Chỉ là hiểu nhầm
Người ta đã quy ết định rằng Erlendur, Sigurdur Óli và Elínborg sẽ ph ải tự thụ lý vụ Bí M ật Những Khúc Xương – theo nh ư giới truy ền thô ng gọi nó. Cục điều tra hình sự kh ông thểđiều thêm thám tử ột vụ khôn g được ưu tiên nh ư thế. M ột vụ điều tra quy mô lớn về ma túy đang diễn ra kh ẩn trương nên ngốn rất nhiều thời gian và nhân lực, vì thế họ khôn g thể cử thêm ng ười vào vụ nghiên cứu lịch sử này được, theo đúng nh ư lời ông giám đốc Hrólfur nói. Không ai có thể đảm bảo ch ắc ch ắn rằng nó có ph ải là m ột vụ liên quan đến tội ph ạm hay không.
Erlendur ghé qua bệnh viện vào sáng sớm hôm sau trên đường đến sở. Ông ngồi bên con gái hai tiếng đồng hồ. Tình trạng của con bé ổn định. Không có dấu hiệu nào cho thấy m ẹ nó đã đến đây. Erlendur ng ồi yên lặng như thế khá lâu, ngắm nhìn gương mặt g ầy, x ương x ẩu của con gái và nh ớ lại th ời quá kh ứ. Ông cố g ắng nh ớ v ề kho ảng thời gian ông ở cùng con bé khi nó còn rất nhỏ. Eva Lind mới lên hai tuổi bố m ẹ nó đã ly hôn, và ông nh ớ rằng con bé luôn n ằm ng ủ giữa hai ng ười. Nó không muốn n ằm ở cái cũi của mình vì họ chỉ sống trong m ột căn hộ rất nhỏ với m ột phò ng ngủ đơn, một phòng khách và nhà bếp, nhà bếp kết hợp luôn tron g phò ng ngủ. Con bé leo ra khỏi cũi, nằm phịch xu ống cái giường đôi và rúc vào giữa bố m ẹ.
Ông nh ớ hìn h ảnh con bé đứng trước cửa nhà mình, lúc đó đã đến tu ổi vị thành niên, sau kh i lần theo dấu vết của b ố. Halld óra đã th ẳng th ừng từ ch ối không cho ông g ặp m ặt các con. Cứ khi nào ông sắp x ếp để g ặp chúng là bà lại ch ửi m ắng ông th ậm tệ và ông có cảm giác rằng m ỗi lời bà nói ra đều là sự th ật. Dần d ần ông không còn gọi cho chúng n ữa. Ông không gặp Eva Lind trong ng ần ấy thời gian và đột ngột con bé đứng ởđó, trên ô cửa nhà ông. Bộ dạng của nó trông rất quen thu ộc. Khuôn m ặt nó giống bên n ội nhiều.
“Bố không m ời con vào nhà sao?” con bé nói khi thấy bố nhìn mình ch ằm chằm m ột lúc lâu. Con bé mặc một chiếc áo da đen, qu ần bò rách rưới, môi tô son đen kịt. Móng tay sơn đen. Con bé hút thu ốc và nhả khói qua mũi.
Trên m ặt nó v ẫn còn có nét trẻ con, g ần như là tinh k hôi.
Ông run lập cập. Giật mìn h. Rồi m ời con bé vào nhà.
“M ẹ do dự khi thấy con nói là con sẽđi gặp bố,” con bé nói khi bước qua ch ỗ ông, kéo theo khói thuốc và ng ồi phịch xu ống cái ghế bành. “Bà ấy gọi bố là đồ tồi. Lúc nào cũn g nói thế. Với con và Sindri Snaer. ‘M ột thằng tồi khốn kiếp, thằng bố của chúng mày ấy.’ Và rồi: ‘Chúng mày cũng chỉ giống nh ư ông ta thôi, một lũ tồi kh ốn n ạn’.”
Eva Lind phá ra cười. Nó tìm m ột cái g ạt tàn để vứt điếu thuốc, nh ưng Erlendur đã cầm lấy đầu lọc và d ập tắt cho co n bé.
“T ại sao …” ông bắt đầu, nh ưng không th ể nói h ết câu.
“Con chỉ muốn đến th ăm bố,” con bé nói. “Chỉ muốn xem bố trôn g nh ư th ế quái nào thôi.”
“Vậy trô ng b ố nh ư th ế nào?” ông hỏi.
