Bụi Ly Chua Máu

CHƯƠNG 21



Con không nói dối
Tối đó, Sigurd ur Óli đã hoàn tất cô ng việc tìm kiếm trong tầng hầm mà chẳng phát hiện thêm được điều gì về những người thuê ngôi nhà gỗ của Benjamín trên đồi. Anh không quan tâm. Anh chỉ thấy sung sướng khi được thoát ra khỏi đó. Khi anh về đến nhà, Bergthóra đang chờ anh. Cô đã mua một ít rượu vang đỏ và đang nhấm nháp nó trong bếp. Cô lấy ra một cái cốc khác và đưa nó cho anh.
“Anh không giống Erlendur,” Sigurdur Óli nói. “Đừng bao giờ nói bất kỳ điều gì tồi tệ như thế về anh.”
“Nhưng anh muốn giống ông ta,” Bergthóra nói. Cô đang nấu mì và đã đốt nến trong phòng ăn. “Một khung cảnh thật đẹp ột buổi hành hình,” Sigurdur Óli thầm nghĩ.
“Đàn ông nào chẳng muốn giống ông ta,” Bergthóra nói.
“Nào nào, sao em lại nói thế?”
“Để mặc ình tự làm những gì mình thích.”
“Kh ông phải thế đâu. Em không thể hình dung được là Erlendur sống một cuộc sống đáng thương như thế nào đâu.”
“Ít nhất là em muốn làm rõ m ối quan hệ của chúng ta,” Bergthóra nói trong lúc rót rượu vào cốc của Sigurdur Óli.
“Được, chúng ta hãy cùng làm rõ mối quan hệ giữa em và anh.” Sigurdur Óli chưa bao giờ gặp một người phụ nữ nào thực tế hơn Bergthóra. Cuộc nói ch uyện này không đề cập gì đến tình yêu trong cuộc sống của họ.
“Chúng ta đã ở cùng nhau đến nay là, xem nào, ba, bốn năm rồi, và chẳng có chuy ện gì xảy ra cả. Anh nhăn m ặt lại m ỗi khi em nhắc đến bất cứ điều gì có dính dán g đến trách nhiệm. Chúng ta vẫn độc lập về tài chính. Một đám cưới ở nhà thờ là điều không tưởng; em không biết có còn kiểu nào khác nữa không. Chúng ta vẫn chưa đăng ký sống thử. Việc có con với anh xa vời giống như một thiên hà xa lơ xa lắc vậy. Thế nên câu hỏi của em là: Giữa chúng ta còn lại gì?”
Trong lời nói của Bergthóra không có dấu hiệu nào cho thấy cô đang giận d ữ. Cho đến lúc này, cô vẫn chỉ đang cố gắng hiểu mối quan hệ của họ và băn khoăn nó sẽ tiến đến đâu. Sigu rd ur Óli quyết định sẽ tận dụng điều này trước khi vấn đề trở nên khó kiểm soát. Anh đã có rất nhiều thời gian để nghiền ngẫm những câu hỏi đó trong lúc làm công việc chán nản ở tầng hầm của Benjamín.
“Điều còn lại là hai chúng ta,” Sigurdur Óli nói. “Hai chúng ta.”
Anh tìm một đĩa CD, đặt nó vào đầu quay và ch ọn một bài hát đã ám ảnh anh từ khi Bergthóra gây sức ép về trách nhiệm với anh. Tên bài hát có tựa đề Ḷng chung thủ y củ a Marianne, thể hiện bởi Lucy Jordan, nói về người nội trợ đã mơ đến việc lái xe thể thao vòng quanh Paris v ới làn gió lạnh lùa vào mái tóc.
“Chúng ta đã nói về chuyện này đủ lâu rồi,” Sigudur Óli nói.
“Sao cơ?” Bergthóra nói.
“Cuộc du ngoạn của chúng ta.”
“Ý anh là đến Pháp ư?”
“Phải.”
“Sigurdur …”
“Chúng mình đi Paris và thuê một chiếc xe thể thao thôi,” Sigurdur Óli nói.
 
Erlendur bị cuốn vào một cơn bão xoáy kinh hoàng. Tuyết phủ lên người ông và tấp vào mặt ông, hơi lạnh và bóng tối trói ch ặt lấy ông. Ông cố chống cự lại cơn bão nhưng không làm được, vì thế ông quay lưng lại luồng gió và cúi mình khi tuyết lại phủ kín người ông. Ông biết rằng mình sẽ chết và không thể làm được gì hết.
Chuông điện thoại vẫn cứ tiếp tục réo, nó đâm thủng cơn bão tuyết cho đến khi cơn bão đang gào rú bỗng trở nên yên lặng, ông tỉnh dậy và nh ận thấy mình đang nằm trên chiếc ghế trong nhà. Trên bàn, chiếc điện thại réo càng lúc càng nhẫn tâm.
