Câu chuyện cùng người con gái
Mãi về sau, Erlendur mới tìm được chuyện để nói với con gái. Ông đã nghiên cứu rất kỹ ở Thư viện Quốc gia, tập hợp thông tin trên báo chí – những ấn bản được phát hành năm 1 910- năm mà sao chổi Halley b ăng qua Trái đất với cái đuôi mà ng ười ta cho rằng ch ứa đầy ch ất độc xy- a- nua. Ông được đặc cách cho phép đọc trên giấy tờ thay vì đọc trên máy vi phim. Ông thích được vùi đầu vào sách vở và báo cũ, thích ngh e tiếng những trang giấy sột soạt, thích hít thở mùi giấy đã ố vàng và cảm nhận mùi thời gian để lại trên những trang giấy cứng, bây giờ và mãi mãi.
Khi Erlendur ngồi xuống bên giường bệnh của Eva Lind và bắt đầu kể cho con bé nghe v ề việc phát hiện ra bộ x ương ở Grafarholt, trời đã bắt đầu sập tối. Ôngk ể cho nó nghe chuy ện các nhà khảo cổ phân chia khu đất có bộ xương thành các khu vực nhỏ, kể chu yện Skarphédinn có nh ững chiếc răng nanh khiến ông ta khô ng thể ng ậm miệng lại được. Ông nói về nh ững bụi cây lý chua và những miêu tả lạ lùng của ông già Róbert về một côgái méo mó mặc đồ màu xanh. Ông k ể về Benjamín Knudsen và vợ chưa cưới của ông ta – ng ười bỗng dưng một ngày biến m ất, và tác động của việc đó đối với chàng trai. Ông cũng nh ắc đến Höskuldur, người đã thuê ngôi nhà gỗ trong chiến tranh, và kể về việc Benjamín nói rằng có một ng ười phụ nữ sống trên đồi được sinh ra ở thùng ch ứa ga sau cái đêm mà tất cả mọi ng ười cho rằng th ế giới sẽ bị hủy diệt.
“Đó là năm Mark Twain 1 mất,” Erlendur nói.
Sao chổi Halley lao thẳng xuống trái đất với một tốc độ kinh hoàng, đuôi của nó chứa đầy khí độc. Thậm chí nếu Trái đất không bị vỡ vụ thành những mảnh nhỏ sau vụ va chạm, người ta vẫn tin rằng cái đuôi sao chổi sẽ quét qua trái đất và tất cả mọi sinh vật sẽ ch ết hết. Những người lo sợ nhất thì cho rằng họ sẽ bị lửa và axit thiêu rụi. Cơn hoảng loạn bùng nổ, không chỉở Iceland mà ở khắp nơi trên toàn th ế giới. Ở Áo, Trieste và Dalmatia, ng ười ta bán tất cả tài sản của mình chỉ tron g nháy mắt để lao vào nh ững trò tiêu khiển tro ng qu ãng đời ngắn ngủi còn lại của mình. Ở Thụy Sĩ, các trường tư thục dành cho n ữ sinh v ắng không một bón g ng ười vì các gia đình cho rằng họ nên ở bên nh au vào giây phút ngôi sao ch ổi hủy diệt trái đất. Giới tu sĩ được dạy cách nói theo các thu ật ngữ thôn g thường về thiên văn học để xoa dịu nỗi s ợ hãi của con ng ười.
Ở Reykjavík, người ta nói rằng phụ nữ trốn vào g ầm giường vì sợ ngày tậ n thế, rất nhiều người tin rằng “mùa xuân lạnh lẽo năm đó là do sao ch ổi gây nên”, theo nh ư một tờ báo đã nói. Ng ười già bắt đầu nói về ch uy ện thời tiết tồi tệ như thế nào trong 1 Mark Twain là một nhà vănnổi tiếng ngườiMỹ, ông sinh ra vào chính ngày sao chổi Halley xuất hiệnnăm 1835 và mất đúng vào lần sao chổi Halley xuất hiệnlạinăm 1910.lần sao chổi đến g ần T rái đất trước đó.
