Ôm mớ quần áo, ga trải giường và khăn tắm, Nancy cố giữ thăng bằng khi bước xuống cái cầu thang thẳng đứng. Nàng đã bất thần quyết định giặt rũ để có thể phơi đồ trước khi thời tiết trở nên tồi tệ. Mùa đông đã đến. Nó đang ở đó, phía sau nhà, bứt đi những chiếc lá cuối cùng trên hàng cây. Mùa đông trải dài trên con đường đất nện, giờ đã khô cứng như xi-măng. Mùa đông đã thay đổi màu sắc của vịnh để chỉ còn là màu xanh xám của khói.
Ở ngoài kia, cơn bão đang hình thành, nhưng Nancy vẫn muốn lợi dụng những tia nắng yếu ót sau cùng. Nàng yêu thích cái mùi tươi mát của những tấm drap được phơi ngoài trời. Nàng thích áp má vào những tấm drap đó, chìm dần vào giấc ngủ trong cái hương thơm của cây, của lá tùng trộn lẫn với mùi biển mặn – khác hẳn với cái mùi hăng hắc và ẩm của những tấm drap phơi trong nhà. Nàng cố xua đi kỷ niệm.
Xuống hết cầu thang, Nancy định đi về phía cửa sau, nhưng rồi dừng lại. Nàng nhủ thầm, mình quả thật ngốc nghếch. Hai đứa bé hẳn đang chơi ngoài vườn và bình an vô sự. Chúng vừa ra khỏi nhà được khoảng mười lăm phút và nàng phải đè nén nỗi lo sợ không kiềm chế nổi đang liên tục ám ảnh nàng. Đến bây giờ, nàng nhận thấy là là Missy đã biết điều đó và bắt đầu phản ứng trước sự lo lắng và che chở thái quá của nàng. Nàng quyết định sẽ đưa hai con vào sau khi đã bỏ đồ vào máy giặt và cho máy chạy. Rồi vào mười giờ rưỡi, khi chúng xem truyền hình, nàng sẽ uống một ly cà phê và đọc tờ Cape Cod Communtity News.
Nàng bỏ mớ khăn tắm và drap trải giường vào máy giặt, đổ bột giặt và nước javel vào và cho máy chạy.
Bây giờ, đã đến lúc đưa hai con vào nhà. Nhưng rồi, khi mở cửa và chực bước ra khỏi nhà, Nancy dừng lại. Báo vừa mới được phát. Người giao báo đang khuất bóng ở cuối con đường. Nancy nhặt tờ báo, run rẩy trong cơn gió lạnh và vội vã đi vào bếp. Nàng bấm nút điện ấm nấu cà phê rồi liếc nhanh qua các trang báo.
Nàng nhìn chăm chăm vào hàng tít khá hấp dẫn và những hình ảnh của bài báo; hình nàng chụp chung với Carl và Rob Legler, nàng với Peter và Lisa, kề bên nhau… vững tin. Nancy sững sờ; nàng nhớ rõ cái ngày mà họ chụp bức ảnh đó. Chính Carl là người đã bấm máy.
“Nào, hãy tự nhiên nào!” Carl đã nói thế trong khi nàng đưa tay xoa đầu hai đứa trẻ.
“Không… không… không… không!” Nàng chết điếng vì đau đớn. Nàng lảo đảo nghiêng người về phía trước, chạm phải ấm cà phê, làm đổ tung tóe. Nàng rút tay lại; những giọt cà phê nóng bỏng lăn dài trên tay nàng.
Trong đầu nàng lóe lên một ý nghĩ, cần phải đốt ngay tờ báo. Đốt ngay kẻo Michael và Missy trông thấy. Nàng phải đốt để không ai còn có thể đọc. Nàng chạy vào phòng ăn, đến bên lò sưởi.
Lò sưởi… bây giờ không còn là nơi vui tươi, đầm ấm, nơi người ta cảm thấy yên ổn. Và chẳng còn đâu là nơi trú ẩn… sẽ chẳng còn nơi nào cho Nancy ẩn náu… Nàng vò nát những trang báo, run rẩy cầm lấy cái hộp quẹt trên lò sưởi. Một làn khói, ngọn lửa và các trang báo chất dần giữa những khúc củi.