Erlen dur khó nhọc lết đến chỗ cái bàn, đang định nhấc ống nghe lên thì tiếng chuông dừng lại. Ông đứng bên điện thoại, chờ cho nó reo lần nữa nhưng chẳng có gì cả. Nó đã quá cũ rồi, không hiển thị số của người gọi được nên Erlendu r không biết ai đã liên lạc với mình. Ông tưởng tượng ra một người tiếp thị qua điện thoại đang cố bán một chiếc máy hút bụi với một lò nướn g bên trong cho tiện sử dụng. Ông thầm cảm ơn người nhân viên tiếp thị đó đã kéo ông ra khỏi cơn bão tuyết.
Ông đi vào bếp. Lúc đó đã là tám giờ tối. Ông cố xua ánh sáng của buổi tối mùa xuân ra khỏi nhà bằng cách kéo rèm nhưng nó vẫn cố len qua. Những tia nắng mặt trời mang theo vô số bụi bẩn đã chiếu sáng ngôi nhà tối tăm ảm đạm. Mùa xuân và mùa hè không phải là thời gian ưa thích của ông. Chúng quá sáng. Quá phù phiếm. Ông thích mùa đông nặng nề và tăm tối. Không tìm được thứ gì để ăn, ông ngồi xuống cạnh bàn, tay chống cằm.
Ông vẫn còn choáng váng vì cơn ác mộng. Sau khi rời viện về nhà lúc khoảng sáu giờ, ông ngồi xuống ghế, ngủ gật và lơ mơ đến tận tám giờ. Ông nghĩ đến trận bão tuyết trong giấc m ơ, về việc chống lại nó và chờ ch ết. Ông thường gặp giấc m ơ này nhưng theo những kiểu khác nhau. Tuy nhiên lúc nào cũng có trận bão tuyết dữ dội và rét buốt đến thấu xương. Ông biết rằng giấc mơ đó sẽ tiếp tục nếu như không có tiếng chuông điện thoại phá vỡ giấc ngủ của mình.
Chuông điện thoại lại vang lên, Erlendur không biết có nên lờ nó đi không. Cuối cùng ông đứng xổ lên, ra phòng khách và nhấc ống nghe.
“Erlendur phải không?”
“Phải,” Erlendur đáp và hắng giọng. Ông nhận ra giọng người gọi ngay lập tức. “Tôi là Jim ở Đại sứ quán Anh đây. Tha lỗi cho tôi vì đã gọi số máy bàn của ông.”
“Lúc ban nãy ông vừa gọi cho tôi phải không?”
“Ban nãy ư? Không, chỉ cuộc gọi này thôi. Tôi đã nói chuyện với Ed và tôi nghĩ tôi cần phải liên lạc với ông.”
“Thế à?Có gì mới không?”
“Ông ấy đang điều tra vụ việc đó cho ông và tôi muốn báo cho ông tin đó. Ông ấy đã gọi sang Mỹ, xem lại cuốn nhật ký của mình và nói chuyện với nhiều người, và ông ấy cho rằng mình đã biết ai tố cáo vụ ăn cắp ở doanh trại.”
“Người đó là ai?”
“Ông ấy không nói. Ed nhờ tôi nói cho ông biết và nói rằng đang chờ điện thoại của ông.”
“Tối nay ư?”
“Phải, à không, buổi sáng ấy. Để sáng mai thì tốt hơn. Ông ấy
ngủ rồi. Ed thường đi ngủ sớm. “
“Đó là một người Iceland à? Ai đã chỉ điểm họ nhỉ?”
“Ông ấy sẽ nói cho ông biết. Chúc ông ngủ ngon, và tôi xin lỗi vì đã làm phiền ông.”
Erlen dur vẫn còn đang đứng bên cạnh điện thoại thì nó lại reo lên. Người gọi là Sk arp hédinn. Ông ta đang ở trên đồi.
“Chúng tôi sẽ đào đến bộ xương vào ngày mai.” Skarphédinn nói mà không úp mở.
“Cũng đã đến lúc rồi,” Erlendur nói. “Lúc nãy ông vừa gọi cho tôi phải không?”
“Không. Ông vừa về đến nhà à?”
“Phải,” Erlendur nói dối. “Ông đã tìm ra điều gì hữu ích trên đó chưa?”
“Chưa, chưa có gì. Tôi chỉ muốn nói với ông là… xin chào, xin chào, ừm, hãy để tôi giúp bà, bà đi nhé … ờ, xin lỗi, chúng ta đang nói đến đâu rồi nhỉ?”
“Ông nói rằng các ông sẽ đào đến ch ỗ bộ xương vào ngày mai.”
“Phải, khoảng chiều tối gì đó, tôi hy vọng vậy. Chúng tôi v ẫn chưa tìm ra một đầu m ối nào để xác m inh cách người ta chôn bộ xương ở đó. Có lẽ chúng tôi sẽ tìm ra điều gì đó bên dưới. “
“Hẹn gặp lại ông ngày mai.”