Vào kho ảng thời gian đó, ở Rey kjavík, khí đốt được cho là chìa khóa d ẫn đến tương lai. Đèn khí đốt được sử d ụng rộng rãi tron g thàn h ph ố, m ặc dù nó khô ng phổ biến đến m ức trở thành đèn thắp sáng trên đường phố nh ưng ng ười dân v ẫn đốt ch úng trong nhà mình. Bước tiếp theo trong kế hoạch là xây dựng một nhà máy sản xu ất khí đốt hiện đại ở vù ng ngo ại ô để đáp ứng toàn bộ nhu cầu tiêu thụ gas của người d ân trong nhiều thập kỷ tới. Thị trưởng thành ph ố Reykjavík đã đàm phán với một công ty của Đức, và Carl Franke – m ột kỹ sư – đã đi từ Brem en đến Reykjavík cùng v ới m ột nhóm chuyên gia khác để xây dựn g nhà máy sản xuất khí đốt Reykjavík. Nó đi vào hoạt động vào mùa thu n ăm 19 10.
Bản thân cái thùng là một cái máy kh ổng lồ với dun g tích lên đến một nghìn n ăm trăm mét khối. Nó được gọi là “th ùng chuông” vì nó có th ể nổi trên m ặt n ước ở các m ức độ khác nhau phụ thuộc vào lượn g khí đốt bên trong. Ch ưa bao giờ nhìn thấy m ột thứ gì kỳ lạ nh ư thế, ng ười dân đổ xô đến xem nó được xây dựng nh ư th ế nào.
Khi cái thùng sắp sửa được làm xong, một nhó m ng ười tụ tập bên trong vào cái đêm ngày m ười tám tháng Năm. Họ tin rằng cái thù ng đó là n ơi duy nhất ở Iceland có th ể bảo vệ được con ng ười tho át khỏi luồng khí độc của đuôi sao chổi. Ng ười ta kh áo nhau rằng trong cái thùng ấy đã diễn ra m ột bữa tiệc và nh ững ng ười ởđó đã cố gắng tận h ưởng nốt m ột đêm trụy lạc ngay trước ngày tận th ế.
M ột vài ngày sau, chuy ện x ảy ra ở cái thùng ch ứa ga lan đi nh anh nh ư lửa ch áy. Ng ười ta đồn rằng nh ững người say xỉn tron g cái đêm thác loạn ấy đã chơi b ời thả cửa đến tận rạng đông
– khi họ nh ận ra rằng rõ ràng là Trái đất khô ng bị hủy diệt, không va ch ạm gì với sao ch ổi cũng như chẳng có ngọn lửa địa ngục nào phát từ cái đuôi của nó hết. Ng ười ta còn nói rằng có m ột số đứa trẻ được sinh ra từ sau cái đêm hôm đó, và Erlendur b ăn kho ăn liệu có phải nhiều năm sau đó, một tron g số ch úng đã chết ở Grafarholt và được chôn cất tại đó k hô ng.
“Văn phòng qu ản lý Nhà máy đó đến nay v ẫn cò n,” ôn g nói với Eva Lind, không biết nó có nghe được mình nói hay không. “Nh ưng ngoài cái đó ra, m ọi d ấu vết của Nhà máy đã m ất h ết. Cuối cùng, ngu ồn n ăng lượng của tương lai hóa ra lại là điện ch ứ không ph ải khí đốt, con ạ. Cái nhà máy ấy ở Raudarárstígur, ngày nay đã biến thành trạm xe bus Hlemmur, và nó v ẫn ho ạt động tốt b ất kể trong quá kh ứ nó có là cái gì đi ch ăng n ữa. Vào nh ững ngày rét cắt da cắt thịt, nh ững ng ười vô gia cư vẫn thường đến đó, ngồi bên ng ọn đèn sưởi ấm, nh ất là vào ban đêm. Và vào thời kỳđen tối nh ất của mùa đô ng, nơi đó th ường có rất đông ng ười đến.”
Eva Lind ch ẳng có ph ản ứng gì khi Erlendur kể câu ch uy ện đó. Ông cũng ch ẳng mong chờđiều ấy xảy ra. Ông không mong ch ờ vào phép màu.
