Bụi Ly Chua Máu

CHƯƠNG 8



Ngày mùa thu rất đẹp
Rất nhiều chủ nhà trên mạn bắc của đồi Grafarholt đang bận rộn với những công việc lặt vặt để chu ẩn bị ùa xuân của mình. Sigurdur Óli đi vòng xung quanh nh ằm tìm ra một đường đi an toàn dẫn đến đỉnh đồi. Elínborg đi cùng anh ta. Có m ấy ng ười đang tỉa bớt giậu trước nhà, một số khác thì sơn lại nhà ho ặc s ửa hàng rào ho ặc th ắng yên cương và chuẩn bị cưỡi ng ựa.
Lúc đó đang là giữa trưa, th ời tiết dịu nh ẹ và rất d ễ chịu. Sau khi nói chuy ện v ới m ột vài ch ủ nhà mà không có gì tiến triển, Sigurdur Óli và Elínborg ch ầm ch ậm tiến v ề phía nh ững ngôi nhà g ần ng ọn đồi nh ất. Với thời tiết đẹp nh ư v ậy, họ không cần ph ải v ội vã, cả hai tận h ưởng cu ộc du ngo ạn ngo ại th ành, đi tản bộ d ưới ánh m ặt trời và nó i chuy ện v ới chủ nhân của nh ững ngôi nhà gỗ. Nh ững ng ười này rất ng ạc nhiên khi th ấy cảnh sát đến g ặp mình vào th ời điểm sớm nh ư th ế trong ngày. Một số ng ười đã nghe qua tin tức v ề bộ x ương tìm th ấy trên đồi. Nh ững ng ười khác hoàn toàn không biết m ột chút gì.
“Cô ấy sẽ sống ch ứ, hay …?” Sigurdur Óli hỏi khi họđã lên xe không biết bao nhiêu lần và lái đến ngôi nhà tiếp th eo. Họđã nói về Eva Lind trên đường đi ra khỏi thành phố và thường trở về ch ủ đề cũ.
“Tôi không biết,” Elínborg nói. “Tôi không nghĩ là có ai đó biết. Th ật là một cô gái đáng th ương,” cô nói, sau đó trút ra một tiếng thở dài não n ề. “Cả ôn g ấy n ữa,” cô nói thêm. “T ội nghiệp Erlendur.”
“Cô ấy là một co n nghiện,” Sigurdur Óli nói m ột cách nghiêm túc. “Làm ình mang thai rồi say thuốc mà không quan tâm đến m ột thứ gì, kết cục là giết ch ết đứa bé. Tôi không th ể thông cảm cho những loại người như thế. Tôi khô ng thể hiểu và sẽ không bao giờ hiểu được họ.”
“Ch ẳng ai cần anh ph ải thông cảm cho h ọ cả,” Elínborg nói.
“Ồ, thật vậy sao? Khi ng ười ta nói về những ng ười nh ư th ế, tất cả những gì tôi được nghe là khoảng thời gian khó khăn mà họ trải qua. Từ những gì tôi đã ch ứng kiến v ề họ …” anh ng ừng lại. “Tôi không thể thông cảm v ới họ được,” anh nh ắc lại. “Họ là nh ững k ẻ th ất b ại. Không hơn. Một lũ b ất tài.”
Elínborg thở dài.
“Hoàn hảo quá trô ng nh ư th ế nào nhỉ? Luôn ăn m ặc đẹp, mày râu nh ẵn nhụi, áo qu ần là lượt v ới tấm b ằng từ M ỹ, mó ng tay móng chân tỉa tót, không thèm quan tâm đến xung quanh mà chỉ ch ăm ch ăm kiếm ra đủ tiền để mua nh ững v ẻ bề ngoài hào nho án g ấy sao? Anh không bao giờ m ệt mỏi với nh ững chuy ện đó à? Anh không bao giờ m ệt mỏi v ới chính mình à?”
“Không,” Sigurdur Óli nói.
“T h ế thì có gì là sai khi bày tỏ một chút cảm thô ng với những ng ười nh ư thế ch ứ?”