“Tạm biệt. “
Erlen dur đặt điện thoại xuống, ông vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo. Ông nghĩ đến Eva Lind và thắc mắc không biết có chuyện gì ông nói lọt vào tai con bé không. Ông nghĩ đến Halldóra và sự căm thù mà bà ta vẫn dành ình sau chừng ấy năm đã qua. Rồi ông suy ngẫm cả triệu lần về việc cuộc sống của họ sẽ như thế nào nếu ông không quyết định ra đi. Nhưng chưa bao giờ ông tìm được câu trả lời.
Ông không nhìn đích xác vào vật gì. Một tia nắng hiếm hoi buổi tối lọt qua rèm cửa phòng khách, rạch một vết cắt v ào bóng tối ảm đạm vây quanh ông. Erlendur nhìn vào những tấm rèm cửa. Ch úng được làm bằng vải nhung kẻ dày, rủ thẳng xuống dưới sàn. Những tấm rèm cửa dày, màu xanh lục, để xua đi ánh sáng ban đêm của mùa xuân.
Xin chào.
Xin chào.
Hãy để tôi giúp bà.
Erlendur nhìn ch ăm chú vào màu xanh lục của tấm rèm cửa.
Méo mó.
Màu xanh lục.
“Sk arph édinn đã…?” Erlendur đứng phắt dậy và vồ lấy điện thoại. Không nhớ số di động của Skarphédinn, ông liều mạng gọi cho tổng đài tư vấn. Sau đó ông gọi cho nhà khảo cổ.
“Skarphédinn! Skarphédinn!” Tiếng ông om sòm qua điện thoại.
“Gì thế? Lại là ông à?”
“Ông vừa nói ‘xin chào’ với ai? Ông vừa mới giúp ai cơ?”
“Sao cơ?”
“Lúc vừa rồi ông đang nói chuyện với ai thế?”
“Tại sao ông lại kích động đến vậy?”
“L úc đó ai ởđó cùng ông?”
“Ý ông là tôi đã chào ai ấy à?”
“Đây không Phải là một cuộc điện thoại truy ền hình. Tôi khô ng thể nhìn thấy ông trên đồi được. Tôi nghe ông có nói ‘xin chào’ v ới ai đó. Có ai ởđó v ới ông thế?”
“Không phải với tôi. Bà ta đi đâu đó, chờ một chút, bà ta đang đứng ở ch ỗ bụi cây.”
“Bụi cây ư? Ý ông là mấy bụi cây lý chu a ư? Bà ấy đang đứng chỗ mấy bụi cây lý chua à?”
“Phải.”
“Trông bà ta như thế nào?”
“Bà ta… ông biết bà ta à? Sự hốt hoảng này là gì thế?”
“Trông bà ta như thế nào?” Erlendur nhắc lại, cố g ắng giữ bình tĩnh.
“Bình tĩnh nào.”
“Bà ta bao nhiêu tuổi?”
“Khoảng tầm bảy mươi gì đó. Không, có vẻ như tầm tám mươi thì đúng hơn. Khó nói lắm. “
“Bà ta mặc đồ gì?”
“Bà ta mặc áo khoác dài màu xanh lục, dài chấm gót. Một quý bà cao ngang tôi. Bà ta bị què.”
“Bị què như thế nào cơ?”
“Bà ta đi khập khiễng. Thực ra là hơn thế. Bà ta có vẻ như… tôi không biết nữa…”
“Sao cơ?! Sao! Ông đang định nói gì cơ?”
“Tôi không biết Phải mô tả bà ta thế nào nữa… Tôi… cứ như bà ta bị… hơn cả khập khiễng vậy.”
Erlendur ném điện thoại xuống và lao ra ngoài, quên không nhắc Skarphédinn giữ bà ta lại b ằng mọi giá.
 
Ngày Grímur về nhà, Dave đã khôn g đến nhà họ mấy ng ày liền.
Mùa thu đã đến với một đợt gió phương Bắc lạnh buốt tràn về kéo theo một lớp tuyết mỏng phủ trên m ặt đất. Ngọn đồi cao hơn m ực nước biển kh á nhiều nên mùa đôn g đến đây sớm hơn so với những vùng đất th ấp của Reykjavík. Símon và Tómas bắt xe bus của trường đến Reykjavík vào buổi sáng và trở về v ào buổi tối. Hàng ngày, mẹ chún g đi bộ đến Gufunes, nơi cô ch ăm sóc bò sữa và làm các công việc nông trại thôn g thường khác. Cô đi trước các con nhưng luôn luôn trở về trước chúng. Mikkelína ở nhà cả ngày, hết sức buồn kh ổ vì cô đơn. Mỗi khi mẹ về đến nh à, nó khô ng giấu nổi niềm vui sướng, và sự hân hoan của nó còn tăng lên gấp bội khi Símon và Tómas lao vào nhà và ném cặp sách vào một gó c.
Dave là vị khách th ường xuy ên ghé thăm nhà họ. Mẹ chúng và Dave càng lúc càng hiểu nhau dễ dàng hơn, và họ thường ngồi nói chu yện với nhau rất lâu ở bàn ăn. Họ mu ốn hai thằn g con trai và Mikkelína để họ được ở riêng với nhau. Thỉnh tho ản g, khi họ không muốn bị qu ấy rầy một cách tuyệt đối, họđi vào phòng ngủ và đóng cửa lại.
