Đến sáng hôm sau, Jack Scare vẫn trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê rét run cầm cập, nói lảm nhảm thỉnh thoảng nhắc đến tên Zoltan và bảy cây thánh giá bằng chì. Đến gần trưa cơn sốt mới dịu dần do uống mấy thứ thuốc Bob tìm thấy trong túi thuốc cấp cứu ở ca nô đưa cho anh. Scare đã ăn được một ít nên đỡ mê sảng hơn. Trong trường hợp như thế Bill phải làm nhiệm vụ y tá, băng bó vết thương cho Scare, dấu vết của những vết roi quất vào hằn trên lưng rướm máu. Tuy chưa bình phục nhưng Scare thấy sức khoẻ ngày một khá hơn. Để lánh xa tàu Đài Bắc. Bob và Bill – hai người đã chèo ca nô bằng mái chèo thay động cơ. Cũng để tiết kiệm nhiên liệu, hai người giương buồm cho ca nô chạy nhờ sức gió thổi mạnh.
Scare lúc này cũng quấn chiếc chăn, đứng ngay người dựa lưng vào thành ca nô, hết nhìn Bob Morane rồi đến Bill Ballantine vói vẻ tò mò.
Bob hỏi Scare:
– Anh thấy có khỏe hơn không?
Scare lắc đầu có vẻ còn mệt nhọc trả lời:
– Tôi còn yếu, nhưng dần dần sẽ khoẻ và cũng nhờ hai anh tôi mới được thế này. Nhưng tôi không biết tại sao hai anh lại hành động như vậy. Hai anh là đồng đảng của tên cướp Zoltan mà!
Bill đang cầm tay lái nói:
– Đồng đảng? Anh đừng lầm.
– Tuy nhiên, tôi thấy hai anh ở trong bọn thủy thủ của tàu Đài Bắc mà.
– Đúng thế. Morane nói – Nhưng chúng tôi ở đó hoàn toàn trái với ý định của chúng tôi.
Rồi Morane nói hết cho Scare nghe cảnh ngộ mà anh và bạn anh bị bắt buộc phải đi theo Zoltan.
Khi Bob nói xong, Scare lắc đầu từ từ tỏ vẻ còn yếu mệt nói:
– Đấy là tất cả thủ đoạn của tên hải tặc Leonid Zoltan. Nó đã cưỡng bức mang các anh xuống tàu. Nó cũng đã cưỡng bức tôi nói chỗ cất giấu bảy cây thánh giá bằng chì, nhưng thà tôi chết ngay tại chỗ còn hơn là tôi nói.
Morane hỏi Scare:
– Tại sao lại bướng bỉnh, khó bảo như vậy? Thà chết, nhưng sau khi tìm thấy kho vàng anh được chia với Zoltan kia mà.
Scare cười ngất với nét mặt gầy còm, đau khổ bởi bao nhiêu ngày tháng bị giam cầm ở nhà tù Yeluk-Yeluk và trận đòn tra tấn mới đây.
– Được chia với Zoltan? Các anh không biết bản chất nó hay sao. Khi tìm được kho vàng nó sẽ giết hết không còn sót một người nào.
Bob Morane và Bill Ballantine không ngạc nhiên về những lời nhận xét ấy.
Bill nói:
Chúng ta gặp may được thoát khỏi tên Zoltan.
Bob trả lời:
– Chưa thoát được. Có thể bây giờ nó đang đuổi theo ta. Bill cười vang, rồi thò tay vào túi lôi ra vài bộ phận máy để vào lòng bàn tay nói: “Bây giờ nó còn dò tìm chỗ hỏng”.
Bob nói: “Không nên coi thường, nếu Zoltan đuổi theo chúng ta”, rồi chỉ tay về hướng Tây Bắc nói:
– Hải đảo Nouvelle Guinée chắc ở chỗ kia. Chúng ta cần đến ngay nơi đó. Cho ca nô chạy nhanh theo chiều gió!
Trong lúc Morane bận vận chuyển chiếc buồm và Bill cầm bánh lái thì Jack Scare chăm chú nhìn hai anh rồi nói:
– Tôi lấy làm lạ là hai anh không hỏi cho biết đích xác thân thế của tôi và câu chuyện về bảy cây thánh giá bằng chì.
Bob Morane đang buộc dây vào cột buồm, thấy thế nhún vai nói:
– Biết hay không biết thân thế anh chúng tôi cũng không thể làm khác được.
Còn Bill thi muốn nghe chuyện ngay nên nói với Scare:
– Nếu anh không còn e ngại điều gì, xin anh cứ nói đi.