“Họ là những kẻ kém cỏi, và cô cũng hiểu điều đó cơ mà. Cái lý do cô gái đó là con của một ông già không làm cho cô ấy tốt đẹp h ơn so với nh ững người còn lại. Cô ấy cũng giống như tất cả nh ững k ẻăn bám khác, lúc nào cũng phê thuốc trên đường rồi sau đó ngủ lấy sức ở trong các trung tâm phục hồi trước khi lại trở nên m ệt lả, bởi vì đó là tất cả nh ững gì mà cái lũ h ãi hùng ấy muốn. Chỉ biết ăn không ng ồi rồi và phê thuốc. “
“Anh và Bergthóra sống cùng nhau thế nào rồi?” Elínborg hỏi, sau khi đã từ bỏ mọi hy vọng thay đổi qu an điểm của anh ta về m ọi th ứ.
“Tốt thôi,” Sigurdur Óli nó i đầy m ệt m ỏi khi dừng lại bên ngoài m ột ngôi nhà gỗ khác. Bergthóra đơn giản là sẽ khô ng b ao giờ tha cho anh. Cô ấy không bao giờ th ỏa mãn, cả ban đêm cũng nh ư buổi sáng hay giữa ban ngày, ở m ọi vị trí hay ngóc ngách trong căn hộ của họ, trong nhà bếp, trong phòng tắm, thậm chí là phòng giặt là, h ết nằm xu ống rồi lại đứng lên. Và m ặc dù lúc đầu anh đã thích thú v ới chuy ện đó, nh ưng d ần d ần anh để ý th ấy mình b ắt đầu chán và ngh i ng ờ động cơ của cô. Không ph ải vì cuộc sống gối ch ăn của họ buồn tẻ, khô ng b ao giờ nh ư th ế. Nh ưng trước đây cô ấy ch ưa bao giờ ham mu ốn hay cu ồn g nhiệt nhiều đến v ậy. Họ v ẫn ch ưa trao đổi m ột cách nghiêm túc về v ấn đề có con, m ặc dù cả hai ăn ở với nh au đã lâu. Anh biết rằng Bergthóra v ẫn dùng thuốc, nh ưng anh không th ể không cảm th ấy rằng cô đang mu ốn trói ch ặt anh lại b ằng cách có con. Cô không nh ất thiết ph ải làm th ế, bởi vì anh yêu cô th ực sự và không mong mu ốn sống cùng ai khác. Nh ưng ph ụ nữ thì luôn khó đoán, Sigurdur Óli th ầm ng hĩ. Anh sẽ không bao giờ biết được h ọđang làm gì.
“Rất lạ là Cục Thống kê Quốc gia vẫn ch ưa có tên của bất kỳ ng ười nào từng sống trong ngôi nhà đó, n ếu có ai từng ởđó,” Elínborg v ừa nói vừa bước ra khỏi xe. “Nh ững ghi chép về giai đo ạn đó rất hỗn độn. Reykjavík tràn ng ập ng ười tron g và sau chiến tranh, việc đăng ký g ần nh ư bị bỏ qua khi ng ười ta chuy ển đến. Và tôi nghĩ rằng họđã làm m ất một phần ghi chép về dân số. Ông ta nói rằng mình không th ể tìm ra thông tin đó ngay lập tức được, ng ười đàn ông nói chuy ện v ới tôi ấy.”
“Có lẽ th ực ra không có ai sống ởđó h ết. “
“Không nh ất thiết là họởđó lâu. Có th ể họđã g hi tên ở một nơi nào đó và kh ông đăng ký địa chỉ m ới. Có thể họ sống trên đồi vài năm ch ẳng hạn, th ậm chí là vài thán g, tro ng đợt khủng ho ảng nh à đất ấy, sau đó ch uy ển đến một tro ng số nh ững ngôi nhà tạm được sửa chữa sau chiến tran h. An h nghĩ thế nào v ề giả thuyết đó?”
“Y nh ư một cái Burberry 1 vậy.”
Ng ười ch ủ nhà gặp họở cửa, đó là m ột người đàn ông rất già, dáng ng ười dong dỏng, cử động khó nhọc với mái tóc m ỏng bạc phơ, ông ta m ặc m ột cái áo sơ mi màu xanh nhạt, bên trong m ặc
1Một loạivải không thấmnước. Đại ý, gia đình họ đến và đi không để lạidấuvết gì.
m ột chiếc áo lưới có thể nhìn thấy rất rõ, quần nhung kẻ màu xám và giày thể thao m ới. Khi Elínborg nhìn thấy đống rác b ẩn bên trong, cô băn kho ăn không biết ông ta có sống ởđó qu anh năm không. Cô liền hỏi.