Có đôi lần Símon thấy Dave vuốt má mẹ nó hoặc vuốt mấy sợi tóc lò a xòa trước m ặt mẹ. Ho ặc anh ta vuốt tay mẹ. Họđi bộ cùng nhau rất lâu quanh hồ Reynisvatn và lên những ngọn đồi xung quanh đó, có một số lần họ còn đến tận Mosfellsdalur và Helgufoss. Họ m ang th eo đồ ăn đi cùng vì một ch uy ến đi chơi như vậy Phải m ất cả ngày trời. Đôi khi họ đưa lũ trẻđi th eo, và Dave cõng Mikkelína trên lưng mà không tốn một chút sức lực nào. Símon và Tómas rất ng ạc nhiên khi thấy Dave gọi ch uy ến đi ch ơi của họ là “picnic”. Chúng bập b ẹ với nhau: pic- nic, pic- nic, pic- nic.
Đôi khi Dave và mẹ chúng ngồi nói chu y ện rất nghiêm túc, trong những chuyến đi picnic của họ hoặc bên bàn ăn, và trong phò ng ngủ trong một lần Símon mở cửa. Họ ngồi trên mép giường, Dave đang cầm tay mẹ, họ nhìn ra cửa và mỉm cười với Símon. Nó không biết họ đang nói về chuy ện gì, nhưng nó biết chuyện đó không dễ chịu gì, bởi vì nó thấy khuôn mặt mẹ khi bà cảm thấy không vui.
Và sau đó, vào một ngày mùa đông lạnh giá, tất cả mọi chuyện chấm dứt.
Grímur quay trở về vào sáng sớm khi mẹ chúng đã đến nô ng trại còn Símon và Tómas đang trên đường đi bắt xe bus. Trên đồi trời lạnh thấu x ương. Hai anh em nó gặp Grímur khi hắn đang đi bộ về nhà. Grímur quấn chặt cái áo khoác rách tả tơi vào người để giữ ấm trong cơn gió lạnh. Hắn lờ chúng đi. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi sớm mùa đông, chúng không nhìn rõ mặt bố, nhưng Símon vẫn hình dung ra khuôn mặt lạnh lùng, khắc ng hiệt của ông ta khi đi về nhà. Hai đứa nhỏ đã chờ ông ta về mấy ngày nay. Mẹ chúng nói rằng Grímur sẽ được ra tù sau thời gian thụ án và ông ta sẽ quay trở về đồi cùng họ. Họ Phải sẵn sàng đón ông ta về bất cứ lúc nào.
Símon và Tómas dõi theo Grímur bước về phía ngôi nhà và nhìn nhau. Cả hai đứa nó đều nghĩ như nhau. Mikkelína đang ở nhà một mình. Chị nó luôn luôn tỉnh giấc mỗi khi mẹ và hai em thức dậy, nhưng sau đó lại ngủ đến hết buổi sáng. Mikkelína sẽ Phải đón Grímur một mình. Símon cố gắng đoán phản ứng của Grímur khi thấy mẹ chúng không ở nhà, cả hai anh em nó cũng thế, chỉ có Mikkelína, người mà ông ta luôn luôn căm ghét.
Xe bus của trường đã đến và bóp còi hai lần. Mặc dù người lái xe nhìn th ấy hai cậu bé trên đồi, nhưng khi khôn g thể chờ ch úng thêm được nữa, ông ta lái đi và chiếc xe lại biến m ất dưới con đường. Chúng đứng bất động, nhìn nhau, không nói một lời nào, sau đó từ từđi về nh à.
Chúng không muốn để M ikk elína ở nhà một mình.
Símon nghĩ đến việc đuổi theo mẹ hoặc bảo Tómas tìm mẹ về, nhưng nó lại tự nhủ rằng không vội gì để cho họ Phải gặp nhau, mẹ chúng có th ể chỉ còn một ngày bình yên này nữa thôi. Hai đứa trẻ nhìn Grímur bước vào nhà và đóng cửa lại, sau đó ch úng chạy hộc tốc về nhà. Chúng không biết ở đó sẽ xảy ra ch uyện gì. Tất cả những gì mà chúng nghĩ là Mikkelína đang ngủ trên chiếc giường đôi – nơi chị nó không được phép bị nhìn thấy trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Cẩn thận mở cửa, chúng rón rén bước vào nhà: Símon đi trước, Tómas theo sát đằng sau, nắm lấy tay anh. Khi bước vào bếp, chúng thấy Grímur đang đứng ở bàn nấu ăn. Hắn quay lưng lại phía hai đứa bé. Hắn khịt mũi và khạc đờm vào bồn rửa. Hắn bật đèn trên bàn khiến hai anh em nó chỉ trông thấy hình dạng hắn trên cái đèn.
