đã gắng gượng với mệt mỏi chỉ nhờ vào sức mạnh của sự tập trung, nhưng giờ đây nó lại đánh vào nàng, tác động vào chân tay và hai mí mắt. Bàn tay nàng đột nhiên vụng về khi nàng thoát khỏi chương trình và lấy đĩa mềm ra, bỏ nó vào lại trong vỏ đĩa. Nàng tắt máy tính và dựa ra sau, gần như rên thành tiếng khi nàng duỗi cặp chân tê cứng và một dòng máu mới chảy tràn vào huyết mạch nhoi nhói.
Nàng vụng về tựa người xuống, ấn mình vào những chiếc hộp đựng đồ trang trí. Nàng có thể cảm nhận giấc ngủ đang đến, sự mất nhận thức ào qua nàng như một dòng thuỷ triều tối đen. Nàng chào đón nó, tuyệt vọng cần sự nghỉ ngơi này. Đôi mí mắt nàng nặng đến nỗi không mở thêm được giây nào nữa. Ý nghĩ cuối cùng của nàng là “Niall,” và nàng đã có một hình ảnh thoáng qua của chàng, cao lớn và mạnh mẽ, vung thanh gươm dài sáu feet với một cánh tay cứng như thép trong khi kẻ thù của chàng đổ như rạ xung quanh, trước khi nàng hoàn toàn bị cơn thuỷ triều nhấn chìm.
Sáu trăm bảy mươi lăm năm trước đó, Niall thức giấc với mọi dây thần kinh tỉnh táo, đầu nhấc khỏi gối. Một chiếc nến đơn độc chảy thành dòng trên giá nến, và ngọn lửa trong lò đã gần tắt. Chàng ước lượng mình đã ngủ được gần một giờ, thoả mãn nhờ màn ân ái nồng nhiệt. Chàng đã nghe thấy – cái gì? Chỉ là một âm thanh thì thầm rất nhẹ, lạ nhưng vì lý do nào đấy không có vẻ đe doạ. Thông thường, nếu chàng đột ngột thức dậy chàng sẽ lăm lăm một tay dao một tay gươm thậm chí trước cả khi mắt mở hoàn toàn. Chàng đã không chạm vào vũ khí của mình, chứng tỏ là các giác quan được rèn luyện trong chiến đấu của chàng không bắt được tín hiệu nguy hiểm nào cả.
Nhưng cái gì đó đã đánh thức chàng, và âm thanh đó rất gần. Chàng nhìn vào người phụ nữ đang ngủ cạnh chàng, ngáy khe khẽ, âm thanh nhỏ hơn cả một tiếng khụt khịt. Đó không phải là thứ đã làm phiền chàng.
Họ đang ở một mình trong phòng, cánh cửa nặng nề đã được cài then cẩn thận, và cánh cửa bí mật bên cạnh lò sưởi đã được đóng lại. Robert không bao giờ tới mà không gởi tin trước. Nhưng Niall cảm thấy như thể ai đó đã ở đó, và sự hiện diện đột ngột của một người lạ đã làm chàng tỉnh giấc.
Chàng ra khỏi giường, cử động khẽ khàng và kiềm chế để Eara tiếp tục ngủ say. Mặc dù chàng không thể thấy có ai trong phòng với chàng ngoài người phụ nữ đang ngủ trên giường, chàng vẫn đi vòng quanh phòng, cố phát hiện một mùi lạ, một tiếng động lạ, bất kì cái gì.
Không có gì cả. Cuối cùng chàng trở lại giường và nằm nhìn chong chong vào đêm tối. Eara vẫn còn ngáy bên cạnh chàng, và chàng bắt đầu thấy khó chịu. Đáng lẽ chàng nên trả cô ta về giường của cô ta sau khi họ đã xong việc. Chàng thích ngủ với phụ nữ, thích sự ấm áp và mềm mại của họ bên cạnh chàng, nhưng đêm nay chàng thích ở một mình hơn. Chàng cảm thấy cực kì cần tập trung vào âm thanh lạ lẫm đã đánh thức chàng, và sự hiện diện của Eara làm chàng mất tập trung.
Chàng cố nhớ lại chính xác âm thanh đó như thế nào. Nó rất nhẹ, gần như một tiếng thở dài.
Ai đó đã gọi tên chàng.
1996
Conrad nắm tóc của gã côn đồ bẩn thỉu, giật đầu gã ra sau. Hắn quan sát hiệu quả công việc của mình. Cả hai mắt của gã côn đồ đều sưng tấy lên gần như sụp hẳn, mũi gã chảy máu be bét vì vỡ sụn, và thay vì chỉ mất vài cái răng giờ gã chẳng còn lại mấy cái. Mặc dù vậy chỗ đó chẳng hơn gì động tác khởi động. Sự thuyết phục thật sự nằm ở chỗ mấy cái xương sườn và ngón tay bị gãy kia.
