Cuối cùng, lần này tôi cũng chưa có thể chết được đâu – ông Poirot lẩm bẩm.
Đến thăm người bệnh cúm đang hồi phục này, tôi vui mừng nhận thấy những biểu lộ lạc quan. Đây là lần đầu tôi thấy sự chịu đựng vì bệnh tật của bạn mình. Ông Poirot có vẻ khá hơn nhiều. Ông đang ngồi trên giường, lưng tựa vào gối, đầu quấn khăn len, chậm rãi hớp từng hớp thứ thuốc sắc có mùi khó chịu mà tôi đã làm theo sự chỉ dẫn của ông. Trong mắt ông ánh lên vẻ hài lòng với những chai thuốc xếp hàng trên mặt lò sưởi.
– Phải, đúng vậy mà – ông bạn tôi tiếp tục nói – Hơn một lần nữa, tôi phải làm một Hercule Poirot, vẫn là nỗi kinh hoàng cho những kẻ thủ ác ấy mà! Thử tưởng tượng xem, anh bạn, thế nào tôi cũng được người ta viết một mẩu tin trên tờ Xã hội Ngồi-Lê- Đôi-Mách cho mà coi. Nhưng phải thế chứ! Đây này! Họ đã viết: Tiêu diệt mọi thứ tội ác – là ông Hercule Poirot – và hãy tin tôi đi các bạn gái, trong ông ta có tới mấy gã Hercule đây! – người thám tử nối tiếng và đúng quý của xã hội chúng ta chẳng lẽ không gây cho các bạn một sự chú ý nào sao. Làm sao mà ta phải chú ý vậy? Vâng, lý do làm ta phải quan tâm là vì ông ấy đang bị cúm!
Tôi cười lớn.
– Rất tốt cho ông đó, ông Poirot. Ông đang trở thành một người được công chúng quan tâm rồi đấy. Và rất may là ông đã không quên nhiều chuyện thú vị trong dịp đau ốm này.
– Đó là sự thực. Trong một số trường hợp tôi phải biết khước từ sự thương hại của mọi người chứ.
Bà chủ nhà bất ngờ đút đầu vào cửa.
– Có một ông khách đến dưới nhà nói rất cần gặp ông Poirot hoặc ông cũng được, thưa đại úy. Trông ông ta rất bối rối nhưng là một người khá lịch sự. Tôi có cầm danh thiếp của ông ta đây.
Bà chủ nhà trao danh thiếp cho tôi. – Ông Roger Havering – Tôi đọc lớn.
Ông Poirot hất đầu về phía giá sách và tôi lập tức đến rút ra quyển “Họ là ai?”. Ông Poirot nhận sách rồi lật nhanh trên các trang giấy.
– Con thứ hai của Tử tước Windsor đời thứ năm. Kết hôn năm 19… với cô Zoe, con gái thứ tư của William Crabb.
– Hừm! – Tôi kêu lên – Tôi thích đó là cô gái đóng trong vở Frivolity – chỉ cô ta mới có cái tên Zoe Carrisbrook. Tôi nhớ hình như cô ta kết hôn với một thanh niên trên thành phố hồi trước Chiến tranh.
– Anh có thích đi xuống dưới để coi vị khách đặc biệt này đã gặp rối rối gì không, anh Hastings? Nói với ông ta rằng tôi xin lỗi vì không xuống được nhé.
Roger Havering là người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, ăn mặc lịch sự và thanh nhã. Tuy nhiên, gương mặt của ông ta có vẻ phờ phạc và mệt mỏi vì một sự khích động nặng nề.
– Ông là đại úy Hastings? Tôi biết ông là cộng sự của ông Poirot phải không? Tôi có một yêu cầu rất bức thiết để nhờ ông ấy đi cùng tôi xuống Derbyshire hôm nay.
– Tôi e rằng không thể được – Tôi đáp lời – Ông Poirot đang ốm, ông ấy bị cúm.
Vẻ mặt của người khách nặng trĩu.
– Khốn khổ cho tôi, đó là điều bất hạnh lớn mà tôi phải chịu đây.
– Có việc gì trầm trọng mà ông cần ông ấy vậy?
– Vâng, lạy Chúa! Ông cậu tôi, một người như người bạn tốt nhất của tôi trên thế giới này, đã bị ám sát một cách thô bạo tối hôm qua.
– Ở London này hả?
– Không, ở Derbyshire. Tôi đang ở thành phố thì nhận được điện tín của vợ tôi sáng nay. Ngay khi nhận được bức điện này, tự nhiên tôi quyết định đến tìm ông Poirot để xin ông ấy điều tra giùm vụ này.
Bất ngờ tôi nảy ra một ý nghĩ nên nói:
– Xin ông chờ tôi một phút.
Rồi tôi trở lên lầu, trình bày ngắn gọn với ông Poirot sự việc đó. Ông ấy chăm chú nghe từng lời tôi thuật lại.