“Tôi biết cô sẽ hỏi điều đó,” ông già đáp tron g lúc ngồi xuống cái gh ế bành và ra hiệu m ời họ ngồi xuống mấy cái ghếở giữa căn phò ng. “T ôi bắt đầu xây ngôi nhà này cách đây bốn mươi năm và chuyển mọi đồ đạc vềđây – ở ngôi nhà Lada cũ kỹ này cách đây năm n ăm. Hay là sáu năm nhỉ? Mọi th ứđã b ắt đầu trở nên mù mờ với tôi rồi. Tôi không còn mu ốn sống ở Reykjavík nữa. Một n ơi th ật kh ủn g khiếp, cái thành ph ốấy, nên …”
“Hồi đó có ngôi nhà nào trên đồi này, có thể là một ngôi nhà gỗ mùa hè như thế này m à không được sử dụng đúng m ục đích không ông?” Sigu rdu r Óli vội vàng hỏi vì không muốn phải nghe một bài thuyết giảng. “Ý cháu là, cách đây bốn mươi năm, khi ông bắt đầu xây nhà của mìn h ấy?”
“M ột ngôi nhà gỗ mùa hè nhưng lại khô ng ph ải là nhà gỗ mù a hè …?”
“Nó nằm phía bên này của qu ả đồi Grafarholt ấy ạ,” Elínbo rg nói. “Nó được xây dựng trước chiến tranh.” Cô nhìn ra bên ngoài cửa s ổ. “Ông có th ể trông thấy nó từ cửa sổ này. “
“Tôi nh ớ là có m ột ngôi nh à ởđó, không quét sơn, chưa xây xong. Nó biến mất cách đây nhiều n ăm rồi. Đó chắc ch ắn là một ngôi nhà gỗ khá lớn, ho ặc g ần nh ư là vậy, khá rộng, rộng hơn nhà tôi, nhưng rất bừa bộn. Gần như là sắp sập rồi. Cửa chính không còn, cửa sổ thì v ỡ. Ngày trước, thỉnh thoảng tôi đi bộ lên đó khi vẫn còn h ứng thú với việc câu cá. Nhưng tôi đã thôi lâu rồi.”
“Vậy không có ai trong ngôi nhà đó ạ?” Sigurdur Óli hỏi.
“Không, ch ẳng có ai trong đó cả. Không ai có th ể sống ởđó. Nó g ần nh ư sập đến n ơi rồi. “
“Vậy ngôi nh à đó ch ưa từng có người ở ph ải không? Theo nh ư ông biết ấy?” Elínborg nói. “Ông không nhớ có ai ở ngôi nhà đó ạ?”
“T ại sao cô cậu lại muốn biết v ề n gôi nh à đó?”
“Chúng cháu tìm th ấy một bộ xương người trên đồi,” Sigurdur Óli giải thích. “Ông không xem ti vi ạ?”
“M ột bộ xương ư? Không. Của người sốn g trong ng ôi nhà đó à?”
“Chúng ch áu ch ưa biết. Chún g cháu vẫn chưa biết gì về lịch sử của ngôi nh à và những người từng sống ởđó,” Elínborg đáp. “Chúng ch áu đã biết người chủ ngôi nhà là ai, nhưng ông ta đã ch ết cách đây lâu rồi, đến bây giờ chúng cháu vẫn ch ưa tìm ra ai đăng ký sống trong ngôi nhà đó. Ông có nhớ những trại lính trong thời chiến ở bên kia đồi không? Ở phía nam ấy. Một kho quân sự hay tương tự như thế ch ẳng h ạn?”
“Kh ắp nô ng thôn ởđâu ch ẳng cótrại lính,” ng ười đàn ông đáp. “Của cả ng ười Anh và ng ười M ỹ. Tôi không nh ớ có cái nào ở trên đồi này, thời đó xảy ra trước khi tôi ra đời khá lâu. Hai ng ười nên nói chuyện v ới Róbert ấy.”
“Róbert ạ?”
