Con Trai Của Bình Minh

CHƯƠNG 18



Mùa xuân nhẹ nhàng đến trên Cao nguyên. Đang là tháng Năm, và những ngọn núi được phủ một lớp thảm xanh rì. Những ngày lạnh lẽo, mù sương đột nhiên nhường đường cho ánh mặt trời rạng rỡ và bầu trời trong trẻo đến nhức mắt khi nàng nhìn vào. Từ đâu đó văng vẳng âm thanh, một tiếng vọng mờ nhạt của kèn túi[1], và âm thanh buồn man mác của nó khiến lòng nàng khóc than.
Nàng đã mất tới bốn tháng để đến đây. Đầu tiên nàng đơn giản là tiếp tục lái xe, đi về phương nam, rẽ sang hướng đông. Mùa chuyển đổi khi nàng đi, càng đi xa hơn về hướng nam nàng càng thấy mùa đông dần dần buông tay, và vào giữa tháng Hai, tại Tennessee, nàng đã thấy bông hoa đầu tiên nở rộ. Có vẻ như nó là cả một điều kì diệu, trong hình hài của một bông trường thọ màu vàng vui vẻ, đến nỗi nàng dừng xe, và nghỉ ngơi, và lên kế hoạch.
Người dân địa phương nói mùa xuân tới sớm sau một mùa đông dễ chịu. Những bông trường thọ nở sớm hơn vài tuần so với thông thường. Mùa đông ở Minnesota không dễ chịu gì, nhưng đi xuống phía nam tám trăm dặm đã đưa nàng vào một vùng khí hậu khác, một thế giới khác.
Nàng nhanh chóng nhận ra nàng không thể làm việc này một mình, và chỉ có một người duy nhất nàng có thể nghĩ tới để gọi. Harmony im lặng lắng nghe Grace yêu cầu chị ta đi cùng nàng tới Scotland trong một khoảng thời gian chưa biết là bao lâu.
“Scotland,” cuối cùng chị nói. “Họ không còn sơn mặt màu xanh dương nữa chứ?”
“Chỉ trong phim thôi.”
“Tôi không có hộ chiếu.”
“Cái đó dễ xin lắm, nếu chị có giấy khai sinh.”
“Cô nói cô cần tôi giúp làm gì đó. Cho là cô có thể nói cho tôi biết chính xác tôi sẽ phải làm gì?” “Nếu chị đi,” Grace nói.
“Tôi sẽ suy nghĩ. Gọi lại cho tôi sau vài ngày nữa.”
Grace cho chị ba ngày, rồi gọi lại. “Okay,” Harmony nói. “Nếu tôi đi, tôi sẽ làm việc gì đó bất hợp pháp phải không?”
“Không, tôi không nghĩ vậy.” Cân nhắc đến chuyện nàng phải lường trước những điều khó lường, Grace không thể thề rằng nàng sẽ tuân thủ luật pháp.
“Nguy hiểm không?”
“Có.”
Harmony thở dài. “Chà, quỷ thật,” chị lè nhè. “Cô làm cho tôi khó mà chối từ, đúng không? Tôi sẽ đi khoảng bao lâu? Tôi phải nhờ người trông chừng nhà cửa, cô biết đấy.”
“Tôi không biết. Một vài ngày, một vài tuần. Tôi sẽ trả tất cả chi phí –”
“Nếu đi thì tôi tự trả. Theo cách đó, nếu tôi thấy bực, tôi sẽ không thấy bị ép buộc phải ở lại.” Chị im lặng một lát, và Grace có thể nghe thấy chị gõ ngón tay lên điện thoại. “Tôi còn một câu hỏi nữa.”
“Okay.”
“Tên thật của cô là gì?”
Grace do dự. Cảm giác kì lạ khi nói ra tên của chính mình. Lần duy nhất nàng nghe thấy nó trong hàng tháng trời qua là khi Kris gọi. Nàng đã trải qua quá nhiều cái tên đến nỗi đôi khi nàng thấy mình như không có danh tính. “Grace,” nàng khẽ nói. “Grace St. John. Nhưng tôi sẽ đi dưới cái tên Louisa Croley; đó là cái tên trên hộ chiếu và bằng lái xe của tôi.”