– Tôi biết rồi. Tôi biết anh muốn tự mình sẽ đi xuống đó, phải vậy không nào? Được lắm, tại sao không để anh đi nhỉ? Anh sẽ biết thế nào là phương pháp của tôi ngay bây giờ. Chỉ có mỗi một yêu cầu là anh hãy tường thuật mọi việc cho tôi hàng ngày, và phải tuân thủ nghiêm túc mọi hướng dẫn mà tôi gọi điện bảo anh nhé.
– Tôi hoàn toàn vui vẻ chấp thuận điều kiện ấy.
Một giờ sau tôi đã ngồi đối diện với ông Havering trong toa hạng nhất của đoàn tàu Midland, nhanh chóng rời khỏi London.
– Ngay từ bây giờ, thưa đại úy Hastings, ông cũng cần biết về Ngôi Nhà Nghỉ Mùa Săn, nơi chúng ta sẽ đến, và là nơi mà sự việc bi thảm ấy xảy ra. Nó chỉ là một ngôi nhà để nghỉ trong mùa săn tại trung tâm vùng đầm lầy Derbyshire mà thôi. Chỗ ở thực sự của chúng tôi thì gần Nevvmarket, và chúng tôi vẫn thường thuê một căn hộ trong thành phố vào mỗi mùa săn. Còn ngôi nhà nghỉ mùa săn được trông coi bởi một người giúp việc, người có khả năng đáp ứng được mọi yêu cầu của chúng tôi mỗi khi chúng tôi đến đó những ngày nghỉ cuối tuần. Và dĩ nhiên là vào mùa săn bắn, chúng tôi cũng dẫn theo những người giúp việc của chúng tôi ở Newmarket xuống đó. Cậu tôi, ông Harrington Pace (chắc ông cũng biết, mẹ tôi là bà Pace ở New York), đã từ ba năm qua ở cùng chúng tôi. Ông ấy không được cha tôi, cũng như anh tôi ưa thích, còn tôi là đứa con ngang thì lại được cậu ấy có nhiều tình cảm hơn. Tất nhiên, tôi là người nghèo, còn ông cậu tôi là một tay giàu có, nói cách khác, ông ấy là người thanh toán mọi chi tiêu! Nhưng, rõ ràng trong mọi cách, ông ấy không có khó khăn gì khi làm điều đó, và cả ba chúng tôi sống với nhau một cách hòa họp. Hai ngày trước đây, cậu tôi gần như chán nản vơi các trò vui nhộn của chúng tôi ở thành phố nên đề nghị chúng tôi cùng xuống Derbyshire một đôi ngày. Vợ tôi đã điện cho bà Middleton, người giữ nhà, và chúng tôi cùng đi xuống đó ngay buổi chiều. Chiều hôm qua, tôi có việc phải trở về thành phố nhưng vợ tôi vẫn ở lại đó. Sáng nay, tôi nhận được điện tín này – Nói xong, ông ta trao cho tôi bức điện, có nội dung là:
“Cậu Harrỉngton bất ngờ bị ám sát đêm qua. Tìm một thám tử giỏi xuống ngay – Zoe”.
– Vậy là ông cũng chưa nắm được tình tiết sự vụ thế nào?
– Không biết gì hơn, tôi đoán rằng tin này sẽ được đăng trên báo chiều nay. Cảnh sát cũng chưa cho ai là kẻ tình nghi phạm tội nữa.
Khoảng ba giờ chiều thì chúng tôi đến một ga nhỏ ở Elmer’s Dale. Từ ga chúng tôi phải đón xe đi năm dặm nữa mới đến một ngôi nhà xây bằng đá xám giữa một vùng đầm lầy quê mùa.
– Một nơi thật là cô quạnh – Tôi quan sát và nói vậy.
Havering gật đầu.
– Tôi sẽ cố gắng tống khứ nó đi. Có lẽ không bao giờ tôi trở lại sống ở nơi này lần nào nữa đâu.
Chúng tôi mở then cài cổng và bước vào một con đường mòn hẹp dẫn tới cánh cửa bằng gỗ sồi, khi có một dáng người khá quen thuộc tiến tới gặp chúng tỏi.
– Ông Japp ư? – Tôi ngạc nhiên thốt lên.
Viên thanh tra Sở Scotland Yard nhe răng cười với tôi bằng vẻ mặt hết sức thân tình trước khi nói với người cùng đi với tôi.
– Ông Havering phải không ạ? Tôi được Lon-đon gửi xuống đây để phụ trách điều tra vụ này, và tôi có mấy câu muốn hỏi ông, được chứ ạ?
– Vợ tôi…
– Tôi đã gặp bà vợ xinh đẹp của ông rồi, thưa ông… cũng gặp cả người giúp việc nữa, tôi không muốn làm rối thêm cho ông chút nào cả, nhưng tôi còn phải lo đến việc quay trở lại làng ngay bây giờ để xem xét mọi việc ở đó cùng như ở đây.