“Nếu như ôn g ấy ch ưa ch ết. Ông ấy làmột tro ng số những ng ười đầu tiên d ựng nhà trên ng ọn đồi này. Tôi biết ông ấy từng ở trong m ột nhà dưỡng lão. Róbert Sigurdsson. Cô cậu đi tìm ông ấy xem, biết đâu ông ấy còn sống. “
Vì cửa chính không có chuông nên Erlendur ph ải lấy cả lòng bàn tay đập vào cánh cửa gỗ sồi dày cộp m ới mong ng ười bên trong nghe thấy. Trước đây ngôi nhà thu ộc quy ền sở h ữu của Benjamín Knudsen, một thương nhân ở Reykjavík, ông này đã ch ết vào đầu nh ững năm 1960. Em trai và em gái của ông ta được th ừa k ế và chuy ển đến ngôi nhà đó sau khi ông ta ch ết rồi sống ởđó đến cu ối đời. Theo Erlendur được biết, cả hai ng ười ấy đều độc thân, tuy nhiên ng ười chị có m ột cô con gái. Bà ấy là bác sĩ, bây giờđang sống ở tầng giữa và thuê thêm nh ững căn hộở bên trên và bên d ưới tầng đó n ữa. E rlendur đã nói chuy ện với bà ấy qua điện tho ại. Họ d ự định sẽ g ặp nhau vào bu ổi trưa.
Tình trạng sức khỏe của Eva Lind vẫn khô ng có gì tiến triển. Erlendur tạt qua th ăm con bé trước khi đi làm và ngồi cạnh giường nó m ột lúc lâu, ông quan sát những thiết bị hiển thị các tín hiệu sống của con gái, cả cái ống cắm vào miệng, vào mũi và tĩnh m ạch của nó. Điện tâm đồ vẫn ổn định. Tro ng lúc đi ra khỏi phòng chăm sóc đặc biệt, ông nói chuy ện v ới một bác sĩ, ông ta nói rằng vẫn ch ưa có biến ch uy ển gì về tình trạng sức khỏe của cô. Erlendur hỏi liệu mình có th ể làm được gì hay không và ông bác sĩđáp rằng m ặc dù co n gái ông đang bị hôn mê, ông v ẫn nên nói chu yện với con bé càng thường xuyên càng tốt. Để cho nó nghe th ấy giọng nói của ông. Trong nh ững trường hợp nh ư vậy, thân nhân ng ười b ệnh nên làm thế để giúp họ vượt qua cú sốc. Đối với ông, Eva Lind ch ắc ch ắn vẫn còn sống nên ông cần phải đối x ử với con bé đúng nh ư th ế.
Cánh cửa gỗ sồi cuối cùng cũng mở ra và một ng ười ph ụ nữ kho ảng sáu m ươi tuổi chìa tay ra, tự giới thiệu mình là Elsa. Ng ười bà mảnh dẻ, khu ôn mặt th ân thiện, tran g điểm nh ẹ, tóc bà nhu ộm đen, cắt ng ắn và vu ốt sang một bên. Bà mặc quần bò và áo sơ mi trắn g, khô ng đeo nh ẫn, vò ng tay hay vòng cổ. Bà đưa ông vào phòng khách và mời ông ng ồi. Bà rất m ạnh m ẽ và tự tin.
“Vậy các ông nghĩ thế nào về nh ững khúc xương đó?” bà hỏi sau khi nghe Erlendur nói v ề công việc của mìn h.
“Chúng tôi v ẫn ch ưa biết, nh ưng một giả thuy ết đưa ra là chúng có liên quan đến ngôi nhà gỗ trước đây xây ở cạnh đó, từng thuộc quy ền sở hữu của bác bà là ông Benjamín. Ông ấy có ở đấy lâu không?”
“Hình nh ư bác tôi chưa từng đến ng ôi nhà đó,” bà nói nh ỏ. “Đó làmột bi kịch. M ẹ tôi thường kể với chúng tôi về vẻ đẹp trai và tài trí của bác ấy, về việc bác ấy gặp vận may như thế nào, nh ưng rồi một ngày vị hôn thê của bác ấy bỗng dưng biến m ất. Hồi đó, bà ấy đang mang thai.”
Tâm trí Erlendur h ướng v ề con gái.
“Bác ấy bị suy sụp nặng, không còn quan tâm gì đến việc buôn bán, sau đó toàn bộ tài s ản và mọi th ứ khác tiêu tan, tôi nghĩ thế, cho đến khi tất cả nh ững gì mà bác ấy còn lại là ngôi nhà này. Bác ấy ch ết đi giữa độ tu ổi đẹp nh ất của một đời ng ười. “
“Bà ấy biến mất nh ư thế nào, vợ chưa cưới của ông Benjamín ấy?”