Scare nói:
– Đúng thế! Đúng thế! Tôi muốn thanh minh với hai anh tôi không phạm trọng tội gì mà phải đày ở trại giam Yeluk-Yeluk. Rồi anh đứng ngay ngắn người, dựa lưng vào thành ca nô, uống một ngụm nước tiếp tục nói:
– Cách vài năm nay tôi là công chức trong chính quyền ở Luân Đôn, đồng lương rất thấp không đủ nuôi thân cùng vợ và đứa con gái còn nhỏ. Tôi cứ tưởng như thế kéo dài cho đến khi đủ tuổi về hưu. Một hôm, tôi gặp một ông già ốm yếu gần chết, tôi cố hết sức cứu giúp ông ta. Ngày xưa, ông ta là lính trong đội quân đi đàn áp “Nghĩa hoà đoàn”, được dịp vào cướp phá hoàng thành Bắc Kinh. Lúc bấy giờ ông Maloney, là tên ông ta, cùng nhiều tên lính khác đã cướp được nhiều châu ngọc quý. Làm cách nào mang ra khỏi Trung Quốc được? Sau những vụ lộn xộn về chiến tranh, chính quyền lúc đó ra những điều luật kiểm tra nghiêm mật nên ông và đồng bọn suy tính tìm mưu kế để đem những viên ngọc quý ra khỏi nước. Lúc bấy giờ có bảy giáo sĩ đến Bắc Kinh rồi đi đến Nouvelle-Guinée để truyền đạo cho thổ dân Papous, Maloriey và đồng bọn thừa dịp đó cố ý lợi dụng các giáo sĩ. Chúng liên lạc với các giáo sĩ ở Bắc Kinh và trước khi họ đi Nouvelle Guinée, chúng biếu các giáo sĩ bảy cây thánh giá bên trong giấu những châu ngọc quý, được bọc cẩn thận bên ngoài bằng sáp và gắn xi. Sau khi hàn lại nhìn bên ngoài không ai có thể biết được.
Kế hoạch của chúng thật đơn giản: Nếu điều kiện thuận lợi, chúng sẽ đến Nouvelle Guinée lấy lại những cây thánh giá cũ và đổi bằng những cây thánh giá khác giống hệt những cây cũ nhưng trong ruột rỗng không có gì cả.
Phần đầu của kế hoạch được thực hiện tốt không gặp sự trở ngại gì. Các giáo sĩ từ giã Bắc Kinh đem theo những cây thánh giá đến Nouvelle Guinée. Nhưng sau đấy mọi việc gặp nhiều trắc trở. Maloney và đồng bọn nhận được lệnh giải ngũ quá muộn. Khi Maloney đến Nouvelle Guinée tìm các giáo sĩ thì các vị này không ở đấy nữa mà đã rời sang quần đảo Afu. Vì các giáo sĩ mang bảy cây thánh giá đi theo nên bọn Maloney cũng phái lặn lội theo đến quần đảo Afu. Nhưng vừa bước chân lên thì được tin các giáo sĩ bị thổ dân ở đó giết chết ăn thịt. Sô phận bảy cây thánh giá ra sao? Kho tàng chứa đựng bên trong rất to lớn chúng không thể bỏ được. Chúng đi sâu vào trong đảo để tìm dấu vết bảy cây thánh giá nhưng chúng bị thổ dân Papous bắt cầm tù rồi bị hy sinh làm vật tế thần. Duy nhất chỉ còn Maloney thoát được, nhảy lên một chiếc thuyền độc mộc chạy trốn.
Ít lâu sau, Maloney cũng tìm mọi cách và mất công dò tin tức bảy cây thánh giá nhưng vô hiệu. Có thể sau khi các giáo sĩ chết, thổ dân Papous đã phá hủy hoặc vứt xuống biển. Không thể quay lại đảo Atu, Maloney không tìm được câu trả lời chính xác về những cây thánh giá đó. Ít lâu sau, chán nản và thất vọng anh quay về nước Anh sống trong cảnh nghèo nàn nhưng lúc nào cũng mơ tưởng quay lại đảo Afu để tìm những cây thánh giá và kho vàng. Anh kể chuyện cho nhiều người biết kế hoạch của mình nhưng anh ta chỉ thấy họ cười mũi.
Lúc tôi gặp Maloney. anh ta sắp lìa đời trong cảnh lầm than và thất vọng. Anh ta chỉ kể cho tôi nghe câu chuyện này vì không muốn mang điều bí mật xuống nấm mồ với anh. Bí mật đã choán phần lớn cuộc đời của anh.