“Grace.” Harmony thở dài. “Cứt thật. Nếu cô nói dối tôi đã có thể nói không.”
 
Tìm ra Creag Dhu tốn thêm chút thời gian, Grace và Harmony ở Edinburgh hơn một tuần Grace mới lần ra được cái tên, và rồi nó lại ở một vùng hẻo lánh ở Cao nguyên phía tây đến nỗi gần như không tới được. Trong khi Grace nghiên cứu, Harmony khám phá Edinburgh. Chị đi thăm lâu đài, đi thăm Holyrood House[2], chị đi du lịch một ngày tới St.Andrews và Perth. Mãi tới khi thực sự tìm được Creag Dhu Grace mới nói cho Harmony biết nàng sắp làm gì, Harmony cười vào mặt nàng, nhưng khi Grace lặng lẽ chuẩn bị, Harmony thở dài và bắt tay vào giúp. Chị không cười khi nghe kể về Ford và Bryant.
Khi đã tập hợp tất cả mọi thứ, Grace thuê một chiếc xe và họ lái tới ngôi làng nhỏ ở Cao nguyên cách nơi được cho là Creag Dhu năm dặm. Chỗ trọ duy nhất trong làng là một nhà nghỉ có ăn sáng[3], họ thuê ở đó, nhưng quán rượu địa phương là mỏ tin đồn. Harmony có thể uống ngang ngửa với một người Scot uống giỏi và vẫn giữ được tỉnh táo, bất kể đó là bia hay whisky, và như một phần thưởng họ trả lời mọi câu hỏi của chị.
Phải, một người Mỹ bảnh choẹ đã đến đây khoảng hai tháng trước, quyết tâm đào bới đống đá lớn. Cơn bão đã làm chậm chân anh ta một chút, biến đất thành bùn và khiến việc đi tới đó hơi khó khăn, nhưng từ lúc ấy thời tiết đã trở nên khá là thuận hoà và nghe nói anh ta đã tiến triển khá trong công việc.
“Chẳng bao lâu nữa hắn sẽ tìm được,” Grace nói khi Harmony báo lại với nàng. “Tôi không thể chờ thêm nữa; tôi phải đi.”
“Cô nói cứ như chuyến này được bảo kê rồi ấy,” Harmony càu nhàu nói. “Cứ như không phải là cô sắp giật bắn mông mình lên ấy.”
“Có thể,” Grace trả lời. Trong những giờ phút suy nghĩ hợp lý hơn, nàng biết đó chính xác là điều có thể xảy ra. Nhưng rồi nàng nghĩ về những tài liệu và những điều nàng đã đọc, và những giấc mơ, cảm giác thôi thúc, và nàng biết nàng phải thử bất kể việc này nghe điên rồ như thế nào.
Nàng không hề có giấc mơ nào kể từ khi tới Scotland. Tất cả mọi thứ đều lạ lẫm, như thể một bức màn được phủ xuống giữa nàng và mọi người khác. Không có gì hoàn toàn chạm được nàng, không sợ hãi hay tức giận hay thậm chí là những thứ trần tục như cơn đói. Một phần cốt lõi của nàng đã ra đi, quay lưng lại với thời đại này. Nàng biết nàng sẽ đi, và nàng phải chuẩn bị kĩ càng hết sức có thể.
Họ sắp đặt mọi thứ ngay sau bữa trưa của ngày kế tiếp, lái xe xa hết mức có thể, rồi ra khỏi xe và đi bộ. Đám mây của cơn bão vần vũ ở hướng tây, vượt trên đại dương, và bóng núi tím ngắt dưới bầu trời xanh và vàng loè loẹt.