“Ng ười ta đồn rằng bà ấy đã nh ảy xu ống biển,” Elsa đáp. “Ít nh ất thì đó là nh ững gì mà tôi được nghe.”
“Bà ấy có bị ch ứng trầm cảm không?”
“Không th ấy ai nh ắc gì đến chu y ện đó.”
“Vậy không ai tìm th ấy bà ấy sao?”
“Không. Bà ấy…”
Elsa ng ừng lại giữa ch ừng. Dường nh ư bà đã bắt kịp được suy nghĩ của ông nên bắt đầu nhìn ông ch ằm ch ằm, đầu tiên là hoài nghi, sau đó là đau khổ, choáng váng và tức giận, tất cả cùng diễn ra một lúc. M ặt bà đỏ lên.
“T ôi kh ông tin ông. “
“Sao cơ?” Erlendur hỏi lại khi th ấy bà đột ngột trở nên thù địch.
“Ông nghĩđó là bà ấy. Bộ x ương của bà ấy!”
“Tôi không nghĩ gì cả. Đây làlần đầu tiên tôi nghe chuy ện về
người phụ nữ này. Chúng tôi không hề biết ai là người nằm dưới đó. Bây giờ còn quá sớm để nói được ng ười đó là ai.”
“Vậy thì tại sao ông lại quan tâm đến bà ấy? Ông biết điều gì mà tôi không biết?”
“Không có gì cả,” Erlendur nói, đầy hoang mang. “Chuyện đó không tác động gì đến bà khi tôi nói cho bà biết v ề bộ xương sao? Bác bà có m ột ngôi nhà gần đó. Vợ ch ưa cưới của ông ấy m ất tích. Chúng tôi tìm th ấy một bộ x ương. Đó không phải là m ột ph ươn g trìn h khó.”
“Ông bịđiên à? Ông đang nghĩ rằng …”
“Tôi không nghĩ gì cả.”
“…rằng ông ấy đã giết bà ấy ư? Rằng bác Benjamín đã giết ch ết hôn thê của mình và chôn bà ấy mà không nói cho ai biết tron g ngần ấy năm cho đến khi ôn g ấy ch ết đi ư? Rằng bác ấy là m ột ng ười đàn ông bỏđi ư?”
Els a đứng lên và đi tới đi lui.
“Ch ờ một ch út, tôi đã nói thếđâu,” Erlend ur nói, tự hỏi liệu mình có th ể khéo léo h ơn không. “Tôi ch ưa nói gì cả,” ông nói.
“Ông nghĩ rằng đó là bà ấy ư? Bộ xương mà các ông tìm thấy ấy? Đó là bà ấy ph ải không?”
“Hoàn toàn không,” Erlendur nói mà không có căn cứ. Ông chỉ muốn giúp bà bình tĩnh lại. Ông đã quá vụng về, đã nói ra m ột sốđiều mà không dựa trên một ch ứng cứ nào, và rồi bây giờ ông h ối hận v ềđiều đó. T ất cả đều quá đột ngột v ới bà ấy.
“Bà có biết điều gì về ngôi nh à đó không?” ông nói, cố gắng thay đổi ch ủ đề. “Có ai sống ởđó cách đây kho ảng n ăm, sáu m ươi năm không? Trong ho ặc ngay sau chiến tranh ấy? Ch úng tôi vẫn ch ưa tìm ra giấy tờ liên quan đến thôn g tin đó lúc này.”
“L ạy Chúa tôi, thật là kinh khủng!” Elsa rên rỉ, đầu óc ở tận đâu đâu. “Xin lỗi, ông v ừa nói gì v ậy nhỉ?”
“Ông ấy có th ểđã cho thu ê ngôi nhà đó,” Erlendur nói nhanh. “Bác của bà ấy. Sau khi chiến tranh nổ ra ở Reykjavík thiếu nhà ở trầm trọng. Việc thuê nhà rộ lên và tôi cho rằng ông ấy có thểđã cho thuê nhà giá rẻ. Ho ặc thậm chí là đã bán nó đi. Bà có biết gì về chu yện đó không?”