Maloney chết, tôi cũng quên câu chuyện về bảy cây thánh giá, nhưng vài tháng sau tôi bị bệnh suy yếu. Trong thời gian dưỡng sức tôi kiểm tra câu chuyện của người quá cố. Mới đầu tôi cũng cho câu chuyện đó chỉ để tiêu khiển, nhưng về sau tôi thấy những sự kiện đều khớp với câu chuyện của Maloney. Anh này cố thực ở Bắc Kinh năm 1900 với đoàn quân viễn chinh Anh quốc, với đồng bọn mà anh đã cho tôi biết tên từng người. Ngoài ra, thời kỳ này đúng là có bảy giáo sĩ đến Nouvelle Guinée đã được Bắc Kinh cho phép rồi bị mất tích sau cuộc toan tính truyền đạo cho thổ dân ở quần đảo Afu. Bấy giờ tôi không nghi ngờ gì về sự thật của bảy cây thánh giá bằng chì và kho của cải được cất giấu trong đó. Tôi chỉ có một ý định là đi tìm bảy cây thánh giá.
Để thực hiện ý định ấy, tôi gom góp tất cả cái gì tôi có để từng đồng cho vợ và con gái nhỏ của tôi đủ sống trong lúc tôi vắng nhà. Tôi đến Trung Quốc điều tra ở đó cho biết đích xác sự thật. Sau tôi lại đến Nouvelle Guinée. Ở đó ít lâu, làm đủ mọi nghề để gửi tiền tiết kiệm được cho vợ và con tôi ở Anh quốc.
Sau cùng, vận may đã đến với tôi. Ở Port Moresby, tôi gặp một chú lai làm cùng một xưỏng mộc vói tôi đã bị thổ dân Papous ở đảo Afu cầm tù trong nhiều năm. Trong câu chuyện thuật lại với tôi, chú lai nói đã được tham quan hầm chứa hài cốt của thổ dân Papous ở giữa đảo. Trong đấy có bảy ngôi mộ đã cũ, trên mỗi ngôi cắm một cây thánh giá bằng chì mà thổ dân cho là “hèm” của họ (Hèm = lễ vật cúng riêng một vị thần). Tôi làm ra bộ tò mò muốn biết thủ tục tang lễ của dân bản xứ Afu nên tìm mọi cách khai thác chú lai để thu thập nhiều tin chính xác về hầm hài cốt này ở đó có những cây thánh giá.
Được tin đầy đủ tôi còn phải lo đi đến Afu để tìm hầm chứa hài cốt. Tuy nhiên, muốn làm việc này kết quả phải có tàu, phải có người sẵn sàng chiến đấu với thổ dân khi cần. Muốn vậy, phải có tiền và tôi hiểu ngay rằng phải có người cộng sự. Lúc bấy giờ tôi gặp Zoltan. Hắn ta có tàu, có người thật là một cộng sự lý tưởng. Phải nói lúc bấy giờ tôi bị kích thích thần kinh quá độ nên tôi đã kết bạn với chính Zoltan.
Tuy nhiên, khi nói kế hoạch của tôi với Zoltan, tôi thất vọng. Zoltan không tin câu chuyện cùa tôi. Hắn nói hắn biết nhiều chuyện như thế trong khi chạy khắp Thái Bình Dương và răn tôi cách làm giàu tốt nhất là phải làm việc chứ đừng mất công xông vào tìm kiếm những kho vàng lộng lẫy không đâu. Rồi hắn đề nghị tôi làm việc vói hắn vì lúc bấy giờ hắn chưa cấu kết với thằng vô lại Farnlcy nên hắn cần một người giúp việc.
Lúc bấy giờ tôi chỉ nghĩ kiếm được khá nhiều tiền để có thể nhanh chóng đi tìm bảy cây thánh giá bằng chì. Tôi nhận một cách miễn cưỡng lời đề nghị của Zoltan, kể từ đó tôi phải chia xẻ cuộc đời với nó ngoài vòng pháp luật. Rồi đến ngày sau vụ nhập lậu súng đạn vào Inđônêxia hắn chiếm đoạt phần lời của tôi, vu khống tôi phạm tội trong khi chính hắn mới là chủ mưu. Tôi bị bắt giam, xét xử một cách oan ức. Người ta giam tôi vào nhà tù khổ sai ở Yeluk-Yeluk mười năm. Mười năm ở Yeluk-Yeluk có nghĩa là tôi không bao giờ trở về. Sau đó hai anh đã biết thằng Zoltan đã đổ tội cho tôi rồi lại tìm cách cho tôi vượt ngục.