“Nhà máy s ản xu ất khí đốt được xây d ựng trên một m ảnh đất nh ỏ có tên là Elsumýrarblettur,” ông nói tiếp và mỉm cười trước sự mỉa mai của Th ượng đế. “Nh iều n ăm sau khi nhà máy đó bị phá h ủy và cái thùng ch ứa bị dời đi, Elsumýrarblettur đã bị sa sút rất nhiều. Sau đó m ột lô văn phòng được xây dựng trên m ảnh đất đó, đối diện với trạm xe bus. Cái lô đó bây giờ là trụ sở cảnh sát Reykjavík. Văn phòng của bốởđó. Ởđúng vị trí của cái thùng ch ứa trước đây.”
Erlendur ng ừng lại.
“T ất cả chún g ta đều ch ờ đến ngày cuối cùng của thế giới,” ông nói. “Không cần biết đó là một ngôi sao chổi hay thứ gì. Tất cả chú ng ta đều có ngày tận thế của riêng mình. Một số ng ười tự mang nó đến với mình. M ột số ng ười né trán h nó. Hầu hết ch úng ta đều sợ nó, có ph ần kính nể nó. Nh ưng không ph ải là co n. Con khô ng bao giờ sợ hãi bất cứđiều gì. Và con cũng không sợ cả cái ngày tận th ế bé nhỏ của mìn h.”
Erlendur ng ồi yên nhìn con gái, không biết việc mìn h nói chu y ện v ới con – trong khi d ường nh ư nó ch ẳng nghe được m ột lời nào – có ý nghĩa gì không. Ông nh ớ lại lời ông bác sĩ nói và cảm th ấy khuây kh ỏa đôi chút khi nói chuy ện với con gái nh ư th ế này. Rất ít khi ông có th ể nói ch uy ện với nó một cách bình tĩnh và d ễ dàng. Sự căng th ẳng đã nhu ốm lên toàn bộ m ối quan h ệ giữa hai b ố con khiến họ rất hiếm khi ngồi xu ống để nói chuy ện nh ẹ nhàng với nhau.
Nh ưng cũng ch ẳng m ấy khi họ nói chuy ện, Erlendur cười nh ăn nhó. Ông cứ nói còn con bé cứ không nghe. Về ch uy ện đó thì chẳng có gì thay đổi giữa họ cả. Có th ểđó là những điều con bé không muốn ng he. Việc phát hiện ra bộ x ương, nhà máy khí đốt, ngôi sao chổi và vụăn chơi thác lo ạn. Có th ể con bé muốn nghe ông nói về một chu yện gì đó hoàn toàn khác. Về bản thân ông. Hoặc v ề gia đình họ.
Ông đứng lên, cúi xu ống hôn vào trán nó rồi ra kh ỏi phò ng. Erlendur v ẫn chìm đắm trong dòng suy ngh ĩ, và thay vì rẽ ph ải xuống cầu thang đi ra khỏi khu điều trị, ông lại đi theo h ướng ng ược lại đến khu ch ăm sóc đặc biệt, đi qua nh ững căn phò ng chiếu sáng lờ m ờ n ơi các b ệnh nhân khác đang n ằm, cơ th ể họ được nối v ới tất cả nh ững thiết bị tối tân nh ất. Ông chỉ sực tỉnh khỏi cơn mê khi đã đi đến cu ối hành lang. Ông đang định quay lại thì có một ng ười phụ n ữ bé nhỏđi ra từ căn phòng trong cùng và đụng ph ải ô ng.
“Xin lỗi,” cô ta nói b ằng giọng hơi gắt.
“Không, tôi mới phải xin lỗi,” Erlendur bối rối nhìn quanh. “Tôi không định đi lối này. Tôi định ra kh ỏi khu điều trị cơ.”
“T ôi được gọi đến đây,” ng ười phụ n ữ thấp bé nói. Tóc cô ta m ỏng qu ẹt, bộ ngực khổng lồ chỉ được che đậy dưới cái áo phông màu tím, người cô ta tròn lẳn với khuô n m ặt thân thiện. Erlendur thấy một hàng ria đen ở trên mép cô ta. Erlendur liếc vào trong phòng nơi ng ười phụ n ữ này vừa đi ra và thấy một ôn g già đang nằm đắp ch ăn trên giường, khuôn mặt gầy guộc, xanh xao. Một ng ười phụ n ữ khoác áo lông thú đắt tiền ngồi bên cạnh giường bệnh, bà ta đưa bàn tay đeo g ăng ch ặm kh ăn lên mũi.