– Tôi không biết cũng như chưa rõ bất cứ cái gì…
– Một cách chính xác, phải không? – Thanh tra Japp bổ sung trong giọng điệu hết sức nhẹ nhàng. Nhưng đúng ra là có một hai điểm mà tôi muốn biết qua ý kiến của ông. Đại úy Hastings cũng có mặt ở đây, anh ấy biết tôi, anh ấy sẽ đi lên nhà để nói trước rằng ông đã về. Anh sẽ làm gì để giúp cho ông Poirot đây, đại úy Hastings?
– Ông Poirot bị cúm, phải nghỉ.
– Ông ấy đang ở đâu bây gìờ? Tôi rất tiếc khi nghe tin đó. Trường hợp này có khác gì chiếc xe không có ngựa kéo vậy, và anh đến đây không cần có ông ấy, đúng thế chứ?
Bất chấp lời chế nhạo không đúng lúc của ông ta, tôi bỏ đi vào nhà. Tôi kéo chuông cửa trong lúc Japp cũng khép cánh cửa lại sau lưng ông ta. Phải một lúc sau cánh cửa mới được mở ra, trước mặt tôi là người đàn bà trung tuổi mặc toàn đồ đen.
– Ông Havering sẽ đến đây lát nữa – Tôi giải thích – Vì đang bị ông thanh tra cản trở ngoài kia. Tôi đã đi cùng ông ấy từ London xuống đây để xem xét vụ việc này. Có thể bà sẽ kể lại cho tôi nghe chuyện đã xảy ra đêm qua, được chứ?
– Xin mời ông vào trong này – Rồi bà ta đóng cánh cửa lại phía sau lưng tôi, lúc chúng tôi đà vào trong khách sảnh được chiếu bằng thứ ánh sáng mờ nhạt.
– Lúc đó là sau bữa ăn tối, đêm hôm qua, có một người đàn ông đến xin gặp ông Pace, và thưa ông, nghe giọng nói của anh ta, tôi nghĩ đó là một người Mỹ quý phái, bạn của ông Pace, nên mời anh ta vào đợi tại phòng khách nhỏ và tôi bỏ đi báo cho ông Pace. Anh ta đã không báo tên, mà tất nhiên là bây giờ tôi mới nghĩ ra lúc đó tôi đã quá ngốc nghếch. Tôi báo cho ông Pace và tôi thấy ông ấy có vẻ bối rối nhưng vẫn cố bình thản nói với bà Havering: – Xin lỗi nghe, Zoe. Tôi phải đi xem coi ông bạn này cần gì đây. – Và ông ấy bỏ đi tới phòng khách nhỏ, còn tôi thì quay trở lại nhà bếp, nhưng một lúc sau, tôi nghe có tiếng ồn ào, giống như có tiếng người cãi nhau, nên tôi chạy ra khách sảnh. Cùng lúc bà chủ tôi cũng có mặt ở đó, đúng lúc ấy có tiếng súng nổ, để rồi là một khoảng im lặng đáng sợ. Cả hai chúng tôi chạy tới cửa phòng khách nhỏ, nhưng cửa bị khóa chặt nên chúng tôi phải vòng ra phía cửa sổ. Cửa sổ đã bị mở ra, còn bên trong là xác ông Pace bị bắn, người đầy máu.
– Còn người đàn ông thì sao?
– Chắc chắn anh ta đã phóng qua cửa sổ, trước khi chúng tôi tới.
– Và sau đó.
– Bà Havering bảo tôi chạy gọi Cảnh sát. Phải mất năm dặm đi bộ. Cảnh sát đã đến ngay cùng với tôi và họ ở đây suốt đêm qua, tới sáng nay thì viên chức cảnh sát cao cấp từ London mới đến.
– Người đàn ông xin gặp ông Pace hình dáng thế nào?
– Anh ta có bộ ria mép đen, trung tuổi, mặc chiếc áo khoác ngoài mỏng, thưa ông. Ngoài việc cho rằng anh ta giống như một người Mỹ, tôi cũng không chú ý gì nhiều tới anh ta.
– Tôi biết rồi, bây giờ tôi muốn được gặp bà Havering.
– Bà ấy ở trên lầu. Tôi lên gọi bà ấy nhé.
– Xin chị gọi giúp. Báo với bà ấy rằng ông Havering đang ở ngoài trước cùng với thanh tra Japp, còn tôi là người ông ấy đã đưa từ London về đây, rất muốn nói chuyện với bà ấy càng sớm càng tốt.
– Tốt lắm, thưa ông.
Tôi hết sức bồn chồn muốn nắm bắt được tất cả tình tiết vụ việc. Japp đã có hai hay ba giờ gì đó trước tôi rồi mà ông ta có vẻ chỉ muốn làm cho tôi trở thành một thằng bám gót chân thôi.