“Mẹ chúng mày đâu?” hắn nói, lưng vẫn quay về phía bọn trẻ.
Símon nghĩ rằng hắn đã để ý đến hai anh em nó trên đường lên đồi và nghe thấy tiếng chúng vào nhà.
“Mẹđi làm,” Símon đáp.
“Đi làm á? Làm ở đâu?” Grímur hỏi.
“Ở cơ sở sản xuất sữa Gufunes,” Símon đáp.
“Nó không biết là hôm nay tao về à?” Grímur quay m ặt về phía chúng và bước ra ánh sáng. Hai anh em nó nhìn chằm chằm vào hắn khi hắn hiện ra từ bóng tối. Mắt chúng mở to thô lố khi nhìn thấy khuôn mặt Grímur dưới ánh sáng mờ mờ. Có chuyện gì đó đã xảy ra với hắn. Dọc một bên má của hắn có một vết bỏng kéo dài đến mắt. Cái mắt đó khép lại một nửa vì mí mắt đã dính liền vào da.
Grímur cười.
“Trông Bố không đẹp trai à?”
Hai anh em nó nhìn ch ằm ch ằm vào khuôn mặt biến d ạng của hắn. “Đầu tiên chúng pha cà phê ày, rồi sau đó ch úng h ất cà phê vào m ặt mày.”
Hắn tiến g ần h ơn đến hai đứa bé.
“Không phải bởi vì chúng mu ốn mày thú tội. Ch úng đã biết cả rồi, bởi vì có ai đ ó đã nói cho chúng biết. Đó khôn g phải là lý do chúng hất cà phê vào m ặt m ày. Đó khô ng Phải là lý do ch úng phá hủy cái b ản m ặt của mày.”
Hai thằng bé không hiểu chuyện gì đang x ảy ra.
“Đi tìm mẹ chúng mày ngay,” Grímur quát lên. Hắn nhìn Tómas lúc này đang đứng rúm ró sau lưng anh. “Đi đến cửa hàng bán sữa chó chết đó và mang con bò ngu ngốc về đây cho tao.”
Nhìn qua khóEmắt, Símon thấy có một sự chuyển động trong phòng ngủ, nhưng cả đời nó cũng không dám nhìn vào bên trong. M ikk elín a rời khỏi giường. Con bé đã có thể đứng bằng một chân và có thể tự mình đi lại, nhưng nó không dám đi vào bếp.
“Cút!” Grímur quát. “Ngay lập tức!”
Tómas nhảy dựng lên. Símon không biết em nó có tìm được đường không. Tóm as đã đến nông trại đó một hai lần cùng với mẹ vào mùa hè, nhưng lúc này ngoài trời tối và rét hơn, còn Tómas thì vẫn là một đứa trẻ.
“Con sẽ đi,” Símon nói.
“Mày không được phép đi nửa bước,” Grímur g ầm gừ.
“Cút nhanh!” hắn quát Tómas. Thằng bé mở cửa bước ra ngoài trời lạnh lẽo và cẩn thận đóng cửa lại.
“Nào, Símon, con trai bố, lại đây ngồi xuống với bố nào, ” Grímur nói. Cơn giận dữ của hắn dường như đột ngột tan biến.
Símon dò dẫm bước vào bếp và ngồi lên gh ế. Nó lại nhìn thấy sự chuy ển động trong phòng ngủ. Nó hy vọng Mikkelína sẽ không bước ra ngoài. Có một cái chạn thức ăn ở hành lang, nó nghĩ chị nó có thể trốn vào trong đó mà không bị Grímur để ý.
“Con không nhớ người bố già cả của con à?” Grímur nói trong lúc ngồi xu ống đối diện với nó. Símon không thể rời mắt ra khỏi vết bỏng trên mặt hắn. Nó gật đầu.
“Cả mùa hè vừa rồi mọi người đã làm những việc gì?” Grímur hỏi, và Símon nhìn chằm ch ằm vào hắn mà không nói một lời nào. Nó không biết phải bắt đầu nói dối như thế nào. Nó không thể nói với ông ta về Dave, về những cuộc viếng thăm của anh ta và những cuộc gặp gỡ bí mật với mẹ, những chuyến đi chơi, những cuộc picnic. Nó không thể nói rằng mấy mẹ con nó đều ngủ trên chiếc giường lớn cùng nhau, lúc nào cũng thế. Nó không thể nói về việc mẹ nó đã trở thành một người hoàn toàn khác đến thế nào kể từ khi Grímur đi, tất cả là nhờ Dave. Dave đã mang lại ẹ niềm vui sống. Nó không thể nói cho hắn biết việc mẹ nó trang điểm vào buổi sáng. về vẻ bề ngoài đã thay đổi của bà. về chuyện bà đã trở nên xinh đẹp hơn sau mỗi ngày ở cùng Dave.
“Sao, không có gì à?” Grímur nói. “Cả mùa hè mà không có ch uy ện gì x ảy ra à?”
“Thời… … thời tiết rất đẹp,” Símon lắp bắp, mắt nó vẫn dán chặt vào vết bỏng.