Grace cẩn thận ngẫm nghĩ về việc di chuyển. Tài liệu đã cho nàng công thức cho thời gian, nhưng không cho nàng không gian. Nàng quyết định rằng không gian sẽ không đổi; nơi nàng đang đứng khi nàng vượt thời gian sẽ là nơi nàng tới. Đứng ở giữa đống đổ nát của Creag Dhu sẽ hoàn hảo, nhưng nàng thậm chí không dám đi lại đủ gần để nhìn nó. Nàng phải bằng lòng với việc tới gần hết mức có thể, rồi đi bộ quãng đường còn lại tới lâu đài khi nàng đã đến thời đại đó.
Con đường hẹp họ chọn giống một đường mòn nhỏ hơn, và nó cùng đường khi họ vẫn còn cách phế tích ba dặm. Tập hợp những thứ của Grace lại, hai người phụ nữ bỏ chiếc xe và đi bộ lên cao trên núi.
Không khí ngọt ngào và tươi mát, một con chim cất tiếng hót cao và đơn độc, Grace có thể cảm nhận được cái gì đó đang lôi kéo nàng, một sự dự đoán âm thầm, một nhu cầu.
“Tại sao chúng ta không chỉ bắn chết tên chó đẻ ấy?” Harmony đột nhiên gợi ý, ngẩng mái đầu vàng chanh của mình lên trong cơn gió. Lỗ mũi chị phập phồng, đôi mắt xanh nhạt nheo lại. Trông chị như một vị nữ thần chiến tranh ngoại lai nào đó, sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù. “Nó dễ dàng hơn, gọn ghẽ hơn, và đảm bảo chắc ăn hơn đến tỷ lần.”
“Bởi vì nó không chỉ là Parrish, mà là Tổ chức. Thậm chí nếu chúng ta giết hắn, một kẻ khác sẽ thế chỗ.” Cuối cùng nàng đã vươn tới kết luận đó, và tìm thấy một chút yên bình trong đó. Nàng sẽ rất sung sướng được giết Parrish và kết thúc mọi chuyện, báo thù và bước đi. Nhưng nàng không thể. Tổ chức của Quỷ… nàng không thể để Tổ chức kiểm soát Kho báu.
Nàng xác định địa điểm nàng muốn, và chỉ nó cho Harmony. Một hõm đá gần như ở trên đỉnh núi. Họ cẩn trọng trèo lên, chân họ thay phiên ngập trong cỏ ướt và trượt trên đá trơn. Khi họ tới đích, họ đứng lặng lẽ nhìn vào thung lũng trống trải bên dưới, và đám sương đang tới từ biển. Không nhìn được khu Creag Dhu; nó nằm ở ngọn núi bên kia. Dân địa phương nói rằng nó là một lòng chảo đá đen, chìa ra ngoài biển. Grace cố mường tượng nó trong đầu nàng, nhưng mặc dù nàng đã nhìn thấy vô số những khu khai quật khảo cổ học, hình ảnh hình thành trong đầu nàng là của một toà lâu đài lớn khi nó vẫn còn nguyên vẹn, sừng sững đen ngòm trên mặt biển xám xịt giận dữ.
“Cô có chắc đã mang theo mọi thứ chưa?” Harmony hỏi, đặt đống đồ của chị lên mặt đất và nhanh chóng sắp xếp.
“Chắc mà.” Nàng đã lên một danh sách trong khi vẫn còn ở Mỹ, và đã bắt đầu sự chuẩn bị từ khi ấy. Theo các hướng dẫn, nàng đã thay thế thực đơn hàng ngày của mình từ hơn một tuần trước, biến đổi nó tới từng chi tiết. Nàng cúi xuống và gắn hai đầu điện cực vào hai cổ chân, buộc chúng vào chỗ.
Nàng cảm thấy sự thờ ơ của mình làm Harmony lo lắng. “Tôi ổn mà,” nàng nói để trả lời cho câu hỏi không được nêu lên. “Nếu không được thì là không được thôi. Tôi sẽ bị sốc, nhưng cũng không đủ để bị chết đâu.”
“Cô hi vọng thế,” Harmony gầm gừ, sự khó chịu của chị gia tăng.