Con bé nhìn bố.
“Giống nh ư một đồ tồi v ậy,” nó đáp.
“Vậy chúng ta không khác nhau rồi,” ông nói.
Con bé nhìn ông ch ằm ch ằm rất lâu và ông nghĩ rằng mình đã trôn g th ấy nụ cười của con b é.
Khi Erlendur đến sở, Elínborg và Sigurdur Óli cùng ngồi xuống và kể rằng họ ch ẳn g thu thập được thêm thông tin gì từ ng ười chủ nhà hiện tại của ngôi nhà của Róbert. Theo nh ư lời họ nói thì họ ch ưa bao giờ thấy có một người phụ n ữ méo mó nào trên đồi cả. Vợ của Rób ert đã ch ết cách đây m ười n ăm. Họ có hai con. Ng ười con trai sáu mươi tuổi ch ết cùng m ẹ vào năm đó, còn m ột người phụ nữ b ảy m ươi tuổi đang chờ Elínborg gọi ình.
“T h ế còn Róbert thì sao? Chúng ta có hỏi được thêm gì từ ông ta không?” Erlendur h ỏi.
“T ối qua Róbert đã ra đi,” Elínborg đáp, giọng nói đượm vẻ hối lỗi. “Ông ấy đã sống đủ rồi. Th ật sự là nh ư thế. Tôi nghĩ rằng ông ấy cũn g không cò n mu ốn sống nữa. Ông ấy tự gọi mình là m ột cây rau già úa đáng thương và vô dụng. Lạy Chú a, tôi ghét ph ải ch ết d ần ch ết mòn trong b ệnh viện nh ư thế.”
“Ông ấy đã viết được vài từ trong cuốn sổ ngay trước khi ch ết,” Sigurdur Óli nói. “Cô ấy đã giết tôi. “
“T hôi đi, anh đùa h ơi quá rồi đấy,” Elínborg rên rỉ.
“Hôm nay cô không ph ải gặp anh ta nữa đâu,” Erlendur nói và h ất đầu về phía Sigurdur Óli. “Tôi và anh ta sẽ đến tầng hầm của Benjamín để tìm kiếm m ột vài d ấu v ết. “
“Ông mong tìm th ấy gì ởđó cơ ch ứ?” Sigurdur Óli hỏi, nụ cười toe toét trên m ặt lập tức ch uy ển sang nh ăn n hó.
“Ch ắc ch ắn là ông ta ph ải viết ra điều gì đó nếu ch o thuê ngôi nhà. Chuy ện đó khô ng có gì phải bàn cãi. Ch úng ta cần tên của nh ững ng ười từng sống ởđó. Cục Thống kê Quốc gia dường như khó có thể tìm ra nó cho chúng ta. Một khi có tên của họ rồi, chúng ta có th ể tra cứu danh sách nh ững ng ười m ất tích và xem có ai trong số họ còn sống hay không. Và chúng ta cần ph ân tích để xác định giới tính và tuổi tác ngay sau khi bộ xương được khai qu ật hoàn toàn.”
“Róbert có nói đến ba người con,” Elínborg nói. “Ít nhất thì m ột tro ng số họ ph ải còn sống ch ứ.”
“Xem nào, đây là điều mà chúng ta cần quan tâm,” Erlendur đáp.
“Và cũng không có gì nhiều: một gia đình năm người sống trong một ngôi nhà gỗở Grafarholt, hai vợ ch ồng v ới ba đứa con vào một thời điểm nào đó trước, trong hoặc sau chiến tranh. Họ là những người duy nhất sống trong ngôi nhà đó mà chúng ta biết, nhưng còn có những người khác có thể sống ởđó nữa. Do đó, cho đến bây giờ chúng ta chỉ có thểđoán rằng một trong số họđã bị chô n ởđó, ho ặc có ai đó liên qu an đến họ. Và có một số người có quan hệ đến họ chính là người phụ nữ mà Róbert còn nhớ, thường đến đó…”
“T h ường đến và sau này, và bị méo mó,” Elínborg nói nốt câu của ông. “Bị méo mó có thể hiểu là chân cô ta bị kh ập khiễng khô ng?”
“Vậy tại sao lúc đó ông ta khô ng viết là “bị què”?” Sigurdur Óli hỏi.
“Có ch uy ện gì xảy ra với ngôi nhà đó nhỉ?” Elínborg hỏi. “Không còn d ấu vết nào của nó trên đồi cả.”