Jack Scare thôi không nói nữa, đứng im lặng mắt như nhìn vào cõi hư vô. Một lúc sau mới nói:
– Các anh biết là tôi rất tiếc đã bỏ Luân Đôn. Lúc bấy giờ tôi như bị thôi miên bởi kho vàng. Nếu có được, gia đình tôi sẽ thoát khỏi cảnh túng thiếu, bởi vậy tôi từ giã vợ và con gái ra đi. Bây giờ họ ra sao? Tôi nghĩ tới họ nhiều, cả khi ở Yeluk-Yeluk. Bây giờ tôi đã có mong muốn nhanh chóng trở về Luân Đôn gặp vợ con tôi, ăn năn hối lỗi về sự mù quáng, trở lại làm việc để đảm bảo đời sống. Tôi và gia đinh tôi có thể vẫn nghèo nàn nhưng hạnh phúc.
Trong khi Jack Scare nói thì Bob Morane nhìn anh ta tự hỏi không biết anh ta có nói thật hay giả vờ hối lỗi. Rồi nửa đùa nửa thật:
– Thưa ông Scare, ông yên tâm đi! Nỗi gian truân của ông từ nay đã hết. Chẳng bao lâu nữa chúng ta đến Nouvelle Guinée, từ đó ông sẽ về Anh quốc và gặp lại người thân của ông.
Jack Scare lắc đầu có dáng hồ nghi nói:
– Tôi sợ Zoltan không để cho tôi yên. Bâv giờ nó đã biết sự thật về kho vàng, nó phải dùng mọi phương tiện để chiếm đoạt.
Đương nói thì Bill đưa thẳng cánh tay phải ra trước mặt:
– Hãy trông kìa, có cái gì đến đằng sau.
Một lớp sương mù dày đặc trùm khắp mặt biển, không còn nhìn thấy chân trời. Mọi người trong ca nô quay tứ phía cũng đều trông thấy như vậy.
Bob nói:
– Chúng ta bị sương mù bao vây tứ phía. Chỉ vài phút nữa chúng ta thành bã đậu.
Lời nói của anh đã thành sự thật. Sương mù mỗi lúc một dày và tiến nhanh về phía ca nô. Một lúc sau nó hao trùm khắp ca nô khiến cho mọi người ngồi trong không sao trông thấy nhau được.
Một chốc biển lặng, buồm lại rủ xuống trên cột. Bill vội nói:
– Việc còn phải làm là khỏi động động cơ ca nô.
Bob nói:
– Không được. Nếu tàu Đài Bắc đi qua đây, chúng ta không trông thấy nó nhưng khi nghe thấy tiếng động cơ, chúng nó sẽ đi tìm chúng ta. Thôi kệ để cho ca nô trôi giạt và chúng ta cần tỉnh táo đề phòng.
Scare can thiệp vào nói:
– Bob Morane nói đúng đấy. Đứng chờ còn hơn, để cho sương mù tan đã.
Ba người quấn mỗi người một chiếc chăn, ngồi lùi vào sâu trong ca nô để tránh ẩm thấp, tỉnh táo quan sát.
Bao nhiêu lâu chờ đợi như thế, thời gian chậm chạp trôi qua. Bob và hai người bạn ăn uống qua loa, bỗng nghe thấy tiếng động cơ Diezel nổ rất mạnh, chứng tỏ có một chiếc tàu trọng tải lớn đứng gần đó.
Bill nói nhỏ:
– Tàu Đài Bắc đấy!
– Có thể. Morane nói. Chỗ này không phải là hải phận quốc tế.
Tất cả đều đứng im lặng, một lúc không thấy tiếng động cơ nổ nữa, nó đã đi xa. Bill nói:
– Chúng ta đã thoát nơi nguy hiểm!!
Tuy đã quấn trên mình chiếc chăn thế mà anh cũng run lên vì rét. Morane nhìn Jack Scare tuy còn yếu lại gặp sương mù không có lợi cho sức khỏe, nhưng mấy hôm nay anh được ăn uống đầy đủ và mặc quần áo ấm nên sức khỏe trông đã hồi phục dần. Morane và Bill bình tĩnh nhìn sự việc dù xảy ra thế nào cũng mặc kệ, không sốt ruột nóng lòng.
Sương mù đã tan dần, trời bắt đầu bừng sáng lên rồi, trời nước cũng đồng màu xanh thẩm. Mọi người đưa mắt nhìn xung quanh có vẻ lo âu. Jack Scare trông thấy một con tàu đứng yên cách chỗ đó khá gần khoảng phần mười hải lý.
– Tàu Đài Bắc?
– Không phải tàu Đài Bắc.
Đúng thế, không phải tàu Đài Bắc mà là một thuyền buồm lớn màu đen, cánh buồm cũng màu đen.