“Có, hình nh ư ông ấy có nói đến chuy ện cho thu ê ngôi nhà đó, nh ưn g tôi kh ông biết là nói với ai, nếu nh ư ôn g đang muốn biết điều ấy. Th ứ lỗi cho tôi vì đã cư xử nh ư thế n ày. Ch uy ện này qu á… Đó là loại xương gì v ậy? Một bộ xương đầy đủ, của đàn ông, ph ụ n ữ hay trẻ con?”
Khi đã bình tĩnh hơn và quay trở lại m ạch câu chuyện, bà ngồi xuống và nhìn ông với ánh mắt tò mò.
“Bộ x ương d ường như còn nguyên v ẹn, nh ưng chúng tôi vẫn ch ưa khai qu ật hết được,” Erlendur đáp. “Bác bà còn giữ lại giấy tờ liên qu an đến việc kinh do anh h ay tài sản của mìn h khôn g? Bất kỳ th ứ gì ch ưa bị v ứt đi ấy?”
“Dưới tầng hầm có đủ thứ của ông ấy. Tất cả các lo ại giấy tờ và hộp đựng mà tôi ch ưa bao giờ dám bỏđi hay sắp xếp lại. Bàn làm việc và một số ng ăn kéo của bác ấy còn ở tầng dưới. Tôi sẽ để m ắt đến ch úng sớm. “
Elsa nói điều này v ới vẻ ân h ận và Erlendur th ắc m ắc khô ng biết bà có b ằng lòng với số phận của mình hay không. Bà sống m ột mình tron g một ngôi nhà lớn được thừa kế lại. Ông nhìn quanh và có cảm giác rằng dường nh ư cả cuộc đời bà cũng là một sự th ừa k ế.
“Bà có nghĩ rằng chúng ta…?”
“Xin ông cứ tho ải mái. Ông cứ quan sát tự nhiên,” bà nói với
nụ cười lơđãn g.
“Tô i đang b ăn kho ăn m ột điều.” Erlendur nói khi đứng lên. “Bà có biết tại sao ông Benjamín cho thuê nhà không? Ông ấy thiếu tiền hay sao? Ông ấy có v ẻ không cần thiết ph ải cần nhiều tiền đến th ế. Với ngôi nhà này. Với công việc kinh doanh của mình. Bà nói rằng cu ối cùng ông ấy m ất tất cả, nh ưng trong chiến tranh ông ấy ch ắc h ẳn ph ải sống một cuộc sống khátươm tất và có khi còn h ơn th ế ch ứ?”
“Vâng, có lẽ bác tôi không cần tiền.”
“Vậy lý do là gì?”
“T ôi nghĩ rằng có ai đó đã hỏi bác ấy. Khi ng ười ta bắt đầu từ quê chuy ển đến Reykjavík trong chiến tranh. Tôi nghĩ rằng bác tôi đã rủ lòng th ương người ta.”
“Vậy nên ông ấy không nhất thiết phải thu tiền thu ê nhà ph ải khô ng?”
“Tôi không biết gì về ch uy ện đó cả. Tôi không tin được khi ông cho rằng bác Benjamín …”
Bà không nói h ết câu như thểđang tìm cách ráp nối các suy nghĩ của mình lại.
“Tôi không nghĩ gì cả,” Erlendur cố gắng mỉm cười. “Bây giờ còn quá sớm để có thể nghĩ ra điều gì đó.”
“T ôi kh ông tin đâu.”
“Bà vui lòng cho tôi biết thêm điều n ày.”
“Sao cơ?”
“Bà ấy có ng ười thân nào vẫn còn sống cho đến bây giờ khô ng?”
“Ai cơ?”
“Vợ ch ưa cưới của Benjam ín ấy. Có ai mà tôi có th ể hỏi ch uy ện được không?”
“T ại sao? Ông muốn hỏi gì v ề ch uy ện đó? Bác ấy ch ưa bao giờ làm điều gì tổn h ại đến bà ấy cả.”
“Tô i hiểu điều đó. Nh ư tất cả mọi lần, chúng tôi có nh ững khúc xương và chúng ph ải thu ộc v ề một ng ười nào đó ch ứ không thể m ất đi. Tôi ph ải điều tra theo tất cả các h ướng.”
“Bà ấy có một ng ười em gái mà tôi biết là đến bây giờ vẫn còn sống. Tên bà ấy là Bára.”
“Ng ười phụ n ữấy biến m ất khi nào?”
“Vào năm 1940,” Elsa đáp. “Họ nói với tôi đó là một ngày m ùa thu rất đẹp.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.