Bà Havering không để tôi chờ lâu. Chỉ vài phút đã có tiếng bước chân nhẹ nhàng đi xuống cầu thang và một người đàn bà trẻ hết sức xinh đẹp đang tiến về phía tôi. Bà ta đang mặc một bộ áo liền quần đầy màu sắc rực rỡ và do đó trông rất trẻ trung. Trên bộ tóc đen mượt bà còn đội chiếc mũ da cũng có màu sặc sỡ như vậy. Ngay cả sự bi thảm hiện tại cũng không làm mất đi nét sống động của cá tính bà ta.
Tôi tự giới thiệu mình và bà ta gật đầu mau mắn thân mật:
– Tất nhiên là tôi đã từng nghe nói về ông và đồng nghiệp của ông, thám tử Poirot. Hai ông đã khám phá nhiều vụ án rất tuyệt vời, phải không ạ? Thật là những việc đầy trí tuệ, ông nhà tôi đã tìm đến các ông thật là quá đúng chỗ. Và bây giờ, ông có gì cần hỏi tôi đây? Đây là cách dễ nhất để ông nắm sơ bộ những điều cần biết về sự việc khủng khiếp này, phải vậy không ông?
– Xin cảm ơn bà Havering. Người đàn ông ấy tới lúc mấy giờ vậy, thưa bà?
– Lúc đó vào khoảng gần chín giờ. Chúng tôi cũng vừa dùng xong bữa ăn tối, đang ngồi uống cà phê và hút thuốc.
– Lúc này chồng bà đã rời nhà về London rồi chứ?
– Đúng vậy, ông ấy đã đi lúc sáu giờ mười lăm.
– Ông ấy đi ô tô hay đi bộ đến nhà ga?
– Chúng tôi không đưa xe hơi xuống đây. Một người ở ga-ra tại Elmer’s Dale chở ông ấy ra ga xe lửa.
– Tính tình của ông Pace vẫn bình thường chứ?
– Tuyệt đối bình thường, trong mọi phương diện
– Bây giờ bà có thể mô tả gì về người khách đến thăm ấy không?
– Tôi e rằng không nói rõ được. Tôi không trông thấy anh ta. Bà Middleton đã đưa anh ta vào thẳng phòng khách nhỏ rồi đến báo cậu tôi.
– Ông cậu bà đã nói gì nào?
Ông có vẻ khó chịu nhưng cũng đi ngay. Chừng năm phút sau tôi nghe những tiếng ồn ào rất lớn. Tôi chạy vội ra khách sảnh thì gặp bà Middleton ở đó. Rồi chúng tôi nghe tiếng súng nổ. Cửa phòng khách nhỏ đã bị khóa bên trong và chúng tôi phải vòng phía tay phải của ngôi nhà để đến chỗ cửa sổ. Tất nhiên là quá trễ. Việc giết người xảy ra rồi. Ôi, cậu thương yêu của tôi – Tiếng bà ta ấp úng – đã bị bắn qua đầu. Tôi biết ngay là ông ấy đã chết. Tôi bảo bà Middleton chạy gọi cảnh sát. Tôi cẩn thận không sờ mó gì đến những thứ bên trong căn phòng để không làm mất hiện trường như lúc tôi nhìn thấy.
Tôi gật đầu tán thành.
– Còn khẩu súng thì thế nào?
– Phải, tôi có suy đoán về điểm này, thưa đại úy Hastings. Có một cặp súng ngắn của chồng tôi treo trên tường. Một khẩu đã biến mất. Tôi chỉ cho cảnh sát thấy điều này và họ đã mang khẩu súng đó đi rồi. Khi họ giám định vết đạn, có lẽ họ sẽ có kết luận rõ ràng.
– Tôi có thể đến xem qua căn phòng khách nhỏ ấy không?
– Chắc chắn là được, thưa ông. Cảnh sát đã làm các việc khám nghiệm xong rồi. Nhưng xác chết đã được chuyển đi.
Bà ta đưa tôi đến nơi đã xảy ra tội ác. Cũng vào lúc đó, ông Havering bước vào trong khách sảnh nên bà ta vội xin lỗi tôi để chạy đến ngay với chồng. Một mình tôi phải tự tìm hiểu dấu vết cho cuộc điều tra của tôi.
Tôi phải thú nhận ngay rằng tôi không được thỏa lòng mong muốn. Trong những cuốn truyện trinh thám thì đầy rẫy những dấu vết nhưng ở đây tôi không tìm thấy cái gì ngoài dấu máu trên tấm thảm trải sàn nhà, nơi mà tôi có thể phán đoán rằng đó là chỗ nạn nhân đã ngã xuống. Tôi xem xét mọi thứ hết sức cẩn thận và chụp hai kiểu ảnh bên trong phòng bằng cái máy ảnh nhỏ xíu của tôi đã mang theo. Tôi cũng quan sát kỹ nền đất bên ngoài cửa sổ, nhưng ở đó có quá nhiều dấu chân giày xéo lẫn lộn nên tôi hiểu rằng tôi chỉ mất thì giờ vô ích mà không tìm thấy một dấu vết nào đáng tin cả. Không, tôi phải có được những gì mà ngôi nhà nghỉ mùa săn này chỉ cho tôi thấy. Tôi phải trở lại Elmer’s Dale để gặp thanh tra Japp. Nghĩ vậy, tôi từ giã gia đình Havering và đón xe ra ga.