“Nếu thành công – tôi không biết liệu có bất kì thứ gì trong số đồ này đi cùng với tôi được, hay là tôi sẽ đột ngột trần trụi hiện ra ở đó. Nếu nó không đi, hãy mang nó lại làng và làm việc gì chị muốn với nó.”
“Chắc rồi. Tôi đã luôn muốn một chiếc váy nhung bé hơn ba cỡ và ngắn hơn một foot so với tôi.”
“Dù thế nào tôi cũng bỏ lại cái laptop. Tôi đã xoá mọi ghi chú của mình trong đĩa cứng, nhưng nhật kí của tôi vẫn còn. Tôi đã ghi lại mọi thứ. Nếu bất kì điều gì xảy đến với tôi và tôi không thể trở lại…” Nàng nhún vai. “Ít nhất cũng có một bản ghi chép về những việc đã xảy ra.”
“Tôi được cho là phải chờ bao lâu?” Harmony giận dữ hỏi.
“Tôi không biết. Tôi để tuỳ chị.”
“Chết tiệt, Grace!” Harmony xoay sang nàng, mặt đỏ lên vì giận, nhưng chị nín lại những lời bực tức và chỉ lắc đầu. “Tôi không thể với tới cô được phải không? Trong đầu cô, cô đã ở đó rồi.”
“Tôi biết chị không hiểu. Tôi cũng không.” Ngọn gió ép chiếc váy vào người nàng và tung tóc nàng, đẩy chúng ra phía sau. Thung lũng trải ra bên dưới nàng nhưng nàng không nhìn thấy nó, đôi mắt nàng nhìn xa hơn. “Đã một năm kể từ khi Ford và Bryant bị giết. Tôi vẫn không thể khóc cho họ. Giống như là tôi không đáng, bởi vì tôi đã chẳng làm được gì để báo thù cho họ cả.”
“Cô chưa có thời gian để khóc.” Giọng Harmony thô ráp. “Cô quá bận bịu giữ mình sống sót.”
“Tôi vẫn chưa tới mộ của họ. Tôi đã trở về Minneapolis sáu tháng, và tôi không đi tìm mộ họ. Tôi không đặt hoa lên mộ họ.”
“Một việc quá tốt. Từ những gì cô kể cho tôi, tên con hoang Parrish này sẽ cử người canh chừng nghĩa trang. Chắc chắn chúng sẽ vồ lấy cô.”
“Có thể. Nhưng tôi cũng sẽ không đi cho dù tôi biết là an toàn. Vẫn chưa được. Có lẽ khi tôi trở lại.”
Sau đó, dường như không còn điều gì để nói. Harmony ôm nàng, đôi mắt xanh lục ươn ướt, rồi chị bước đi thật nhanh.
Grace ngồi xuống đống đá và mở máy tính, bật lên. Nàng vào trong nhật kí của nàng và cố tập trung suy nghĩ. Thật vô ích; chúng phi vèo vèo như những con én. Cuối cùng nàng thôi không cố gắng và chỉ đơn giản bắt đầu gõ.
“17 tháng Năm – báo thù chiếm trọn cuộc đời bạn. Tôi chưa bao giờ nhận ra điều này trước đây, nhưng vì trước đây tôi chưa từng thù hận. Một giây trước cuộc đời tôi bình thường và an toàn, hạnh phúc – giây phút tiếp theo mọi thứ đều biến mất. Chồng tôi, anh trai tôi… Tôi đã mất cả hai.
Chú thích:
[1] Loại kèn dân tộc của Scotland
[2] Lâu đài, nơi ở của Nữ hoàng Scotland
[3] Bed-and-breakfast: nhà trọ tư nhân có cung cấp bữa sáng, thường là nhà dân có nhiều phòng ngủ.