“Thời tiết đẹp. Thời tiết rất đẹp,” Grímur g ật gù. “Và con đã ch ơi ở gần khu doanh trại. Con có biết ai ở đó không?”
“Không,” Símon buột ra. “Không có ai cả.”
Grímur mỉm cười.
“Mùa hè vừa rồi con đã học được cách nói dối rồi đấy. Thử tưởng tượng xem người ta có thể học cách nói dối nhanh đến thế nào. Símon, mùa hè vừa rồi con có học cách nói dối không?”
Môi dưới của Símon đã bắt đầu run lên. Nó không thể nào kiểm soát được.
“Chỉ có một người thôi,” nó đáp. “Nhưng con không biết chú ấy rõ lắm. “
“Con biết một người. Tốt, tốt. Con không bao giờ được nói dối, Símon ạ. Những người như con mà nói dối thì chỉ chuốc lấy rắc rối mà thôi, và còn gây cả rắc rối cho người khác n ữa đấy. “
“Vâng ạ,” Símon nói, hy vọng chuyện này sẽ sớm kết thúc. Nó hy vọng Mikkelína sẽ đi ra và quấy rầy họ. Nó băn khoăn không biết có nên nói cho Grímur biết rằng Mikkelína đan g ở hành lang và đã ngủ trên giường của ông ta không.
“Con biết ai ở doanh trại không??” Grímur nói, và Símon có thể cảm thấy mình đang dần dần chìm sâu hơn vào vũng lầy.
“Chỉ có một người thôi, ” nó đáp.
“Chỉ có một người thôi,” Grímur nhắc lại, vuốt má và lấy ngón tay trỏ cào nhẹ vào vết bỏng. “Người này là ai? Bố rất mừng vì chỉ có một người này thôi.”
“Con không biết. Thỉnh thoảng chú ấy đi câu cá ở hồ. Thỉnh thoảng chú ấy cho nhà mình những con cá hồi mà chú ấy câu được.”
“Và chú ấy còn tốt với các con nữa chứ?”
“Con không biết,” Símon nói, nó biết rõ rằng Dave là người đàn ông tốt nh ất mà nó từng gặp. So với Grímur, Dave là một thiên thần từ trên trời xuống để cứu mẹ chúng.
Dave đâu nhỉ? Símon nghĩ. Giá mà Dave ởđây. Nó nghĩ về Tómas trong tiết trời lạnh giá đến Gu funes, nghĩ về mẹ – người thậm chí còn ch ưa biết rằng Grímur đã quay trở v ề. Và nó nghĩ đến Mikkelína ở hành lang.
“Chú ấy có thường đến đây không?”
“Không, chỉ thỉnh thoảng thôi.”
“Chú ấy có đến đây trước khi bố bị đưa vào nhà đá không? Khi con bị đưa vào nhà đá, Símon ạ, thì không có nghĩa là con có tội và con phải đi tù, chỉ đơn giản là có một ai đó đưa con vào tù. Và không m ất thời gian lắm đâu, họ sẽ nói cho con biết về một luật lệ. Người Iceland không được ăn cắp đồ của qu ân đội. Đó là một việc làm ghê tởm. Nên họ phải bỏ tù bố. Con có hiểu không? M ọi người phải học được điều gì đó từ lỗi lầm của bố. Nhưng tất cả bọn chúng đều ăn cắp. Tất cả bọn ch úng đều làm điều đó, và chú ng kiếm tiền. Chú ấy có đến đây trước khi bố bị đưa vào tù không?”
“Ai cơ?”
“Người lính ấy. Chú ấy có đến đây trước khi bố vào tù không?”
“Thỉnh thoảng chú ấy có đi câu ở hồ trước khi bố đi.”
“Và chú ấy đưa những con cá hồi mà chú ấy câu được ẹ con ư?”
“Phải.”
“Ch ú ấy có bắt được nhiều cá không?”
“T hỉnh tho ảng. Nhưng chú ấy khô ng Phải là một người câu cá giỏi. Chú ấy chỉ ngồi bên hồ và hút thu ốc. Bố bắt được nhiều cá hơn chú ấy nhiều. Bố còn có cả lưới nữa. Với cái lưới đó bố luôn bắt được nhiều cá hơn. Bố…”
“Và khi chú ấy đưa cá ẹ con, ch ú ấy có ghé vào nhà không? Chú ấy có vào uống cà phê không? Chú ấy có ngồi xuống bàn này không?”
“Không,” Símon nói, không biết lời nói d ối của nó có lộ liễu quá không. Th ằng bé sợ hãi và bối rối đến nỗi Phải đưa tay lên mô i để giữ cho nó kh ỏi run lên và cố g ắng trả lời th eo cách mà nó nghĩ rằng Grímur mu ốn. Nhưng th ằng bé không đổ tội ẹ nó n ếu nó nói điều gì đó mà nó nghĩ rằng Grímur không biết. Bố nó ch ưa bao giờ nói chuy ện với nó nhiều đến thế trước đây khiến th ằng bé m ất cảnh giác. Símon lúng túng. Nó không biết Grímur đã biết được bao nhiêu ph ần rồi, nhưng nó cố g ắng h ết s ức mình để b ảo v ệ mẹ.