Tôi tìm thấy Japp ở Matlook Arms và ông ta lập tức cho tôi xem cái xác. Ông Harrington Pace là một người nhỏ con, râu ria cạo sạch sẽ, thường thấy ở những người Mỹ. Ông đã bị bắn từ sau đầu và tầm bắn rất gần.
– Trong lúc ở đó – Japp nhận định – có một kẻ khác đã tranh thủ lấy khẩu súng trên tường và bắn ông ta. Một khẩu mà ông Havering còn treo lúc đó đã nạp đầy đạn mà tôi không nghi ngờ gì khẩu kia thì cũng thế. Có một sự quái đản mà con người ngu đần thường vẫn làm như vậy. Anh thấy buồn cười không khi lúc nào cũng có hai khẩu súng lục nạp đầy đạn treo trên vách tường phòng anh?
– Ông nghĩ về trường hợp này như thế nào? – Tôi hỏi Japp lúc rời khỏi căn phòng gớm ghiếc ấy.
– Đúng, tôi phải để mắt tới Havering từ việc này. À, đúng thế đấy! – Khi thấy tôi kêu lên hết sức ngạc nhiên, Japp tiếp – Havering có một hoặc hai việc làm mờ ám trong quá khứ. Khi còn trẻ ở Oxford, có mấy chuyện nực cười về chữ ký trên những tờ séc của bố ông ta. Dĩ nhiên là mọi chuyện xấu đều được bưng bít. Rồi hiện giờ ông ta là người nợ nần lút đầu, những món nợ mà ông ta sợ đến tai ông cậu hơn là nghĩ đến việc ông cậu có thể thỏa mãn được điều đó. Phải, tôi phải để mắt đến ông ta, và đó là lý do tại sao tôi muốn nói chuyện với ông ta trước khi để ông ta gặp vợ mình, và những nhận định của tôi là chính xác, cũng như tôi đã đến hỏi nhà ga và có cái chuyện ông ta rời khỏi nhà lúc sáu giờ mười lăm đâu. Tàu về London chạy lúc mười giờ ba mươi phút. Và ông ta đi thẳng đến câu lạc bộ, có thể xác định điều ông ta nói là đúng… Thì tại sao ông ta không thể bắn ông cậu mình ở đây lúc chín giờ trong vai một người có bộ ria mép màu đen chứ?
– À, phải đấy. Tôi cũng muốn hỏi ông nghĩ gì về bộ ria mép ấy đấy.
Japp nhún vai.
– Tôi nghĩ rằng bộ ria ấy mọc tốt lắm… mọc lên chỉ trong năm dặm từ Elmer’s Dale về tới Ngôi Nhà Nghỉ Mùa Săn ấy. Những người Mỹ mà tôi đã gặp thường là mày râu nhẵn nhụi. Dễ thấy nhất ở những hội viên các hội đoàn của người Mỹ như ông Pace. Chú ý người có râu mép sẽ dễ tìm ra kẻ giết người. Tôi đã hỏi người giúp việc trước rồi mới gặp bà chủ trẻ, họ đều nhắc đến chi tiết bộ râu mép nhưng tôi rất tiếc là bà Havering không nhìn thấy người khách đó. Bà ta là một người đàn bà thanh nhã, bà ta có thể giúp chúng ta ghi nhận ra một đặc điểm nào đó để truy tầm hung thủ này.
Tôi phải bỏ ra một phút kể mọi chi tiết cho ông Poirot. Rồi tôi còn bổ sung thêm một số tin tức trước khi dán thư lại gửi đi.
– Viên đạn đã được giảo nghiệm cho thấy rằng nó được bắn đi từ khẩu súng mà cảnh sát đang giữ. Hơn nữa, việc đi đứng của ông Havering đêm đó cũng được thẩm tra và xác minh cho thấy rằng ngoài chuyện nợ nần, quả nhiên ông ta đã đến Lon-don bằng chuyến tàu mà Japp dò hỏi. Và, thứ ba là có một ghi nhận làm người ta vô cùng ngạc nhiên. Đó là chuyện một cự dân trong thành phố sống ở Ealing sáng đó trên đường băng qua Haven Green để đến nhà ga quận Hạt đã thấy một hộp giấy màu nâu nằm trên đường ray. Mở ra, trong đó có khẩu súng ngắn. Ông ta giao ngay hộp giấy này cho đồn cảnh sát nhà ga, và đó là khẩu súng mà chúng tôi đang truy lùng trong khi khẩu súng kia do bà Havering giao nộp. Một viên đạn đã được bắn đi từ khẩu súng ấy.