“Mọi thứ biến chuyển thật kì lạ, làm sao mà trong nháy mắt cuộc đời của một con người lại đi từ bình thường – thậm chí tầm thường – tới một cơn ác mộng của sự sợ hãi, nghi kị và gần như là vụn vỡ đau thương. Không, tôi không khóc. Tôi đã phong kín nỗi đau trong lòng mình, một vết thương không thể liền lại, bởi vì tôi không dám để nó ra ngoài. Tôi phải tập trung vào những việc phải làm, còn hơn là cho phép bản thân được tiếc thương những người thân đã mất. Nếu tôi chùn bước, nếu tôi hạ tấm màn bảo vệ xuống dù chỉ một chút thôi, thì cả tôi cũng chết.
“Cuộc đời tôi giống như thuộc về một người khác. Cái gì đó rất sai, rất nghịch lý, nhưng là cái gì: trước đây hay là bây giờ? Giống như thể hai nửa không ăn khớp, phần kia hay là phần này đơn giản không phải là cuộc đời tôi. Đôi khi tôi không thể cảm nhận được một chút liên kết nào với người phụ nữ đã từng là tôi, trước cái đêm đó.
“Trước đây, tôi là vợ. Giờ, tôi là goá phụ. Tôi đã có một gia đình, nhỏ thôi nhưng thân thuộc, và thương mến đến nhức nhối. Không còn nữa.”
“Tôi đã có một sự nghiệp, một trong những nghề nghiệp không tiếng tăm, thách thức về mặt trí tuệ mà trong đó tôi có thể, và đã, đánh mất bản thân mình trong những tấm giấy da cổ bụi bặm và những cuốn sách nhỏ quí giá chưa được biết tới, nơi trí óc tôi lang thang trong quá khứ lâu đến mức khiến Ford đôi khi trêu tôi về việc đã sinh ra nhầm thời. Cả cái đó cũng đã mất rồi. Giờ tôi phải chạy, phải trốn, hoặc là cả tôi cũng sẽ bị giết. Tôi đã bỏ ra hàng tháng trời bò lê từ cái hố này tới hố kia như một con chuột, vác những bản viết tay bị đánh cắp và bản dịch cổ ngữ đi khắp nơi. Tôi đã học cách thay đổi hình dáng, làm sao để tạo một nhân thân giả mạo, làm sao để ăn trộm một chiếc ô tô nếu cần thiết. Thi thoảng tôi ăn, nhưng không ngon miệng. Ford sẽ không nhận ra tôi. Chồng tôi sẽ không biết tôi! Nhưng tôi không thể để mình nghĩ về chuyện đó.”
“Làm sao tôi lại tới mức này? Một câu hỏi tu từ. Tôi biết nó đã diễn ra thế nào. Tôi đã nhìn nó diễn ra. Tôi đã nhìn thấy Parrish giết cả hai. Không có sự quá độ giữa trước đây và bây giờ, không có thời gian để điều chỉnh. Tôi đã đi từ người được kính trọng sang kẻ trốn chạy trong khoảng thời gian vài phút choáng váng. Từ vợ thành goá phụ, từ em gái thành kẻ sống sót, từ bình thường trở thành… thế này.”
“Chỉ có hận thù giúp tôi tiếp tục. Hận thù mạnh mẽ và cháy bỏng và đơn thuần tới mức đôi khi tôi cảm thấy choáng ngợp vì nó. Hận thù có thể gột rửa con người không? Nó có thể đốt cháy hết những rào cản nhỏ ngăn bạn khỏi hành động không? Tôi nghĩ là có. Tôi nghĩ mối hận của tôi đã làm thế. Tôi muốn Parrish trả giá cho những gì hắn đã làm với cuộc đời tôi, trả giá cho cái chết của những người tôi yêu. Tôi muốn hắn chết. Nhưng tôi không muốn Ford và Bryant chết vô ích, vì thế tôi phải tấn công cả Tổ chức, chứ không chỉ Parrish.”
“Tôi không biết phải mất bao lâu mới tới được đích đến của mình. Tôi không biết liệu tôi có thể kịp thời gian (một kiểu chơi chữ tồi) hay là tôi sẽ chết trong lúc cố gắng. Tất cả những gì tôi có thể làm là cố gắng, bởi vì thù hận, hay báo thù, là tất cả những gì tôi còn lại.”