“Chú ấy ch ưa từng vào đây à?” Grímur nói, giọng h ắn chu y ển từ nh ẹ nhàng và khéo léo sang nghiêm nghị và cứng rắn.
“Chỉ có hai lần thôi, hình như thế.”
“Và chú ấy làm gì?”
“Chỉđi vào thôi.”
“Ồ, hóa ra là v ậy. Con lại bắt đầu nói dối đấy phải kh ông? Con lại nói dối bố đấy Phải khôn g? Bố về đây sau bao nhiêu tháng ngày bị đối xử như cứt chỉ để nghe toàn những lời nói dối. Con lại đang nói dối bố Phải không?”
Những câu hỏi của hắn quất vào mặt Símon không khác nào một cái roi da.
“Vậy trong tù bố đã làm gì?” Símon lưỡng lự hỏi với hy vọng mong manh là có thể nói về chuy ện gì đó khác Dave và mẹ nó. Sao Dave không đến nhỉ? Họ không biết là Grímur đã ra tù rồi ư? Họ chưa thảo luận về chuy ện này trong những cuộc nói chuy ện bí m ật của mình khi Dave vuốt má và vén tóc mẹ nó sao?”
“Trong tù á?” Grímur nói, giọng lại đổi sang ngọt ngào, nhẹ nhàng. “Bố nghe người ta k ể chuy ện trong tù. Tất cả các loại chuyện. Ở đó, con sẽ nghe thấy rất nhiều và muốn nghe rất nhiều vì không ai đến thăm con và tin tức duy nhất mà con biết về nhà mình là những điều con nghe thấy ở đó, bởi vì họ luôn luôn tống người khác vào tù và con phải biết những người quản tù, họ sẽ nói cho con biết một vài điều gì đó. Và con có hàng tá thời gian để nghĩ về những câu chuyện đó.”
Một tấm ván sàn kêu cọt kẹt ở hành lang, Grímur dừng lại, sau đó lại tiếp tục như th ể chẳng có chuy ện gì x ảy ra cả.
“T ất nhiên là, con còn quá nhỏ… à, con bao nhiêu tuổi rồi, Símon nhỉ?”
“Con mười bốn, sắp sang mười lăm rồi. “
“Con sắp thà h người lớn rồi, nên có thể con hiểu những gì bố đang nói. Mọi người đều nghe chuyện về những cô gái Iceland bám lấy lính. Kiểu như họ khôn g th ể kiểm soát nổi bản thân mình khi nhìn thấy một thằng đàn ông mặc quân phục vậy. Con còn nghe chuyện kể về một người lính lịch sự đến thế nào, cởi m ở ra sao, họ lịch s ự và muốn được nh ảy như thế nào, họ không bao giờ say xỉn, họ còn có những điếu thuốc lá, cà phê và cả tá thứ đại loại như vậy mà cô gái nào cũng mu ốn. Còn chúng ta, Símon ạ, chúng ta là một lũ nhếch nhác. Chỉ là những kẻ quê mùa, Símon ạ, đến nỗi chẳng cô gái nào thèm ngó ngàng cả. Đó là lý do tại sao bố mu ốn biết thêm về người lính thường đi câu ở hồ, Símon ạ, và con đã làm bố thất vọng.”
Símon nhìn Grímur và cơ hồ như toàn bộ sức lực trong người nó đã bị rút cạn.
“Bố đã nghe rất nhiều về người lính đó trên đồi này, còn con thì chưa bao giờ nghe chuy ện về chú ấy cả. T ất nhiên là trừ khi con nói dối bố, và bố không nghĩ là chuyện này hay ho cho lắm – nói dối bố khi một người lính đến đây mỗi ngày và đi dạo với vợ của bố suốt cả mùa hè. Con không biết gì về chuyện đó ư?”
Símon không nói gì.
“Con không biết gì về chuyện đó ư?” Grímur nhắc lại.
“Đôi khi họ đi dạo với nhau,” Símon nói, mắt ngân ngấn nước.
“Rõ rồi,” Grímur nói. “Bố biết chúng ta vẫn là bạn bè. Có thể con cũng đi cùng họ nữa chứ?”
Dường như chu ện này không bao giờ kết thúc vậy. Grímur nhìn thằng bé với khuôn mặt bỏng và một mắt đã gần như khép lại. Símon cảm thấy nó không thể giấu giếm mãi được nữa.
“T hỉnh thoảng m ọi người đi ra hồ và chú ấy đưa mấy mẹ con con đi chơi. Cũng giống như lúc bố mang về những cái hộp mà bố lấy một cái chìa khóa để mở ấy.”
“Và chú ấy có hôn mẹ con không? Ở dưới hồấy?”
“Không,” Símon nói, thanh thản vì khô ng Phải nói dối. Nó ch ưa bao giờ thấy Dave và mẹ nó hôn nhau.
