Tìm hướng giải quyết vấn đề
Edward Hunter từng là một nhân viên trong lực lượng quân đội thời chiến của Mỹ,ông ta là một trong số rất ít những quân nhân không rời đi sau khi hòa bình lập lại. Jim, viên thư ký ở Tòa Đại sứ Anh đã tìm ra ông ta mà không m ất nhiều công sức nhờ có Tòa Đại sứ Mỹ. Jim tìm kiếm những thành viên của lực lượng chiếm đóng của Anh và Mỹ, nhưng theo nhưỦy ban Nh à đất London, có rất ít người còn sống. Hầu hết những người lính Anh đến Iceland đã thiệt m ạng trong cuộc chiến ở Nam Phi và Ý hay trên chiến trường miền Tây, trong cuộc xâm lược của Normandy năm 1944. Sau đó chỉ có một vài người Mỹđóng quân tại Iceland ra chiến trường, còn lại hầu hết là ở lại trong suốt chiến tranh. Có một vài người lưu lại Iceland và lấy vợởđây rồi cuối cùng đổi sang quốc tịch Iceland. Một trong số họ là Edward Hunter. Erlendur nhận được điện thoại của Jim vào sáng sớm.
“T ôi đã nói chu yện với Đại sứ quán M ỹ và họ chỉ cho tôi đến ch ỗ ông Hunter này. Để tránh phiền ph ức cho ô ng, tôi đã nói ch uy ện v ới ông ta. Tôi hy vọng chuy ện đó được ông cho phép.”
“Cảm ơn ông,” Erlendur đáp.
“Ông ấy sống ở Kó p avo gu r.”
“Ông ấy ởđó từ hồi chiến tranh à?”
“Rất tiếc là tôi không biết điều đó.”
“Nh ưng ông ta v ẫn sống ởđây, nói cách khác, cái ông Hunter này ấy,” Erlendur nói trong lúc đưa tay dụi m ắt.
Tối hôm đó Erlendur ng ủ khô ng ng on, ông chỉ lơ m ơ và g ặp toàn ác mộng. Nh ững lời mà người phụ nữ nhỏ bé ở bệnh viện nói chiều hôm trước v ẫn cứ ám ảnh ông. Ông không tin chuy ện nh ững ng ười hầu đồng có thể trở thành cầu nối giữa cõi dương và cõi âm, và ông cũng không tin rằng họ có thể nhìn thấy nh ững điều ng ười khác không nhìn thấy. Ng ược lại, ông cho rằng họ chỉ là nh ững kẻ chuy ên đi lừa đảo, họ đủ thông minh để có th ể lấy được thông tin từ mọi ng ười và giải mã ngôn ng ữ cơ thể để d ựng lên chi tiết về nh ững người họ quan tâm, và gần nh ư một n ửa trong số chú ng là đú ng, nửa còn lại có th ể sai lè – một kh ả n ăng đơn giản. Erlendur từng chế giễu chuy ện đó là vô bổ khi người ta bàn tán về nó trong sở, điều này khiến Elínborg rất chán n ản. Cô tin vào đồng cốt và s ự sống sau cái ch ết, vì m ột số lý do nào đó cô hy vọng ông sẽ cởi m ở hơn v ới những chuy ện đại lo ại như thế. Có th ể là vì ông xuất thân từ nông thôn. Đó hóa ra lại là một sự hiểu lầm nghiêm trọng. Ch ắc ch ắn Erlendur không bao giờ ch ấp nh ận nh ững chuyện siêu nhiên. Tuy nhiên có điều gì đó về ng ười phụ n ữ ông gặp ở bệnh viện và những điều cô ta nói khiến Erlendur cứ nghĩ mãi, và kết qu ả là nó đã quấy nhiễu giấc ngủ của ôn g.
“Ph ải, bây giờ ông ta v ẫn ởđây,” Jim nói và cực kỳ hối lỗi vì đã đánh th ức Erlendur d ậy. Ông ta nghĩ rằng người Iceland dậy sớm. Bản thân ông ta cũng thế, ánh sáng ban ngày bất tận của mùa xuân ch ẳng làm cho ông ta vui vẻ chút nào.
“Hượm đã, vậy là ông ta đã k ết hôn với một ng ười Iceland sao?”
“Tôi đã nói chuyện với ông ta,” Jim nhắc lại bằng ngữđiệu Anh của mình như thể chưa nghe thấy câu hỏi. “Ông ta đang chờ ông gọi điện. Đại tá Hunter đã phục vụ một thời gian trong quân cảnh ở Reykjavík và ông ta nhớ có một vụ việc xảy ra ở một kho quân nhu trên đồi mà ông ta sắp kể với ông.”
“Vụ việc nào cơ?” Erlendur hỏi.
“Ông ta sẽ kể cho ông nghe. Và tôi sẽ tiếp tục tìm thêm thông tin về nh ững ng ười lính đã chết ho ặc mất tích ởđây. Ông cũng nên hỏi Đại tá Hunter v ềđiều đó n ữa.”
Họ chào tạm biệt nhau, Erlendur ch ậm ch ạp đi vào bếp pha cà phê. Ông vẫn đan g đắm chìm trong suy nghĩ. Liệu một cô đồng có th ể nói được một ng ười đang ở bên nào của ranh giới giữa sự sống và cái chết không? Không thể ch ấp nh ận được điều đó, ông tự nhủ rằng nếu đó làmột cách để an ủi nh ững ng ười vừa mới m ất đi ng ười thân yêu, ông sẽ k hôn g ph ản đối nó nữa. Bản th ân sự an ủi mới là quan trọng, ch ứ kh ông phải là vấn đề nó đến từ đâu.