“Tôi phải tìm Niall Đen.” Nàng dừng gõ, nhìn chằm chằm vào những chữ trên màn hình. Khi còn học đại học nàng đã giữ một cuốn nhật kí bằng giấy, với lớp bìa da mềm mại. Ford đã tặng nó cho nàng vào Giáng sinh đầu tiên sau khi họ bắt đầu hò hẹn. Nàng đã định dùng nó để ghi lại công việc của mình, những suy nghĩ về công việc, cuộc nghiên cứu và dịch thuật diễn ra thế nào; thay vào đó nó đã trở thành một cuốn nhật kí riêng tư, và khi nàng chuyển sang laptop thói quen đó đã theo nàng sang những trang giấy điện tử.
Trong cuốn nhật kí nàng đã ghi lại cuộc chạy trốn của nàng khỏi Parrish Sawyer. Đó cũng là nơi duy nhất nàng để cho nỗi tiếc thương bị kìm nén bên trong đổ ra, vì chỉ ở đó nàng mới khóc than cho Ford và Bryant. Nàng cũng ghi chép từng ngày niềm đam mê ngày càng sâu sắc, và cảm giác đối chọi nhau giữa nghi ngờ và tôn kính, với những thứ nàng đã khám phá ra trong bản chép tay cổ mà vì nó Parrish đã giết người. Nàng đã muốn bỏ qua chúng, nhưng nàng không thể; có quá nhiều chi tiết gắn kết với nhau, quá nhiều sự trùng hợp để chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Chắc chắn Parrish không bỏ qua những điều bí mật chứa trong tập tài liệu. Và đến cuối cùng, cả nàng cũng đã tin vào nó.
Nàng cẩn thận đóng file và tắt laptop, đặt nó an toàn ở một bên. Nàng không biết liệu có bài báo nào nàng đã tập hợp đi cùng với nàng được không, hay liệu nàng có tới đó – hay tới thời gian đó – mà không có bất kì cái gì, cho dù là một nhúm quần áo. Nàng đã không nói đùa về chuyện trần truồng hiện ra.
Nàng không biết chắc bất kì điều gì, thậm chí là liệu cái quy trình chết tiệt này có hoạt động hay không. Nếu không, ít nhất chỉ có Harmony chứng kiến cái gọi là tự biến mình thành cô ngốc vĩ đại của nàng. Và nếu nó không thành công, nàng sẽ phải tìm một cách khác để ngăn Parrish và Tổ chức. Nhưng nếu nó có thành công…
Nàng hít một hơi thở sâu. Nàng đã có mọi thứ sẵn sàng. Nàng đã kiểm tra một lần rồi hai lần các số đo của nàng, và thêm một lần nữa. Nàng đã tìm đúng môi trường khoáng chất, những tảng đá, để có tính dẫn điện tốt hơn. Nàng đã uống đúng lượng nước, tính toán theo số cân nặng của nàng và thời gian nàng cần phải đi ngược, nhiều nước đến nỗi nàng thấy mình phù lên. Nàng đã ăn những thứ cần ăn, triệt để thay đổi các hoá chất trong cơ thể mình. Nàng đã chuẩn bị cho mình về mặt tinh thần, tập dượt lại những gì nàng sẽ làm, trình tự làm việc đó. Thậm chí cả thời tiết cũng hợp tác, với cơn bão gần bờ đang ngày một gần hơn, để cho không khí khô và lách tách tích điện. Cơn bão là không cần thiết, nhưng sự hiện diện của nó dường như là một điềm lành.
Đã đến lúc. Grace nhặt chiếc túi lớn bằng vải bao bố thô ráp nàng đã tự khâu lên, và ôm nó vào ngực. Nàng và Harmony cũng đã tự may bộ váy áo nặng nề, lỗi thời nàng đang mặc, mặc dù cả hai bọn họ đều không giỏi với việc may vá. Ít nhất thời trang của đầu thế kỉ mười bốn cũng đơn giản. Nàng đang mặc một chiếc váy vải thun trơn, với tay áo dài và cổ viền tròn, không bó một chút nào cả. Bên ngoài nó là một bộ váy khác, một chiếc váy không tay bằng sợi len tốt và mềm. Chiếc váy trong gọi là váy dài[1], chiếc váy ngoài gọi là áo vét nữ[2]. Trong túi là một chiếc áo vét bằng nhung nặng, phòng trường hợp nàng cần tỏ ra có địa vị một chút. Một cuộn len đan được gập trong túi, để dùng như một chiếc khăn quàng nếu nàng cần tới.