Cư dân ở Cape hẳn đang đọc tờ báo này. Và họ sẽ biết… mọi người rồi sẽ biết. Có một bức ảnh mà họ sẽ nhận ra… Nancy nhìn trang báo đang cháy, hình Peter và Lisa đang bị lửa nuốt dần, có thể cuốn lại, cháy đen. Đã chết rồi, cả hai. Sao nàng vẫn còn sống đây? Sao nàng không khuất bóng như chúng? Chẳng còn nơi nào để trú ẩn… quên lãng. Rồi Ray sẽ chăm sóc cho Michael và Missy. Ngày mai, đến trường, bọn trẻ sẽ nhìn Michael và chỉ chỏ, to nhỏ với nhau.
Nàng sực nhớ đến hai đứa con. Phải lo cho chúng. Đưa chúng vào nhà ngay, đó là điều, quan trọng nhất, nếu không chúng sẽ cảm lạnh.
Nàng lảo đảo đi về phía cửa sau, mở cửa và gọi, “Peter… Lisa”. Ồ, không, nàng đã lầm. Michael và Missy! Chúng mới là con của nàng.
Nàng cất tiếng gọi, buồn bã, thảng thốt:
“Michael, Missy. Vào nhà ngay nào!”
Chúng đâu rồi? Nàng chạy ào ra, mặc cho cái rét đang len nhanh qua chiếc áo săng-đay mỏng.
Nàng chạy về phía cái đu trống trơn và thầm nghĩ hẳn hai đứa bé đã vào rừng. Nàng gọi, “Michael, Missy! Michael, Missy! Chớ có trốn mẹ! Về ngay đi các con!”
Cái đu vẫn còn đong đưa và gió làm nó lắc lư đôi chút. Nancy trông thấy cái bao tay nhỏ nhắn của Missy, bị giữ lại bởi cái khoen kim loại nơi thanh gỗ.
Nàng nghe có tiếng động ở phía xa và thầm nghĩ, hẳn hai con đang ở phía đó. Hay là chúng đã ra hồ! Có thể lắm, nhưng nàng đã cấm chúng ra đó rồi mà. Nàng đã cấm chúng không được bén mảng đến đó. Biết đâu chúng chẳng nghe lời nàng và người ta sẽ vớt xác chúng, như những đứa trẻ khác, trương phình, ướt sũng và vô hồn.
Vớ lấy cái bao tay màu đỏ có thêu cái mặt mèo tươi cười, nàng lảo đảo đi về phía hồ. Nàng gọi lớn tên hai con, gọi mãi. Nàng len qua hàng cây và ra đến bờ hồ.
Không xa bờ, có một cái gì đó lấp lánh dưới nước. Một vật màu đỏ… cái bao tay… hay bàn tay của Missy? Nancy lao người xuống nước, ngập đến vai, và cúi nhìn. Nhưng chẳng thấy gì. Nàng cuống cuồng dùng hai tay vớt lên, nhưng chẳng có gì ngoài những dòng nước đang chảy xuống từ các kẽ tay nàng. Chẳng có gì ngoài cái rét căm căm của nước. Nàng chăm chú vào mặt hồ, cố nhìn thấy đáy. Rồi nàng cúi sát hơn và ngã nhào. Nước dâng vào mũi, vào miệng nàng, và cái giá buốt của nước như những ngọn lửa đốt cháy khuôn mặt và cổ nàng.
Nancy cố gượng dậy và men vào bờ trước khi quần áo ướt sũng làm nàng vấp ngã. Nàng té nhào trên lớp cát chai cứng vì giá rét. Tai lùng bùng, mắt bị che phủ bởi lớp sương mù, nàng cố nhìn về phía cánh rừng và trông thấy… khuôn mặt đó… khuôn mặt của ai nhỉ?
Sương mù phủ kín lấy nàng. Ở xa xa, có những âm thanh đang lịm dần: tiếng kêu thảm thiết của một chú hải âu… tiếng bì bõm của nước… thanh vắng.
Khi Ray và Dorothy tìm thấy Nancy thì nàng đang nằm dài trên cát, toàn thân run rẩy, co giật từng cơn trong bộ đồ ướt sũng. Nàng nằm đó, đôi mắt đã lạc thần, nắm trong bàn tay có những đốm rộp, cái bao tay nhỏ màu đỏ.