Tôi ghi thêm những chi tiết này vào bản báo cáo gửi đi. Một cú điện của ông Poirot đến với tôi lúc tôi đang dùng điểm tâm ngay sáng hôm sau.
“Dĩ nhiên người đàn ông có bộ ria mép đen không phải là Havering. Chỉ có anh và Japp mới có ý nghĩ ấy thôi. Hãy tả rõ cho tôi về người giúp việc và bộ quần áo bà ta mặc sáng nay, cũng như của bà Havering. Đừng chụp ảnh bên trong làm chi vô ích. Ảnh chụp tồi lắm và cũng chẳng nghệ thuật chút nào”.
Điều này làm tôi cảm giác rằng ông Poirot hay có cái kiểu khôi hài không cần thiết. Tôi chỉ vui là ông ấy có vẻ hơi ghen tỵ với vai trò của tôi ở nơi này với đầy đủ những phương tiện phục vụ phá án. Yêu cầu của ông ta đòi tôi tả rõ quần áo của hai người đàn bà chỉ làm tôi tức cười nhưng tôi cũng đáp ứng cho ông ấy một cách đầy đủ. Tôi là một người tốt bụng mà, có thể là thế đấy.
Lúc mười một giờ thi có điện của ông Poirot gửi cho tôi: “Hãy khẩncấp bắt giữ người giúp việc trước khi quá muộn”.
Tôi điếng người mang bức điện tới chỗ Japp. Japp hừm nhẹ một tiếng:
– Cái ông Poirot này thật rắc rối. Tuy nhiên, nếu bảo thế thì cũng có vấn đề đấy. Và tôi rất khó quan sát người đàn bà này. Tôi không biết tôi có thể bắt giữ được bà ta không, nhưng tôi sẽ trông chừng. Chúng ta phải đi ngay thôi và cử người theo dõi bà ta.
Nhưng như vậy cũng đã quá trễ. Bà Middleton, người đàn bà trung tuổi từng có mặt ở đây như một con người hết sức bình thường và khả kính, đã biến mất không để lại tăm hơi gì. Căn lều của bà ta nằm ở phía sau. Chỉ còn lại trong đó vài bộ áo thêu loại thường. Không có cái gì đủ để xác định lý lịch của bà ta hay cho biết nơi bà đã đi.
Từ bà Havering, chúng tôi chỉ moi được vài tin nhỏ như thế này:
– Tôi mới biết bà ta khoảng ba tuần trước, khi người giúp việc cũ của chúng tôi xin nghỉ, qua môi giới của văn phòng giới thiệu việc làm Selbourne’s rất nổi tiếng ở Mount Street. Chúng tôi vẫn thường nhận người giúp việc từ đó. Trong số rất nhiều người được giới thiệu, bà Middleton có vẻ là người xinh đẹp nhất và có được chứng nhận rõ ràng. Tôi mướn bà ta ngay lập tức và báo về cho văn phòng giới thiệu. Tôi không thể tin rằng có điều gì không tốt về bà ta. Người đàn bà này có tính cách trầm tĩnh lắm.
– Điều này quả thật là bí ẩn. Trong khi để tin là người đàn bà này không hề nhúng tay vào tội ác, lúc nghe súng nổ thì chính bà Havering cũng cùng có mặt với bà ta tại khách sảnh, hoặc là bà ta phải có liên quan gì đến kẻ sát nhân, nếu không tại sao tự nhiên bà ta lại biến mất không để lại tăm hơi nào?
Bức điện cuối cùng gửi cho ông Poirot, tôi có nói ý định muốn trở về London để đến hỏi văn phòng giới thiệu việc làm Selbourne’s. Ông Poirot đã trả lời tôi ngay lập tức:
“Đừng làm chuyện vô ích. Văn phòng này sẽ không bao giờ nghe được chuyện bà ta tìm xe nào chở bà ta đến chỗ ngôi nhà nghỉ mùa săn, là chỗ bà ta đầu tiên đã tới”.