Nàng đã cẩn trọng mua một đôi giày da đanh[3] làm bằng tay khi nàng ở Tennessee, và lớp da mềm mại ôm lấy chân nàng. Nàng đi tất dài màu trắng, được cột chặt bằng nịt ruy-băng kiểu cũ mà nàng buộc trên đầu gối. Nàng không mặc áo lót hay quần lót, vì chẳng có thứ gì gọi là đồ lót vào thời ấy cả.
Không có một dải nhựa hay mác quần áo nào được để lại để cho người khác nghi ngờ. Mái tóc dài của nàng được tết thành một bím dày, theo kiểu nàng đã làm từ rất lâu rồi. Nàng che đầu bằng một chiếc khăn quàng cổ dày, buộc hai đầu đằng sau gáy. Thứ duy nhất nàng mang đi để dùng như tiền là một ít đồ trang sức, khuyên tai và chiếc nhẫn cưới mà nàng đã đeo khi tất cả những chuyện này xảy ra. Nàng hi vọng không có gì trong vẻ ngoài của nàng không thích hợp một cách rõ ràng. Những thứ nàng mang theo trong chiếc túi vải bao bố cũng đủ khiến cho nàng bị thiêu sống vì tội phù thuỷ nếu nàng bị bắt. Cơn bão đang tới gần hơn, sấm chớp vang vọng như chiêng đồng. Bây giờ hoặc không bao giờ, nàng nghĩ. Nàng phải nhanh lên để Harmony có thể thu nhặt chiếc laptop; cơn mưa sẽ không tốt cho nó.
Nàng cẩn thận đặt một chân lên nút công tắc nàng đã sắp đặt, giữ cho cơ thể chỉ hơi dẫm lên nó. Nàng có thể cảm nhận được hai điện cực nơi nàng đã buộc vào cổ chân, và tự hỏi làm thế nào họ làm được điều này trong thời đại trước khi điện cực và ắc qui tồn tại.
Nhắm mắt, nàng bắt đầu thở sâu, chậm rãi, và buộc mình tập trung vào Niall Đen. Nàng đã làm tất cả những gì cần làm để có thể trở lại đúng sáu trăm bảy mươi lăm năm trước, nhưng nàng cảm thấy như thể nàng cần một mục tiêu. Chàng là mục tiêu duy nhất nàng có, người đàn ông đã sống gần bảy trăm năm trước này. Không có một tấm chân dung nào của chàng, thậm chí là một bức vẽ thô sơ như những thứ thường có vào thời đó, để cho nàng mang vào trong đầu mình. Tất cả những gì nàng có thể làm là tập trung vào chàng, người đàn ông đó, phần cốt lõi của chàng.
Nàng biết chàng. Ôi, nàng biết chàng chứ. Chàng đã dày vò nàng hàng tháng trời, sở hữu trí óc tỉnh táo của nàng trong khi nàng vận lộn để giải mã tập tài liệu cổ, rồi xâm nhập vào những giấc mơ của nàng với những hình ảnh sống động tới mức đôi khi nàng thức dậy và thấy mình đang nói chuyện với chàng trong giấc ngủ, và luôn luôn – luôn luôn – nàng cảm thấy như chàng chỉ vừa ở đó. Chàng đã làm tình với nàng trong mơ, tra tấn nàng với bản năng giới tính trong tiềm thức. Niall Đen trong một khía cạnh nào đó đã là cứu tinh của nàng, vì chàng đã cho nàng hi vọng. Sự mạnh mẽ của cá tính chàng, của người đàn ông vĩ-đại-hơn-cuộc-sống là chàng, đã vươn tới với nàng vượt qua khoảng cách bảy thế kỉ. Bằng cách nào đó, chàng biết nàng, và đã ngăn nàng khỏi chìm vào vực thẳm tuyệt vọng. Đã có những lần, trong suốt những tháng ngày qua, khi chàng còn thật hơn cả thế giới xung quanh nàng.