“Có thể anh sẽ tìm ra điều đó cho chúng ta trong căn hầm của Benjamín hoặc từ cháu gái của ông ta,” Erlendur nói với Sigurdur Óli. “Tôi đã quên b ẵng đi khô ng h ỏi ch uy ện đó.”
“T ất cả nh ững gì chúng ta cần là tên của nh ững người sống tron g ngôi nhà đó và xem xét lại chúng trong danh sách nh ững ng ười mất tích tro ng thời gian đó, và đến lúc ấy tất cả sẽ được khớp lại v ới nh au. Chuy ện đó khô ng ph ải rất rõ ràng sao?” Sigurdur Óli nói.
“Ch ưa đâu,” Erlendur đáp.
“T ại sao?”
“Anh chỉ mới nói đến nh ững ng ười được báo cáo là m ất tích thôi.”
“Còn ai m ất tích mà tôi chưa nói đến n ữa?”
“Nh ững trường hợp m ất tích mà khô ng được trình báo. Anh khô ng đảm b ảo được là tất cả mọi ng ười sẽ báo cho cảnh sát nếu có ai đó bị m ất tích. Có m ột số người chu yển đến vùng nôn g thôn và ch ẳng còn ai nhìn thấy họ nữa. Có một số người rời bỏ đất nước và dần dần rơi vào quên lãng. Và còn có nh ững ng ười đi du lịch rồi bị ch ết cóng. Nếu chúng ta có danh sách của nh ững ng ười được trình b áo là mất tích và ch ết tro ng khu v ực này vào thời gian đó, chúng ta cũng cần kiểm chứng lại danh sách đó nữa. “
“T ôi nghĩ tất cả chúng ta có th ể nhất trí rằng đây không ph ải là m ột trường hợp nh ư th ế,” Sigurdur Óli nói với giọng đầy quy ền uy và ngay lập tức nó bắt đầu tác động đến dây th ần kinh của Erlendur. “Không thể có chuy ện ng ười đàn ông này, hay bất kỳ ai đang n ằm d ưới đó, bịđóng băng đến ch ết. Đó là một h ành động có ch ủ ý. Có ai đó đã chôn anh ta xu ống đó.”
“Ðó chính xác là những gì tôi mu ốn nói,” Erlendur – một pho từđiển sống về nh ững thử thách của thiên nhiên hoang dã – đáp. “Ví dụ nh ư ai đó bắt đầu khởi hành từ một trang trại. Lúc đó là vào mùa đông và theo nh ư d ự báo, thời tiết rất tồi tệ. T ất cả mọi ng ười đều cố gắng ng ăn cản anh ta. Tuy nhiên ng ười này lại bỏ ngoài tai hết m ọi lời khuyên can, cứ khăng khăng là mình sẽ làm được. Điều lạ lùng nhất trong câu chuy ện về nh ững ng ười chết cóng là họ không bao giờ nghe nh ững lời kh uy ên. Giống như thần ch ết đã dụ dỗ họ v ậy. Dường nh ư họ buộc phải ch ấp nh ận số ph ận bi đát của mình. Nh ư thể họ muốn chống lại số ph ận nh ưng khô ng được. Dù có th ế nào đi ch ăng n ữa.
Ng ười đàn ông này nghĩ rằn g mình sẽ thành công. Trừ khi cơn bão tan đi, tình hình sẽ tồi tệ hơn anh ta tưởng rất nhiều. Anh ta m ất hết phương h ướng và bị lạc. Cuối cùng, anh ta bị phủ dưới m ột đống tuy ết và ch ết cóng. Đến lúc đó anh ta đã ho àn toàn mất dấu vết. Đó là lý do tại sao xác của anh ta không bao giờ được tìm th ấy. Anh ta bị m ất tích hoàn toàn.”
Elínborg và Sigurdur Óli liếc nhìn nh au, khôn g hiểu Erlendur định nói điều gì.