Cà phê sôi sùng sục làm Erlendur bỏng cả lưỡi khi ông vừa nhấp một ngụm. Ông tránh nghĩ đến cái điều đã dày vò mình cảđêm và sáng hô m đó, cố gắng không nhớ đến nó n ữa.
Không ít thì nhiều.
Cựu Đại tá qu ân đội Mỹ Edward Hunter mang dáng dấp của m ột ng ười Iceland h ơn là ng ười Mỹ khi ăn vận m ột chiếc áo len kín đáo và nuôi bộ râu m ảnh màu trắng. Ông ta m ời Erlendur và Elínborg vào ngôi nhà riêng của mình ở Kópavogur. Mái tóc ông ta rối bù và bẩn, tuy nhiên thái độ v ẫn rất thân thiện vàlịch sự khi b ắt tay hai thám tử và bảo họ cứ gọi mình là Ed. Kiểu cách đó khiến Erlend ur nh ớ đến Jim. Ông ta nói rằng vợ mình đang đi thăm chị gái của ông ta ở Mỹ. Còn bản thân ông ta thì ngày càng ít đến đó.
Trên đường đến thăm Ed, Elínborg đã nói với Erlendur rằng theo nh ư lời Bára nói, khi vợ ch ưa cưới của Benjamín m ất tích, cô tam ặc m ột chiếc áo khoác màu xanh lục. Elínborg cho rằng điều này rất thú vị, nh ưng Erlendur đã ch ặn cuộc nói chuy ện bằng cách nói khá sẵng rằng ông không tin vào ma quỷ. Elínborg có cảm giác rằng ch ủ đề câu chuyện đã khép lại.
Ed đưa họ vào một phòng khách rộng, và khi nhìn quanh m ột lượt, Erlendur thấy có rất ít bằng ch ứng về cuộc sống quân ngũ của ông ta: trước m ặt ông là hai b ức tranh phong cảnh Iceland ảm đạm, những b ức tượng đá của Iceland và nh ững b ức ảnh gia đình được lồng khung. Ch ẳng có gì khiến Erlendur nhớ đến quân đội hay Th ế ch iến th ứ hai.
Vì biết họ đến nên Ed đã chu ẩn bị sẵn cà phê, trà và bán h qu y. Sau m ấy ph út nói ch uy ện xã giao miễn cưỡng, ng ười lính già đi thẳng vào vấn đề và hỏi mình có thể giúp được gì. Ôn g ta nói m ột thứ tiếng Iceland hoàn h ảo với nh ững cụm từ ngắn và chính xác, nh ư thể kỷ luật quân đội đã d ạy ông ta phải biết giữ lại nh ững gì quan trọng nh ất.
“Ông Jim ở Đại sứ quán Anh nói cho chúng tôi biết rằng ông đã ph ục vụởđây trong suốt chiến tranh và ông có liên quan đến m ột vụ việc dính dán g đến kho quân nhu ở vị trí hiện nay của sân golf Grafahort.”
“Ph ải, hiện giờ tôi vẫn thường xuy ên đến đó chơi golf,” Ed nói. “T ôi đã nghe tin tức về nh ững m ẩu x ương trên đồi. Jim nói với tôi các ông cho rằng có thể chú ng thuộc v ề một trong số nh ững ng ười của chúng tôi. Người Anh ho ặc M ỹ.”
“Có v ụ việc gìxảy ra ở kho quân nhu thế?” Erlendur h ỏi.
“Họ thường ăn cắp đồ,” Ed nói. “Chuy ện đó xảy ra ở hầu hết các kho quân nhu, tôi nghĩ rằng các ông gọi đó là ‘sự hao hụt’. M ột nhó m binh lính ăn cắp đồ d ự trữ và bán chúng cho ng ười Iceland. Chuy ện này bắt đầu xảy ra với quy mô nhỏ, nh ưng dần dần họ bạo gan hơn và cu ối cùng nó trở thành một vụ làm ăn lớn. Ng ười sĩ quan hậu cần cũng tham gia cùng với họ. Tất cả những người ấy đều phải đi tù. Ph ải rời bỏ đất nước. Tôi nhớ chu yện đó rất rõ. Tôi có giữ m ột cuốn nhật ký và đã đọc lại nó sau khi Jim gọi điện. Tất cả nh ữn g chuy ện đó như sống lại tron g tôi, việc ăn trộm ấy. Tôi cũng gọi cho bạn tôi từ thời đó, Phil, ông ấy là thượng cấp của tôi. Chún g tôi đã cùng nhau ôn lại chu yện cũ.”
“Làm th ế nào mà vụ trộm cắp đó bị phát hiện?” Elínborg hỏi.
“Lòng tham đã khiến họ m ờ mắt. Trộm cắp với số lượng lớn nh ư thế thì khó che giấu lắm. Rồi tin đồn về sự phá kỷ lu ật bắt đầu lan đi. “
“Có những ai liên lụy?” Erlendur lấy ra một điếu thu ốc lá và Ed gật đầu ra dấu rằng ông cứ hút tự nhiên. Còn Elínborg nhìn Erlendur đầy trách cứ.
“Dân thường. Gần nh ư là vậy. Sĩ quan hậu cần bị kết tội nặng nh ất. Và ít nh ất là có một ng ười Iceland. Một ng ười đàn ông sống trên đồi. Ở phía bên kia của kho quân nhu.”
“Ông có nhớ tên anh ta không?”
“Không. Anh ta sống cùng gia đình trong một ng ôi nhà tuềnh toàng không được sơn. Chúng tôi tìm th ấy rất nhiều hàng hóa lấy từ kho qu ân nhu ởđó. Tôi viết tro ng nhật ký rằng anh ta có ba con, một tro ng sốđó là một cô gái bị tật nguy ền. Hai đứa còn lại là con trai. Người m ẹ…”
Ed yên lặng.
“Ng ười m ẹ thì sao?” Elínborg nói.