Dù rất hoang mang, tôi cũng nghe theo ông Poirot. Các phương tiện để tới Elmer’s Dale rất hạn chế. Ga-ra địa phương chỉ có hai cái xe Ford cũ xì và hai cỗ xe ngựa. Không có thứ nào trong số này đáp ứng được sự đúng giờ cả. Khi được hỏi, bà Havering cho biết rằng bà giúp việc mới đã cho một người đàn bà khá nhiều tiền để được quá giang xuống Derbyshire và rồi mới thuê xe đến ngôi nhà nghỉ mùa săn này. Thường thì vẫn có một chiếc xe Ford hay chở khách tại nhà ga khi có yêu cầu. Còn phân tích sâu xa thì chắc là không ai chú ý đến sự có mặt của một người lạ tại nhà ga đâu, nhưng mọi việc có thể coi như kẻ giết người đã tới nơi này bằng xe và nó đã đậu đâu đó gần nơi gây án để giúp kẻ đó tẩu thoát. Tôi có thể tin việc dò hỏi tại văn phòng giới thiệu tại London sẽ chứng minh cho điều suy đoán của ông Poirot. Sẽ không có nhiều bà Middleton như thế trong hồ sơ của họ đâu. Họ đã có thật nhiều vinh hạnh khi được bà Havering nhờ giới thiệu người giúp việc. Thế là họ đã gửi rất nhiều ứng viên đến chỗ này. Và khi bà chủ trẻ gửi cho họ khoản tiền lệ phí, tất nhiên bà ta đã quên lưu ý đến người đàn bà mà bà ta đã chọn là người nào.
Quá chán nản, tôi bỏ về London. Tôi thấy ông Poirot ngồi trong chiếc ghế bành đỏ rực bởi những tấm vải phủ đầy màu sắc sặc sỡ. Ông ấy chào tôi bằng một thứ tình cảm hết sức nồng hậu.
– Anh bạn Hastings thân mến của tôi đây rồi! Tôi vui biết bao nhiêu khi gặp lại anh. Nói thực là tôi đã dành cho anh rất nhiều tình cảm đấy, anh bạn! Còn anh thì sao, vui chứ? Anh đã ngược xuôi với anh bạn Japp giỏi giang ấy chứ gì? Anh đã phỏng vấn, anh điều tra, đã thỏa thích chưa?
– Ông Poirot – Tôi kêu lên – Đây là một bí mật đen tối! Không bao giờ cứu vãn được.
– Đó là sự thực mà chúng ta không hề thích dùng thanh danh của mình để che đậy.
– Không, khác hẳn thế. Cái hạt này quá cứng, không làm vỡ nó ra được.
– Ồ, thế thì càng xa vấn đề, tôi có đủ khả năng làm vỡ mọi thứ hạt! Một con sóc chính hiệu đây này! Điều đó không làm khó tôi được. Tôi biết rất rõ ai đã giết ông Harrington Pace.
– Ông biết ư? Làm sao ông tìm ra được kẻ đó?
– Thì chính những câu trả lời rõ ràng của anh cho những bức điện của tôi giúp tôi tìm thấy sự thật. Xem này, anh Hastings, chúng ta hãy giải thích sự việc cho có phương pháp và có thứ tự đi. Ông Harrington Pace là người có nhiều của cải, cái chết của ông ấy, không còn nghi ngờ gì có dính líu đến quyền lợi của thằng cháu. Đó là điểm thứ nhất. Đứa cháu là kẻ được biết đang gặp nhiều khó khăn. Đó là điểm thứ hai. Đứa cháu cũng bị hiểu như là một kẻ… sẽ như chúng ta nói – là kẻ mất tính người vô đạo đức, phải không? Đó là điểm thứ ba.
– Nhưng người ta biết rằng ông Roger Havering đã về thẳng London.
– Đúng, chính xác! Và do đó, nếu ông Havering rời Elmer’s Dale lúc sáu giờ mười lăm còn ông Pace thì không bị giết chết trước khi ông ấy đi khỏi, hoặc là bác sĩ đã sai lầm về thời điểm xảy ra tội ác do có nhận định không chính xác khi khám nghiệm tử thi, còn chúng ta thì kết luận rằng ông Havering không bắn chết cậu mình. Nhưng bà Havering thì sao, Hastings?
– Không thể thế được! Người giúp vỉệc cũng cùng ở đó với bà ta trong khi súng nổ.
– À, phải, người đàn bà giúp việc! Nhưng bà ta tự nhiên biển mất
– Bà này phải được tìm ra.
– Tôi cho là không. Có biết bao cách tránh né trách nhiệm rất đặc thù về những người giúp việc như thế, anh không nghĩ như vậy sao, Hastings? Nó làm tôi chú ý ngay vấn đề.
– Bà ta phải có dự phần; tôi nghĩ vậy, và rồi bà ta sẽ bị tóm cổ thôi.
– Thế bà ta dự phần như thế nào?
– Thế này nhé, đầu tiên bà ta xác nhận về một người đàn ông có bộ ria mép đen…
– Ô, không đâu, đó không phải là sự dự phần của bà ta! Sự đồng phạm của bà ta là cái mà anh vừa nói, là khai gian về thời điểm có phát súng nổ. Và cũng không ai có thể tìm ra bà ta. Bởi môt lẽ bà ta đâu phải là một người có thực, anh bạn ạ! Không có một người như thế, giống như anh cũng từng biết văn hào vĩ đại Shakespeare nói vậy đó.