“Vẫn còn có một số người tin vào các ông đồng bà cốt,” ng ười phụ n ữ nói nhỏ, như th ể là nói v ới chính mình.
“Xin lỗi, tôi kh ông hiểu…”
“T ôi được gọi đến đây,” cô ta nói và nh ẹ nhàng đưa Erlendur ra xa căn phòng. “Ông ta sắp ch ết rồi. Họ khôn g thể làm gì được nữa. Vợ ông ta đang ởđó. Bà ta nh ờ tôi liên hệ với ông ta. Ông ta đang bị hôn mê và người ta nói rằng họđã làm hết s ức mìn h, nh ưng ông ta không mu ốn ch ết. Nh ư kiểu là ông ta không muốn ra đi ấy. Bà ta nhờ tôi giúp, nh ưng tôi không thể tìm ra ông ta.”
“Tìm ra ông ta?” Erlendur h ỏi.
“Ởthếgiới bên kia ấy.”
“Bên kia… cô là m ột bà đồng ư?”
“Bà ta không hiểu rằng chồng mình đang h ấp hối. Cách đây m ấy ngày ông ta ra ngoài và điều tiếp theo mà bà ta biết là cảnh sát gọi đến và thông báo có một vụ tai nạn ô tô xảy ra trên đường West. Lúc đó ông ta đang trên đường đến Borgarfjördu. M ột chiếc xe tải đi ch ệch sang làn đường của ông ta. Họ nói rằng việc cứu ông ta là vô vọng. Não đã ch ết. “
Cô ta nhìn lên Erlendur, còn ông thì đang nhìn cô ta ch ằm ch ằm không hiểu gì.
“Bà ta là b ạn tôi.”
Erlendu r không biết cô ta đang nói về ch uyện gì và tại sao cô ta lại nói với mình tất cả nh ững chuy ện này ở m ột hành lang tối lờ m ờ với giọng thì thầm bí ẩn. Ông nói lời tạm biệt cụt lủn với người phụ nữ mà ông chưa từng gặp trước đây. Ông đang chu ẩn bị bước đi thì cô ta túm lấy tay ông.
“Ch ờ m ột lát,” cô ta nói.
“Xin lỗi?”
“Ch ờ m ột lát.”
“Xin lỗi, nh ưng đây không ph ải là việc của tôi…”
“Có m ột cậu bé ởđó,” ng ười phụ nữ bé nhỏ nói. Erlendur không nghe rõ cô ta nói gì. “Có m ột cậu bé trong trận bão tuy ết,” cô ta nói tiếp. Erlendur nhìn cô ta đầy kinh ngạc và giật tay ra nh ư th ể ông vừa bịđâm m ột nh át.
“Cô đang nói gì cơ?” ông h ỏi.
“Ông có biết đó là ai không?” ng ười phụ nữ hỏi v à nhìn lên Erlendur.
“Tôi không hiểu một chút nào về những điều cô đang nói,” Erlendur ngắt lời cô ta, quay người và đi xuống hành lang d ẫn ra ngo ài.
“Ông không phải sợ gì cả,” cô ta nói đằng sau. “Cậu ta ch ấp nh ận điều đó. Cậu ta ch ấp nh ận nh ững gì đã xảy ra. Đó không ph ải là lỗi của ai h ết.”
Erlendur d ừng lại, ch ầm ch ậm quay lưng và nhìn ch ằm ch ằm vào ng ười phụ nữ bé nhỏở đầu kia của hành lang. Ông không hiểu tại sao cô ta lại cứ khăng khăng như vậy.
“Thằng bé đó là ai?” cô hỏi. “Tại sao nó lại đi với ông?”
“Chẳng có đứa bé nào hết,” Erlendur khịt mũi. “Tôi không hiểu ý cô. Tôi không hề quen biết cô và tôi cũng ch ẳng biết cô đang nói đến đứa bé nào. Để tôi yên!” ông quát lên.
Sau đó ông quay người và lao ra khỏi khu điều trị.
“Để tôi yên,” ông rít lên qua hai hàm răng nghiến chặt.