“T ôi nghĩ là cô ấy đã sống rất khổ sở.” Ed lại yên lặng và trầm ngâm suy nghĩ như thểđan g đưa mình quay trở lại thời xa xôi đó, khi mà ông điều tra vụăn cắp, bước vào m ột ngôi nhà của ng ười Iceland và gặp m ột ng ười phụ nữ mà ông hiểu rằng cô là nạn nhân của bạo lực gia đình. Và không chỉ là nạn nhân của một trận đánh gần đây; rõ ràng cô đã ph ải chịu đựng sự ng ược đãi thường xuyên và có hệ th ống, cả về th ể ch ất lẫn tinh th ần.
Ông hầu như không chú ý đến cô ấy khi bước v ào ngôi nhà cùng bốn cảnh sát quân đội khác. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt ông là một bé gái bị tật ng uy ền n ằm trên chiếc đi- v ăng cũ kỹ trong b ếp. Ông th ấy hai th ằng con trai đứng bên cô bé, sững sờ và kinh ng ạc khi thấy qu ân lính xộc vào nhà. Ông nhìn thấy ng ười đàn ông nh ảy dựng lên từ bàn ăn. Họ đến mà khôn g thông báo trước và rõ ràng là anh ta không mong ch ờ cu ộc viếng thăm này. Chỉ cần liếc m ắt họ cũng biết ng ười nào cứng đầu, ng ười nào có kh ả n ăng nguy hiểm. Ng ười đàn ông này khó có thể gây khó khăn cho h ọ.
Sau đó ông th ấy ng ười ph ụ nữ. Lúc đó m ới là đầu xuân, trời rất ảm đạm, ph ải m ất một lúc ông m ới quen với bóng tối trong nhà. Như th ểđang lẩn trốn, ng ười phụ nữ đứng ở ch ỗ m à ông nghĩ rằng mình có th ể trô ng thấy một hành lang dẫn đến các phòng khác. Lúc đầu, ông bắt cô ấy vì nghĩ cô là một tro ng số nh ững tên trộm và đang cố ch ạy trốn. Ông tiến lại chỗ hành lang, rút súng ra khỏi bao. Ông hét lên và chĩa súng vào bóng tối. Đứa bé bị què bắt đầu hét lên. Hai th ằng con trai lao vào ông ngay lập tức và hét lên nh ững câu mà ông không hiểu. Vàng ười ph ụ nữ bước ra kh ỏi bóng tối, ng ười mà ông sẽ không bao giờ quên cho đến cu ối đời.
Ngay lập tức ông nh ận ra lý do tại sao cô lại giấu mìn h. Khuôn mặt cô bị bầm tím rất nặng, môi trên phồng lên còn một m ắt bị sưng đến m ức khô ng thể m ở ra được. Cô nhìn ông bằng tia nhìn sợ hãi của con mắt còn lại, sau đó cúi đầu xuống như thể theo b ản năng. Nh ư thể sợ ông ta chuẩn bịđánh mình. Cô m ặc m ột chiếc váy rách tảtơi phủ bên ngoài một chiếc kh ác, đi đôi tất và đôi giầy cũ kỹ bẩn thỉu. Mái tóc b ẩn của cô xõa xuống vai thành một m ớ dày. Ông th ấy cô đi kh ập khiễng. Đây là sinh vật khốn khổ nh ất mà ông từng thấy trong đời.
Ông nhìn cô trong lúc cô cố gắng bảo các con bình tĩnh lại và hiểu rằng không phải cô đang cố g ắng che giấu đi vẻ b ề ngoài của mìn h.
Mà cô ấy đang che giấu sự x ấu hổ.
Nh ững đứa trẻ yên lặng. Th ằng anh đứng đằng trước, quay lưng về phía m ẹ. Ed nhìn san g ch ỗ gã ch ồng, tiến lại và tát vào m ặt h ắn m ột phát n ổđom đóm m ắt.
“Ch uy ện là như th ế,” Ed kết thúc câu chuyện của mình. “Tôi khô ng th ể kiềm ch ế bản thân mình được. Không hiểu chuy ện gì đã diễn ra. Tôi kh ông hiểu ch uy ện gì đã xảy đến v ới mình. Th ực sự, tôi khô ng hiểu nổi. Chúng ta đã được huấn luy ện, hai ng ười biết đấy, được hu ấn luy ện để đối m ặt với tất cả mọi chu yện. Được hu ấn luy ện để giữ bình tĩnh, cho dù có chuy ện gì xảy ra đi ch ăng n ữa. Hai người có thể hình dung rằng, điều qu an trọng nh ất là ph ải kiểm soát được mìn h ở mọi nơi m ọi lú c, tron g khi chiến tranh đang xảy ra và tất cả nh ững chuyện khác nữa. Nh ưng khi tôi nhìn ng ười phụ n ữđó… khi tôi thấy nh ững gì cô ấy phải chịu đựng – và ch ắc ch ắn là kh ông chỉ có thế – tôi có th ể hình dung ra cu ộc sống của cô ấy dưới bàn tay tên khốn đó. Và có điều gì đó ch ợt xảy đến trong tôi. Có điều gì đó diễn ra mà tôi khô ng th ể n ào kiểm soát n ổi.”
Ed d ừng lại.
“Tôi làm cảnh sát ở Baltimore hai n ăm trước khi chiến tranh nổ ra. Hồi ấy ch uy ện đó khô ng được gọi là bạo lực gia đình, nh ưng nó cũng thế cả thôi. Tôi cũng đã bắt gặp điều đó, ở ngôi nh à đó và tôi luôn luôn gh ê tởm nó. Tôi có thể hình dung ra ngay nh ững gì mà hắn đã làm, hắn lại còn ăn cắp của chú ng tôi nữa… nh ưng, thế đấy, hắn lại bị xử bởi tòa án của các ông,” Ed nói như thểđang cố gắng đẩy những hình ảnh về ng ười phụ nữ trên đồi ra khỏi tâm trí của mình. “T ôi khô ng nghĩ là hắn phải chịu m ột bản án nặng. Ch ắc ch ắn hắn lại quay về nhà và đán h đập ng ười vợ đáng th ương trước khi cái thời h ạn hai tháng trôi qua.”