“Vậy họ làm những chuyện gì? Nắm tay nhau Phải không? Còn con lúc ấy làm gì? Tại sao con lại để người đàn ông đó đưa mẹ con đi dạo xuống hồ? Con không bao giờ nghĩ rằng bố sẽ phản đối à? Con không bao giờ nghĩ thế sao?”
“Vâng,” Símon đáp.
“Không ai nghĩ đến bố trong lúc đi chơi như thế. Phải vậy không?”
“Phải,” Símon đáp.
Grímur nghiêng mình dưới ánh đèn khiến vết sẹo bỏng màu đỏ càng lộ ra rõ hơn.
“Vậy tên của người đàn ông đã ăn cắp gia đình của người khác và nghĩ rằng sẽ không ai phản ứng gì về chuyện đó là gì?”
Símon không trả lời.
“Cái gã đã hất cà phê vào m ặt bố, Símon ạ, cái gã đã hất cà phê vào mặt bố như thế này này, con có biết tên hắn ta không?”
“Không,” giọng Símon nhỏ đến m ức khó nghe.
“Hắn đánh bố và làm bố bị bỏng, nhưng người ta chẳng bao giờ tống hắn vào tù vì chuyện đó hết. Con nghĩ về chuyện đó như thế nào? Cứ như chúng là thần thánh vậy, cái lũ lính ấy. Con có nghĩ chúng là thần thánh không?”
“Không,” Símon đáp.
“Mùa hè vừa rồi mẹ con có béo ra không?” Grímur hỏi như thể là bất thình lình một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu óc hắn. “Không Phải là vì mẹ con làm việc ở trang trại sữa, Símon ạ. Mà vì cô ta đã đi dạo cùng với một người lính ở doanh trại. Con có nghĩ là cô ta béo lên không?”
“Không,” Símon đáp.
“Bố lại nghĩ là có thể lắm. Chúng ta sẽ xem sau. Người đàn ông đã hất cà phê vào mặt bố ấy. Con có biết tên hắn ta không?”
“Không,” Símon đáp.
“Hắn có những ý nghĩ rất lạ, bố không hiểu hắn lấy chúng từ đâu ra, rằng bố không đối xử tử tế với mẹ con. Rằng bố đã làm những chuyện bẩn thỉu với cô ta. Con biết rằng đôi lúc bố Phải dạy mẹ con. Hắn ta biết điều đó, nhưng hắn không hiểu tại sao. Hắn không thể hiểu được rằng những con điếm như mẹ con cần Phải biết ai là người có quyền, ai là chồng mình và mình Phải cư xử như thế nào cho Phải. Hắn không hiểu được rằng đôi lúc con cần Phải dạy dỗ những con đàn bà đó. Khi nói chuyện với bố, hắn rất tức giận. Bố biết một chút tiếng Anh vì bố có một số người bạn tốt ở doanh trại và bố hiểu gần h ết những điều hắn nói. Và hắn điên tiết với bố về chuyện của mẹ con.”
Hai mắt Símon vẫn dán chặt vào vết bỏng.
“Người đàn ông này, Símon ạ, tên là Dave. Bố không muốn con nói dối bố: người lính đã cư xử rất tốt với mẹ con, đã ở đây từ mùa xuân đến mùa hè và đến tận mùa thu. Có thể nào tên hắn là Dave không?”
Símon vắt óc suy nghĩ, mắt vẫn nhìn chằm chằm vào vết sẹo.
“Người ta sẽ giải quyết hắn,” Grímur nói.
“Giải quy ết ư?” Símon không hiểu ý Grímur là gì, nhưng chắc chắc đó không Phải là chuyện tốt.
“Con chuột cống đang ở hành lang à?” Grímur nói và hất đầu về phía cánh cửa.
“Sao cơ ạ?” Símon không hiểu Grímur đang nói gì.
“Con què ấy? Con có nghĩ là nó đang nghe chúng ta nói không?”
“Con không biết nữa,” Símon nói. Đó là sự thật.
“Có Phải tên hắn là Dave không, Símon?”
“Có lẽ vậy,” Símon nói không dứt khoát.
“Có thể ư? Con không chắc à? Hắn gọi con là gì, Símon? Khi hắn nói chuyện với con, hoặc có thể là hắn ôm hoặc xoa đầu con, những lúc ấy hắn gọi con là gì?”
“Chú ấy chưa bao giờ xoa…”
“Tên hắn là gì?”
“Dave!” Símon đáp.
“Dave! Cảm ơn con, Símon.”
Grímur dựa lưng ra sau, chìm vào bóng tối. Hắn nói nhỏ.
“Con biết không, bố nghe được rằng hắn đã ngủ với mẹ con.”
Đúng lúc đó cửa mở ra, người mẹ bước vào, và đến Tómas, luồng gió lạnh giá theo sau họ khiến Símon cảm thấy lạnh toát sống lưng đang đầm đìa mồ hôi của nó…

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.