“Mày đã thấy cô ta,” hắn nói nhẹ nhàng. “Mày đã cướp của cô ta.”
“Không, ông ơi,” Những lời nói sướt mướt, gần như không nghe ra được.
Đó không phải là câu trả lời Conrad muốn. Hắn thở dài, và vặn một trong những ngón tay bị gãy. Tên côn đồ hét lên, cơ thể gã cong lên trong lớp băng dính gắn chặt cổ chân với chân ghế và cổ tay với tay vịn.
“Mày đã thấy cô ta,” hắn kiên nhẫn nhắc lại. “Bọn tôi không còn tiền nữa!” tên côn đồ khóc lóc, lòng can đảm nhỏ xíu của gã đã chẳng còn lại gì.
“Tao không quan tâm tới tiền. Người phụ nữ đã đi đâu?”
“Bọn tôi chạy trối chết khỏi đó, ông ạ! Bọn tôi không léng phéng ở đó, ông biết đấy?”
Conrad nghĩ về việc đó. Tên côn đồ có thể đang nói sự thực. Hắn liếc về thi thể èo uột đằng sau cái ghế. Quá tệ vì tên trẻ da đen đã đánh giá hết sức sai lầm và giơ một con dao ra trước mặt hắn. Có lẽ gã đã chú ý được cái gì đó mà tên này không biết.
Để cho chắc chắn, hắn vặn thêm một ngón tay nữa, và chờ cho đến khi những tiếng thét đã dịu. “Người phụ nữ đi đâu?” hắn hỏi lần nữa.
“Tôi không biết, tôi không biết, tôi không biết!” Hài lòng, Conrad gật đầu. “Cô ta mặc gì?”
“Tôi không biết –”
Conrad với một ngón tay khác, và tên côn đồ hét lên. “Không, đừng, dừng lại!” hắn thét, máu và nước mũi chảy ròng ròng từ cái mũi bị gãy. “Trời mưa, tất cả quần áo của cô ta đều thẫm màu.”
“Quần hay là váy?” Conrad hỏi. Trời đã mưa, và nếu cô ta đã ở ngoài trời suốt thì hẳn là cô ta ướt sũng. Gã nói có lý; hắn không trông mong tên ngu này nhận ra màu sắc vào ban đêm, và lại trong cơn mưa.
“Tôi không – quần. Phải rồi. Có lẽ là quần jean. Không biết nữa.”
“Cô ta có áo mưa, hay áo khoác không?” Thời tiết đã trở lạnh không báo trước. Và thông thường ở Minneapolis trời ấm hơn chứ không lạnh bất thường thế này.
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Áo ngắn hay là dài tay?”
“Ng-ngắn, tôi nghĩ thế. Không chắc.” Hắn hít không khí qua miệng. “Cô ta ôm một cái túi rác, nên che bớt cánh tay.”
Không áo khoác, áo ngắn tay. Cô ta đã bị ướt như chuột lột, và giờ cô ta hẳn phải rất lạnh. Conrad không thèm hỏi có gì trong cái túi đựng rác ấy; đó là một giải pháp dễ hiểu để giữ đống giấy tờ khô ráo. Sawyer hẳn là rất hài lòng.
Cô ta đã rút tiền từ một cây ATM, và cục cứt này đã nhanh chóng cướp của cô ta. Cô ta không có tiền, không có bất kì phương tiện nào để sống sót. Conrad nghĩ hắn sẽ tìm ra cô ta trong vòng một ngày, nếu lúc đó cô ta vẫn còn chưa tìm tới cảnh sát. Mặc dù Sawyer kiểm soát được mọi việc nếu cô ta có tố cáo ông ta, Conrad vẫn thích tự mình tìm ra cô ta hơn. Thế sẽ dễ hơn.
Hắn nhìn vào đống rác người trên ghế. Tên côn đồ chẳng đáng được tha thứ. Hắn chẳng có kĩ năng, chẳng có đạo đức, chẳng có giá trị gì hết.
Một viên đạn sẽ là cách diệt trừ sâu bọ quá đắt, và lại quá nhanh. Conrad giơ bàn tay đeo găng ra và thít chặt quanh cổ họng tên côn đồ, thành thạo siết thanh quản của gã. Để mặc gã sụm xuống ghế, Conrad bước ra khỏi ngôi nhà bỏ hoang trong khu vực tồi tệ nhất thành phố. Hắn di chuyển nhẹ nhàng, không vội vã. Những tiếng thét là chuyện thường trong khu vực này. Chẳng ai thèm chú tâm đến hắn.