“Như vậy, ông đang nói về bạo lực gia đình nghiêm trọng,” Erlendur nói.
“Chuy ện tồi tệ nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra. Ánh mắt của người phụ nữ đó, nó thật sự kinh hoàng,” Ed nói. “Rất kinh hoàng. Như tôi đã nói, tôi có thể biết ngay tức khắc chuyện gì đã xảy ra. Tôi cố gắng nói chuyện với cô ấy nhưng cô ấy không hiểu một từ tiếng Anh nào hết. Tôi nói với cảnh sát Iceland về cô ấy, nhưng họ nói rằng họ cũng không làm được gì nhiều. Chuyện đó cũng chẳng biến chuyển nhiều, tôi hiểu vậy.”
“Ông không nhớ tên của họ à?” Elínborg hỏi. “Ông không ghi vào nhật ký à?”
“Không, nh ưng các ông ph ải có báo cáo về việc đó. Về vụăn trộm ấy. Và hắn lại làm việc tro ng kho quân nhu. Ch ắc ch ắn là ph ải có danh sách nh ững ng ười được thuê làm ởđó, nh ững ng ười Icelan d ở doanh trại trên đồi. Nhưng cóth ể là đã quá lâu rồi.”
“T h ế còn nh ững ng ười lính thì sao?” Erlendur hỏi. “Những ng ười mà tòa án của các ông x ửấy?”
“Họ bị ph ạt tù. Ăn cắp của kho quân nhu là tội rất n ặng. Sau đó h ọ bị đưa ra chiến trường. M ột b ản án tử hình hoàn h ảo.”
“Và các ông b ắt h ọ không sót một ai?”
“Ai mà biết được? Nh ưng sau đó không còn n ạn ăn cắp n ữa. Việc kiểm kê hàng hóa lại trở lại bình thường. Vấn đề đã được giải quy ết.”
“Vậy ông không cho rằng chuyện này có chút dính líu gì đến bộ x ương mà chúng tôi tìm th ấy à?”
“Tôi không dám ch ắc.”
“Ông không nhớ có ai bị m ất tích trong lực lượng của ông hay của ng ười Anh à?”
“Ý ông là một k ẻđào ngũư?”
“Không. Một vụ m ất tích khó giải thích ấy. Vìbộ xương đó. Có thể là một lính Mỹở kho d ự trữ kh ông?”
“Tôi không biết m ột thông tin nào h ết. “
Họ nói ch uy ện với Ed thêm m ột lúc lâu n ữa. Ông ta tỏ ra thích trò chuy ện v ới hai thám tử. Dường nh ư ông ta thích hồi tưởng lại những ngày x ưa cũ với sự giúp đỡ của cu ốn nhật ký của mình. Chẳng m ấy ch ốc họđã nói ch uy ện v ề những n ăm chiến tranh ở Iceland và nh ững ảnh hưởng của sự có m ặt của qu ân đội ch o đến khi Erlendur tỉnh táo lại. Mình không được phun g phí thời gian như thế. Ông đứng lên và Elínborg cũng thế, cả hai ng ười h ọ cảm ơn Ed một cách chân thành.
Ed đứng lên để tiễn h ọ ra ng oài.
“Làm th ế nào mà các ông phát hiện được vụăn cắp?” Erlendur hỏi ở bậc cửa.
“Ph át hiện ra ư?” Ed nh ắc lại.
“Các ông lấy manh mối ởđâu?”
“À, tôi hiểu rồi. Một cuộc điện thoại. Có ai đó gọi điện đến sở chỉ huy và báo cáo về một vụđánh cắp lớn ở kho d ự trữ.”
“Ai đã tố cáo nhỉ?”
“Chúng tôi không bao giờ tìm ra, tôi e vậy. Không bao giờ biết người đó là ai.”
Sím on đứng bên cạnh mẹ và quan sát, nó điếng cả người khi ng ười lính đi vòng quanh nhà với vẻ mặt đầy ng ạc nhiên và giận dữ, ông ta đi thẳng qua bếp và tát bố nó nổđom đóm mắt đến nỗi bố nó ngã lăn ra sàn nhà.
Ba ng ười lính còn lại đứng yên ở cửa ra vào trong lúc ng ười vừa tấn công Grímur đứng bên trên và quát nạt ông ta bằng nh ững lời lẽ mà ng ười Iceland không hiểu nổi. Símon không thể tin nổi vào m ắt mình. Nó nhìn Tómas, khiếp đảm trước những gì đang diễn ra, và sau đó nhìn sang Mikkelína, chị nó đang nhìn ch ằm ch ằm đầy ho ảng loạn vào Grímur – ng ười lúc n ày đang nằm trên sàn nhà. Nó nhìn lên mẹ nó và th ấy mắt m ẹ rưng rưng nước.
Grímur không được phòn g bị từ trước. Khihọ nghe thấy tiếng hai chiếc xe jeep đỗ bên ngoài nhà, người m ẹđã lẩn nhanh vào trong hành lang để khô ng ai nhìn thấy mìn h, nhìn thấy hốc mắt tím bầm và đôi môi nứt toác. Grímur thậm chí còn ch ưa đứng lên khỏi bàn ăn, nh ư th ể hắn không lo lắng gì về việc trộm cắp của hắn và nh ững tên ăn cắp vặt sẽ có ngày bị phát hiện. Hắn đang ch ờ nh ững ng ười b ạn lính của mình mang đến m ột ch uy ến h àng mà họ dự định sẽ giấu trong nhà và buổi tối sẽ vào thành phố bán chiến lợi phẩm của mình. Grímur có rất nhiều tiền và h ắn bắt đầu nói đến ch uy ện chuy ển đi khỏi ngọn đồi, mua m ột căn hộ, và thậm chí cả việc mua ô tô, nh ưng chỉ khi nào tinh thần rất thoải mái h ắn m ới nói nh ững chuy ện nh ư th ế.