Hình ảnh của chàng bắt đầu tràn ngập tâm trí nàng, thành hình để chống lại bóng tối khi nàng nhắm mắt lại: một người đàn ông sống động như tia chớp, mạnh mẽ như sấm. Nàng mập mờ nhận ra rằng tập trung vào hình ảnh tưởng tượng của nàng về chàng, thay vì thực tế là rất nguy hiểm, nhưng nàng không thể chuyển tâm trí mình thành một bức màn trống rỗng. Nàng có thể cảm thấy chàng, tiến đến gần hơn. Chàng đang ở đó, chàng đang ở đó…
Hít thở sâu và chậm. Kéo không khí vào một bên mũi, xoay vòng, thở ra ở mũi bên kia. Hoàn tất vòng quay, hết lần này đến lần khác. Hít vào. Thở ra…
Nàng nhìn thấy mắt chàng, đen và dữ dội, cháy rực qua lớp sương mù của thời gian cho đến khi nó giống như chàng đang nhìn chằm chằm vào mắt nàng. Nàng nhìn thấy sống mũi cao, nhỏ của chàng, mái tóc đen dày xoã xuống đôi vai cơ bắp, hai bím tóc nhỏ ở mỗi bên thái dương theo kiểu Xen-tơ cổ.
Nàng nhìn thấy miệng chàng mở ra khi chàng rống lên ra lệnh. Nàng mơ màng hiểu được xung quanh chàng là sự hỗn loạn và kinh hoàng của một trận chiến, nhưng chàng là hình ảnh duy nhất rõ ràng. Nàng nhìn thấy một thoáng yếu ớt, lấp lánh của mặt trời trên lưỡi gươm của chàng khi chàng vung thứ vũ khí to lớn bằng một cánh tay khoẻ mạnh. Cánh tay còn lại cầm một chiếc rìu đáng sợ thay vì một tấm khiên, và cả hai vũ khí đều dính máu khi chàng đâm và gạt, hạ hết đối thủ này đến đối thủ khác.
Vào. Ra. Không khí vòng quanh và vòng quanh trong nàng, lôi kéo nàng nhỏ hơn, chặt hơn, trí óc nàng buộc chặt hơn nữa vào người đàn ông là mục tiêu của nàng. Đường xoắn ốc bắt đầu hạ xuống, bao bọc quanh nàng, tạo ra một cảm giác bị hút vào, và nàng biết nàng gần như đã sẵn sàng để ra đi.
Niall! Niall Đen! Trong đầu nàng gọi chàng, hét lên tên chàng, niềm khao khát của nàng mãnh liệt và mạnh mẽ đến mức nó nhức nhối trong từng tế bào của nàng. Nàng có cảm giác bị nén, bị cô đọng, bị tụ lại. Trong đầu nàng nàng nhìn thấy đầu chàng giật sang bên vì ngạc nhiên, như thể chàng nghe thấy tiếng kêu vẳng từ xa xăm của nàng, và rồi hình ảnh của chàng bắt đầu tụ lại, giật nàng, kéo nàng xuống một hố đen. Nàng tập trung hoàn toàn vào cột hải đăng là chàng, giống như một phi công không nghi ngờ gì lái chiếc máy bay hạ cánh theo tín hiệu ra đi ô. Với mảnh nhận thức cuối cùng nàng để cho chân mình thả lỏng trên nút công tắc, và thế giới nổ bùm trong một tia chớp sáng loà và nóng rực.
Chú thích:
[1] Kirtle, kiểu trang phục TK 14
[2] Surcoat, kiểu trang phục TK 15,16
[3] Moccasin: giày da đanh của thổ dân Bắc Mỹ

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.