– Đó là Dickens chứ – Tôi khẽ nói, không thể cười nổi nữa – Nhưng ý ông muốn nói gì vậy, ông Poirot?
– Ý tôi muốn nói rằng Zoe Havering là một diễn viên trước khi lấy chồng, còn anh và Japp thì chỉ gặp bà giúp việc trong ánh sáng tù mù tại khách sảnh với hình ảnh ảm đạm của một bà trung tuổi có giọng nói buồn bã đầy thuyết phục, và cuối cùng, anh cũng như Japp hoặc là mấy vị cảnh sát địa phương, được người đàn bà giúp việc đón vào có ai nhìn thấy cùng một lúc cả bà chủ trẻ và bà người làm không. Đó là màn kịch mở đầu của người đàn bà trẻ thông minh và liều lĩnh này. Viện cớ đi mời bà chủ trẻ, bà ta đã chạy vội lên lầu, mặc vào bộ áo liền quần sặc sỡ cùng với mũ nón rực rỡ, trẻ trung làm thay đổi hẳn hình thức u buồn trước đó. Chỉ cần một chút khéo léo để thay hình đổi dạng, bà ta trở xuống đã thành một cô nàng Zoe Havering chói lọi với tiếng nói rõ là trong trẻo. Đâu có ai nhìn ra được đặc điểm riêng của người giúp việc. Tại sao họ bị như vậy nhỉ? Không ai có thể nghĩ rằng bà ta có liên quan gì tới tội ác cả. Đó là vì, cũng dễ thấy, bà ta có tài.
– Nhưng khẩu súng đã được tìm thấy tại Ealing? Bà Havering không thể nào đặt nó vào đó được?
– Không, đó là việc làm của Roger Havering… nhưng vì vậy mới có sự sai lầm. Chính điều đó đặt tôi vào đúng đường tìm thấy dấu vết tội lỗi này. Một người đã tham gia tội ác thì không bao giờ mang khẩu súng ấy đi London cùng với mình, mà anh ta phải tìm cách quẳng nó đi ngay. Không, diễn tiến đã quá rõ ràng, kẻ thủ ác muốn hướng trọng tâm chú ý của cảnh sát ở một nơi xa Derbyshire, họ muốn cảnh sát rút khỏi ngôi nhà nghỉ mùa săn càng sớm càng tốt. Tất nhiên khẩu súng được tìm thấy ở Ealing cũng không phải là khẩu súng đã bắn chết ông Face. Ông Roger Havering có dùng khẩu súng này để bắn một phát rồi mang nó đi London, đến thẳng câu lạc bộ xong thì nhanh chóng quay ra để về Ealing, sự việc chỉ xảy ra trong vòng hai mưoi phút, bỏ nó tại chỗ mà người ta đã tìm thấy và trở lại thành phố. Còn người vợ xinh đẹp của ông ta, người đã bắn ông Pace sau bữa ăn… anh cũng nhớ là ông ấy bị bắn từ phía sau tới phải không? Có một việc hết sức dễ làm… là lắp lại viên đạn khác, đặt nó ở chỗ cũ, và bắt đầu màn kịch độc diễn của mình.
– Thật kinh khủng – Tôi thì thào đầy kích động – mà chưa hẳn…
– Lại còn chưa phải là sự thực vậy sao? Chính xác đấy, anh bạn ạ, sự thực là thế đấy. Nhưng để đưa được hai con người đẹp đẽ này ra trước pháp luật lại là một vấn đề khác. Đúng vậy, anh chàng cảnh sát Japp phải làm những gì anh ta có thể làm được… Tôi vừa viết cho anh ta bản phân tích vụ án rất đầy đủ… nhưng tôi rất lo Hastings ạ. Đó là rồi chúng ta cũng đành quên nó đi để phó mặc cho số mệnh hay là đấng tối cao toàn năng, điều mà anh hằng tôn sùng tin tưởng…
– Dù một đóng góp nhỏ cũng có thể trang trí cho xanh thêm màu xanh của nhành nguyệt quế – Tôi nhắc ông Poirot.
– Nhưng rồi cái gì cũng có cái giá của nó, Hastings ạ, tin tôi đi.
Linh tính của ông Poirot, theo tôi, thì bao giờ cũng khá chính xác. Thanh tra Japp, dù đã đủ sức tin tưởng những lý luận chặt chẽ của ông Poirot, ông ta cũng không thu thập thêm được chút chứng cứ nào để kết luận sự phạm tội của đôi vợ chồng kia.
Tài sản khổng lồ của ông Pace rồi cũng rơi vào tay của những kẻ đã giết chết ông ta. Tôi nghĩ, Nữ Thần Báo ứng đã quên tên họ, cho đến một hôm, tôi đọc bản tin trên báo rằng ông và bà Havering Đáng Kính cũng nằm trong danh sách những người bị chết vì tai nạn máy bay tại Paris.
Tôi coi đó là Ngày Phán Xử.