Nh ững ng ười lính dẫn Grímur ra khỏi nhà, tống hắn lên một trong hai chiếc xe jeep và giải hắn đi. Ng ười đứng đầu – ng ười đã đốn Grímur ngã xuống sàn mà không m ất chút cô ng sức khó nhọc nào – đã nói điều gì đó với ng ười m ẹ và sau đó chào tạm biệt, không ph ải là kiểu chào nhà binh mà là một cái bắt tay, sau đó ông ta leo lên chiếc xe jeep còn lại.
Ngôi nhà nh ỏ bé lại nhanh chóng chìm ng ập trong sự yên lặng. Ng ười m ẹ vẫn đứng nguyên ở chỗ hành lang nh ư th ể việc xâm nh ập v ừa rồi vượt quá tầm hiểu biết của cô. Cô nh ẹ nhàng xoa m ắt, dán ch ặt mắt vào nh ững gì mình v ừa nhìn được. Mẹ con họ ch ưa bao giờ nhìn thấy cảnh Grímur nằm trên sàn nhà, ch ưa bao giờ ch ứng kiến hắn n ằm chỏng queo nh ư th ế. Ch ưa có m ột ai dám quát hắn, ch ưa bao giờ th ấy hắn kém cỏi nh ư vậy. Họ không th ể hiểu được chu y ện gì v ừa x ảy ra. Nó x ảy ra như thế nào. T ại sao Grímur lại không đánh lại ng ười lính và d ần cho họ một trận nh ừ tử. Nh ững đứa trẻ nhìn nhau. Trong ngôi nhà, sự yên lặng trở nên ng ột ng ạt. Chúng nhìn m ẹ k hi ng he thấy m ột âm thanh lạ. Âm thanh đó phát ra từ Mikkelína. Con bé ng ồi xổm trên chi ếc gi ườ ng của nó và họ lại ng he th ấy âm thanh ấy lần n ữa. Họ thấy con bé cười rúc rích, và tiếng cười rúc rích chuy ển dần thành tiếng cười kh ẩy, lúc đầu con bé đã cố gắng nín lại nhưng không được, về sau con bé cười ầm lên. Símon mỉm cười rồi cũng cười phá lên, Tómas cũng bắt ch ước, và ngay lập tức cả ba gào rú lên nh ững tràng cười không dứt vang vọng kh ắp qu ả đồi, lan vào tiết trời xuân đẹp đẽ.
Hai tiếng sau, một xe tải quân đội đến và thu dọn hết tất cả nh ững chiến lợi ph ẩm mà Grímur và đồng bọn đã giấu trong nh à. Nh ững đứa trẻ nhìn theo cái xe tải dần đi x a, sau đó chúng ch ạy lên đồi và th ấy nó quay trở lại kho quân nhu, nơi các món đồ được dỡ xuống.
Símon không biết đích xác chuy ện gì đã xảy ra và nó cũng không dám ch ắc là m ẹ nó hiểu, nh ưng Grímur đã bị kết án tù và trong một vài thán g tới ông ta sẽ kh ông được phép về nhà. Lúc đầu, cuộc sống trên đồi v ẫn diễn ra nh ư mọi khi. Dường nh ư họ khô ng hiểu được rằng Grímur không còn ở nhà n ữa. Ít nh ất là tron g thời gian hiện tại. Người m ẹ vẫn làm những công việc vặt hàng ngày, không băn kho ăn gì về việc sử dụng những của cải bất chín h của Grímur để nuôi sống bản thân và các con. Về sau cô tự tìm việc làm ình ở nông trại Gufunes cách nhà tầm nửa tiếng đồng hồđi bộ.
Khi thời tiết thu ận lợi, hai thằng con trai vẫn đưa Mikk elín a ra tắm n ắng. Đôi lúc chúng đưa chịđi cùng mỗi khi đi câu cá ở hồ Reynisvatn. Nếu chún g bắt được đủ cá hồi, m ẹ chúng sẽ rán cá tron g ch ảo và n ấu một b ữa ngon lành. Dần d ần, họ không còn e ng ại rằng Grímur vẫn kìm kẹp mình ngay cả khi h ắn khôn g ở nhà nữa. Việc th ức dậy vào buổi sáng dễ dàng hơn rất nhiều, một ngày trôi qua mà không ai ph ải lo lắng điều gì, và đêm đã về mà ngôi nhà vẫn chìm trong yên tĩnh, chu y ện này thật d ễ chịu đến m ức họ th ức đến tận đêm khuya trò chuy ện và ch ơi đùa cho đến khi m ắt díp h ết cả lại.
Tuy nhiên, sự vắng m ặt của Grímur ảnh hưởng lớn nhất đến mẹ của lũ trẻ. Một ngày, khi cuối cùng cô cũng nhận ra rằng hắn sẽ không quay trở lại ngay nữa, cô lau chùi từng phân trên chiếc giường đôi của họ. Cô phơi đệm ra ngo ài sân, đập và phủi tất cả những bụi bẩn bám trên đó. Sau đó cô mang ch ăn m ền ra và đập cả chúng nữa. Cô thay khăn trải giường, tắm rửa cho các con với xà phòng màu xanh và nước nóng lấy từ cái bình lớn cô đặt trên sàn bếp. Cuối cùng, cô cẩn thận gội đầu và rửa m ặt sạch sẽ – trên đó vẫn còn hằn những dấu vết từ lần đánh đập trước của Grímur – cô tắm cả người mình. Cô lưỡng lự cầm một cái gương lên và soi vào đó. Cô xoa m ắt và môi. Ng ười cô đã gầy đi và khuôn mặt đã đanh hơn, răng hơi nhô ra một chút, hai mắt trũng sâu còn cái mũi từng gãy một lần có một đường cong khó nh ận ra.
Đến nửa đêm, cô đưa các con lên giường và cả bốn mẹ con họ ngủ cùng nhau. T ừđó, nh ững đứa trẻ ngủ trên chiếc giường lớn cùng m ẹ, Mikkelína n ằm bên ph ải, hai thằng con trai nằm bên trái, th ật h ạn h phú c.
Cô ch ưa bao giờ vào th ăm Grímur trong tù. Cô và cả các con của cô ch ưa bao giờ nh ắc đến tên hắn trong suốt thời gian hắn vắng nhà.
M ột buổi sáng không lâu sau khi Grímur bị đưa đi, Dave – anh lính tốt bụng – lại đi bộ lên đồi, tay cầm theo cần câu. Anh ta đi qua ngôi nhà của họ và nháy m ắt với Símon, th ằng bé đang đứng trước nhà, và tiếp tục đi đến Hafravatn. Símon lại bắt đầu theo dõi, nó nằm xuống cách anh ta một kho ảng đủ để quan sát. Dave ngồi cả ngày bên hồ, nghỉ ngơi nh ư m ọi lần và hình như không quan tâm xem mình b ắt được bao nhiêu cá. Anh ta bắt được ba con.
Khi trời chu y ển sang chiều, anh ta quay trở lại lên đồi và dừng lại bên nhà họ v ới ba con cá buộc đuôi lại với nhau bằng m ột sợi dây. Bản thân Dave cũng không ch ắc chắn, và Símon cũng có v ẻ nh ư thế. Th ằng bé đã ch ạy trở lại nhà để theo dõi ng ười lính qua cửa sổ bếp – nơi mà nó ch ắc ch ắc là Dave không thể trông th ấy mình. Cuối cù ng ng ười lính đã quy ết địn h, anh ta bước đến ngôi nhà và gõ cửa.
Sím on đã kể ẹ nghe về Dav e, người cho cá hồi lần trước, cô b ước ra và nhìn xung quanh tìm anh ta, lại vào nhà, nhìn mình trong gương và vuốt lại tóc. Dường như cô cảm thấy rằng anh ta sẽ ghé qua trên đường trở về doanh trại. Cô đã sẵn sàng chào Dave khi anh ta đến.
Cô m ở cửa và Dave mỉm cười, nói điều gì đó mà cô khô ng hiểu và đưa cho cô m ấy con cá. Cô cầm lấy và mời anh ta vào nhà. Dave bước vào và đứng lúng tún g trong bếp. Anh ta gật đầu với m ấy đứa trẻ và với Mikkelína. Con bé duỗi thẳng ng ười và cố rướn lên để nhìn anh lính cho rõ – ng ười đã đi một quãng đường xa nh ư vậy chỉ để đứng trong bếp nhà họ. Anh ta m ặc quân ph ục và đội một chiếc mũ buồn cười trô ng ch ẳng khác nào m ột cái thuy ền úp ng ược. Dave đột ng ột nhớ ra là ph ải bỏ nó ra khỏi đầu khi bước vào nên anh ta túm lấy nó và giật xuống đầy ng ượng nghịu. Anh ta người tầm th ước, chắc ch ắn là trên ba m ươi tuổi, ng ười mảnh kh ảnh với hai b àn tay đẹp đang nghịch v ớ v ẩn cái thuy ền úp ngược, tay vặn vẹo nh ư thể là đang giặt nó. Cô ph ác m ột cử chỉ mời anh ta ngồi, anh ta ngồi xuống, hai đứa co n trai m ỗi đứa ngồi một bên trong lúc m ẹ chúng pha cà phê m ời khách
– loại cà phê Grímur đã ăn cắp ở kho quân nhu mà nh ững ng ười lính khôn g phát hiện ra. Dave đã biết tên của Símon và phát hiện ra rằng cái tên Tómas của cậu út rất dễ phát âm. Tên của Mikkelína làm anh ta ngạc nhiên, Dave đọc đi đọc lại, khôi hài đến m ức tất cả mọi ng ười đều phải b ật cười. Anh ta nói rằng tên mình là Dave Welch, đến từ một vùng có tên là Brooklyn ở Hoa Kỳ. Anh ta nói rằng mình là m ột binh nhì nh ưng họ ch ẳng hiểu anh ta đang nói gì.
“M ột binh nhì,” anh ta nh ắc lại, nh ưng họ chỉ nhìn anh ta ch ằm ch ằm.
Anh ta uống cà phê và có vẻ rất hài lòng với mùi vị của nó.
Ng ười m ẹ ngồi đối diện v ới anh ta ở đầu kia của b àn.
“Tôi biết là chồng cô đan g ở trong tù,” anh ta nói. “Vì tội ăn cắp.”
Anh ta không nh ận được lời đáp lại.
Liếc nhìn lũ trẻ, anh lấy ra một m ẩu giấy tro ng túi áo ngực và xoay xoay nó giữa các ngón tay nh ư th ể là không biết ph ải làm gì. Sau đó anh ta đưa tờ giấy qua bàn cho ng ười mẹ. Cô cầm lên, m ở nó ra và đọc xem nó nói gì. Cô nhìn anh ta ng ạc nhiên, sau đó lại nhìn m ẩu giấy. Sau đó cô g ấp m ẩu giấy lại và để vào túi tạp dề.
Tómas cố g ắng để Dave hiểu rằng anh ra ph ải thử phát âm lại tên Mikkelína lần n ữa, và khi anh ta nói lại, tất cả m ọi ng ười lại bắt đầu cười, còn Mikkelína cười nhăn hết cả mặt tro ng niềm vui đích thực.
Mùa hè n ăm đó, Dave Welch đến thăm nhà họ thườn g xuy ên hơn, anh kết b ạn với lũ trẻ và m ẹ chúng. Anh câu cá ở hai hồ và đưa cá cho họ, anh còn lấy thêm nh ững th ứ nho nhỏ cho họ từ kho quân nhu n ữa. Nh ững thứ này rất có ích v ới họ. Anh chơi đùa cùng lũ trẻ, còn chúng thì tỏ ra rất vui sướng khi anh có mặt ởđó. Anh luôn luôn mang theo cuốn sổ của mìn h để giúp lũ trẻ hiểu b ằng tiếng Iceland. Họ cười lăn cười bò khi thấy Dave ấp úng một cụm từ tiếng Iceland. Khuôn mặt nghiêm túc trái ng ược hẳn với nh ững gì anh nói, và cái cách mà anh phát âm thì ch ẳng khác nào một đứa trẻ ba tuổi đang b ập b ẹ.
Nh ưng Dave là m ột ng ười sáng dạ nên chẳng bao lâu họđã hiểu anh và anh cũng hiểu nh ững gì họ nói. Hai đứa co n trai đưa an h đến những n ơi câu cá tốt nh ất, chú ng đi bộ đầy tự hào cùng anh lên đồi và vòng quanh hồ. Hai đứa trẻ cò n được học tiếng Anh với Dave cùng nh ững bài hát M ỹ mà chúng nghe thấy từ kho quân nhu.
Anh tạo dựng một mối quan h ệ đặc biệt v ới Mikk elín a. Ng ay lập tức anh chiếm trọn cảm tình của cô bé. Anh thường đưa cô bé ra ngoài vào nh ững ngày đẹp trời và kiểm tra kh ả năng nhận th ức của nó. Cách dạy của anh cũng giống nh ư mẹ nó: nâng đỡ ch ân tay cho nó, đỡ nó trong lúc đi lại, giúp nó tập tất cả các bài thể dục. Một ngày, anh đưa một bác sĩ quân y đến để kiểm tra sức khỏe cho Mikkelína. Ông bác sĩ soi đèn pin vào mắt và cổ họng nó, xoay đầu nó, sờ vào cổ và xem xét dọc x ương sống nó. Ông ta mang theo nhiều kh ối gỗ và luồn ng ười con bé vào nh ữn g cái lỗ trên đó. Chuy ện đó khô ng hề khó khăn với con bé chút nào. Ông ta nghe k ể rằng cô bé bịốm năm lên ba tuổi và có th ể hiểu được những gì người kh ác nói nh ưng lại khôn g nói được. Ông ta cũng nghe rằng con bé có thể đọc được và mẹ con bé đã d ạy nó viết. Bác sĩ gật đầu ra ch ừng đã hiểu, trên m ặt biểu lộ một ánh nhìn đầy ý nghĩa. Ông ta đã nói chuy ện rất lâu với Dave sau cu ộc kiểm tra và khi ông ta rời đi, Dave cố gắng làm cho họ hiểu rằng Mikkelína hoàn toàn khỏe m ạnh. T ất cả mọi ng ười đều đã biết điều đó. Nh ưng anh ta nói rằng, dần dần, với nh ững bài luy ện tập thích hợp và nỗ lực khôn g ng ừng, Mikkelína sẽ có thểđi lại được mà không cần ai giú p đỡ.
“Đi lại được ư!” Ng ười m ẹ nh ảy d ựng lên.
“Và th ậm chí là cả nói năng bình th ường nữa,” Dave nói thêm. “Có lẽ v ậy. Côbé đã đi khám bác sĩ lần nào ch ưa?”
“Ch uy ện đó nằm ngoài khả n ăng của tôi,” ng ười m ẹ nói buồn bã.
“Cô bé s ẽổn thôi,” Dave nói. “Hãy cho cô bé th ời gian. “
Ng ười m ẹ không nghe anh ta nói n ữa.
“Hắn là m ột gã đàn ông tệ b ạc,” cô đột ng ột nói. Và tất cả nh ững đứa trẻ dỏng tai lên vì chúng ch ưa bao giờ nghe th ấy m ẹ nói một lời nào về Grímur giống nh ư lần này cả. “M ột gã đàn ông tệ b ạc,” cô nói tiếp, “một sinh v ật đáng ghét không x ứng đáng được sống. Tôi không hiểu tại sao ng ười ta lại được phép làm nh ững điều mình mu ốn. Điều gì khiến ng ười ta làm nh ư v ậy? Điều gì đã khiến h ắn biến thành một con quái v ật nh ư vậy? Tại sao h ắn lại cư xử nh ư m ột con vật h ết n ăm này qua n ăm khác, cứđánh đập tôi cho đến khi tôi mu ốn ch ết và ng hĩ cách làm th ế nào để…”
Cô trút m ột hơi thở dài và đến ngồi bên M ikkelína.
“Tôi cảm th ấy x ấu hổ vì là nạn nhân của một gã đàn ông như thế, tôi giấu mình trong nỗi cô đơn vây bủa và ng ăn ch ặn tất cả m ọi người đi vào thế giới của mình, thậm chí là các con mình, vì tôi không muốn ai đặt ch ân vào đó, ít nhất là tất cả bọn họ. Và tôi ngồi ch ờ đợi lần đán h đập bất ng ờ tiếp theo, lòng tràn ngập sự căm thù đối với m ột điều gì đó mà tôi không biết. Tôi dành cả cu ộc đời mìn h để ch ờ đợi lần tấn công tới, băn kho ăn khi n ào thì nó đến, nó sẽ tệ nh ư thế nào, lý do là gì, làm th ế nào để né tránh nó. Tôi càng cố làm h ắn hài lòng thì hắn càng tức giận. Tôi càng thể hiện là mình ngoan ngoãn và sợ hãi, hắn lại càng ghê tởm tôi. Và n ếu tôi ch ống lại, hắn càng có lý do để đánh tôi nh ừ tử. Chẳng có cách nào để làm đúng mọi chu y ện. Không có cách nào. Cho đến khi tôi nghĩ về việc làm thế nào để v ượt qua chuy ện đó. Không quan trọng là th ế nào. Chỉ cần vượt qua nó là được.”
M ột sự yên lặng chết chó c bao trù m. Mikk elína nằm yên trên giường còn hai thằng con trai tiến lại gần chỗ mẹ. Chún g lắng nghe và chết lặng đi trước từng lời m ẹ nói. Chưa bao giờ mẹ chú ng khơi ra nỗi đau và sự dằn vặt mà bà vật lộn với chúng lâu đến mức bà đã quên sạch những thứ khác.
“M ọi chuy ện sẽổn thôi,” Dave nói.
“Con sẽ giúp m ẹ,” Símon nghiêm túc nói.
Cô nhìn con trai.
“M ẹ biết, Símon,” cô đáp. “M ẹ luôn biết điều đó, Símon tội nghiệp của m ẹ.”
Ngày tháng cứ thế trôi đi và Dave dành hết thời gian rảnh rỗi của mình đến nhà họ. Càng ngày anh càng dành nhiều thời gian bên mẹ chúng, hoặc ở trong nh à hoặc đi dạo quan h hồ Reynisv atn hay đến Hafravatn. Hai thằng con trai mu ốn gặp anh nhiều hơn, nhưng anh đã thôi không còn đi câu cá với chúng cũng như dành ít thời gian bên Mik kelín a hơn. Nh ưng chúng không buồn. Chún g để ý thấy sự thay đổi nơi m ẹ, chún g gắn chuy ện đó với Dave và thấy m ừng ẹ.
M ột ngày mùa thu đẹp trời, gần nửa năm sau khi Grímur bị cảnh sát đưa đi, Símon th ấy Dave và mẹ nó từ xa, họđang đi bộ về phía ngôi nhà. Họđi sát cạnh nhau và tất cả nh ững gì nó thấy là hai ng ười đang nắm tay nhau. Khi họ đến gần nhà hơn, hai ng ười bỏ tay ra và đi cách xa nhau, và Símon nhận ra là họ không muốn để ai nhìn th ấy.
“M ẹ và chú Dave dự định sẽ làm gì?” Símon hỏi m ẹ vào một buổi tối mùa thu sau khi hoàng hôn đã đổ xuống ng ọn đồi. Họ ngồi tron g bếp. Tómas và Mikkelína đang chơi bài. Dave ởđó cả ngày cùng họ, sau đó quay trở về đơn vị. Câu hỏi đó đã được đặt ra suốt mùa hè. Nh ững đứa trẻđã thảo luận riêng về chu y ện đó và tưởng tượng ra rất nhiều tình hu ống mà cái nào cũng k ết thúc bằng việc Dave trở thành bố của chúng và tống khứ Grímur ra khỏi cuộc sống của m ẹ con chúng mãi mãi.
“Ý con là sao, làm gì là làm gì?” m ẹ nó h ỏi.
“Khi ông ta trở v ềấy,” Símon nói, nó thấy Tómas và M ikk elín a đã th ôi ch ơi bài và đang nhìn n ó.
“Còn rất nhiều thời gian để ng hĩ đến ch uy ện đó mà,” cô đáp. “Ông ta sẽ khô ng trở v ề ng ay đâu.”
“Nh ưng hai người định sẽ làm gì?” Mikkelína và Tómas quay đầu từ Símon sang m ẹ.
Cô nhìn Símon và hai đứa kia.
“Ch ú ấy sẽ giúp chúng ta,” cô nói.
“Ai cơ?” Símon h ỏi.
“Dave. Chú ấy sẽ giúp chúng ta.”
“Ch ú ấy định làm gì?” Símon nhìn mẹ, cố gắng hiểu ý của bà. Cố nhìn th ẳng vào m ắt bà.
“Dave biết rõ lo ại ng ười đó. Chú ấy biết cách để lo ại trừ chú ng. “
“Chú ấy sẽ làm gì cơ?” Símon nh ắc lại.
“Con đừng lo về c uy ện đó,” người m ẹđáp.
“Chú ấy sẽ giúp chúng ta tránh khỏi ông ta ư?”
“Phải.”
“Làm thế nào cơ?”
“Mẹ không biết. Chúng ta càng biết ít càng tốt, chú ấy nói vậy. Và tốt nhất là mẹ không nên nói với các con chuyện này. Có thể chú ấy sẽ nói chuyện với ông ta. Đe dọa ông ta. Chú ấy nói rằng chú ấy có bạn bè trong quân đội và họ sẽ giúp chú ấy khi cần thiết.”
“Nhưng nếu Dave ra đi thì sao?”
“Ra đi ư?”
“Nếu chú ấy rời Iceland, ” Símon nói. “Chú ấy sẽ không thể ở đây mãi được. Chú ấy là quân nhân. Người ta luôn chuyển quân đi và đưa quân mới đến. Nếu chú ấy đi thì sao? Lúc đó chúng ta sẽ làm gì?”
Cô nhìn con trai.
“Chúng ta sẽ tìm cách,” cô nói bằng giọng trầm. “Lúc đó chúng ta sẽ tìm cách.”