“Đó làmột trường hợp mất tích điển hình ở Iceland mà chúng ta có thể giải thích và hiểu được, bởi vì chúng ta sống ở đất nước này và biết khi nào thời tiết bất ngờ chuy ển sang xấu, biết câu ch uy ện về ng ười khách bộ hành đó đôi khi được lặp lại m ột cách đều đặn mà không một ai thắc m ắc. Đó là Iceland, người ta nghĩ thế, và lắc đầu. T ất nhiên, chuy ện đó xảy ra thường xuyên hơn trong quá kh ứ khi mà h ầu h ết tất cả mọi ng ười đều đi bộ. Có cả m ột bộ sách kể về ch uy ện đó; tôi khô ng phải là ng ười duy nhất quan tâm đến điều này. Các hình thức du lịch m ới chỉ th ực sự thay đổi trong vòng sáu m ươi đến bảy mươi n ăm qua. Người ta thường bị m ất tích, và mặc dù anh không bao giờ chấp nhận ch uy ện đó, anh vẫn hiểu được số ph ận của họ. Ng ười ta thường không cho rằng nh ững vụ mất tích đó có liên quan đến tội phạm hay cảnh sát. “
“Ý ông là gì?” Sigurdur Óli h ỏi.
“Cả bài thuy ết trìn h vừa rồi là v ề chu yện gì thế?” Elínborg cũng hỏi.
“Nếu nh ư ngay từ đầu, những ng ười đàn ông hay phụ nữ này khô ng kh ởi hành từ m ột tran g trại thì sao?”
“Ông đang mu ốn nói đến điều gì?” Elínborg h ỏi.
“Nếu như ng ười ta lại khai báo rằng nh ững ng ười này đã đi đến m ột khu đất hoang ho ặc m ột trang trại khác ho ặc đi thả lưới bắt cá ở một cái hồ nào đó và không bao giờ trở về n ữa thì sao? M ột cuộc điều tra sẽ diễn ra, nh ưng ng ười đó thì không bao giờ được tìm th ấy và bị m ất tích mãi mãi.”
“Vậy là tất cả nh ững ng ười trong gia đình có âm mưu giết ng ười này sao?” Sigudur Óli nói, nghi ng ờ về giả thuy ết của Erlendur.
“T ại sao lại không?”
“Vậylà anh ta bịđâm ho ặc đánh ho ặc b ắn và bị chô n trong vườn sao?” Elínborg thêm vào.
“Ch o đến m ột ngày Reykjavík phình ra quá lớn đến nỗi anh ta khô ng th ể yên nghỉ d ưới đó được n ữa,” Erlendur nói.
Sigurdur Óli và Elínborg nhìn nhau rồi lại nhìn qua Erlendur.
“Benjamín Knudsen có một ng ười vợ chưa cưới bị m ất tích trong hoàn cảnh rất khó hiểu,” Erlendur nói. Trong kho ảng thời gian ngôi nhà được xây d ựng. Ng ười ta nói rằng cô ấy tự lao mình ra biển và Benjamín không bao giờ còn như trước nữa. Dường nh ư trước đó ông ta có kế ho ạch làm cách m ạn g cho việc kinh doanh lẻở Reykjavík, nhưng Benjamín đã ho àn to àn suy sụp khi cô gái biến m ất và tham v ọng làm giàu của ông ta tan thành mây khói.”
“Theo nh ư giả thuy ết mới của ông thì cô ấy khô ng h ề biến m ất phải không?” Sigurdur Óli hỏi.
“Có ch ứ, cô ấy đã biến mất. “
“Nh ưng ông ta đã giết cô ấy. “
“T h ực ra tôi thấy chuy ện đó rất khó,” Erlendur đáp. “Tôi đã đọc vài bức thư Benjamín viết cho vợ ch ưa cưới và thấy rằn g ông ta kh ông động đến một s ợi tóc của cô ấy. “
“Vậy thì đó là vì ghen tuông rồi,” Elínborg – một độc giả cu ồng nhiệt của các câu chuy ện tình – nh ận xét. “Ông ta giết cô ấy vì lòng ghen tuông. Tình yêu của ông ta dành cho cô ấy có thể là thật. Chôn cô ấy d ưới đó và không bao giờ quay trở lại đó nữa. Th ế là h ết. “
“T ôi đang nghĩ là,” Erlendur nói, “ch ẳng lẽ việc m ột ng ười đàn ông trẻ tuổi suy sụp khi biết ng ười yêu của mình ch ết trên tay mình lại là quá đán g ư? Th ậm chí nếu cô ấy tự tử thì sao? Tôi thấy rằng Benjamín là một ng ười đàn ông đau khổ sau khi cô ấy m ất tích. Có còn gì khác ngoài điều đó n ữa hay không?”
“Ông ta có thể giữ m ột m ớ tóc của cô ấy lắm ch ứ?” Elínborg phân vân. Erlendur nghĩ cô vẫn còn đang chìm đắm tron g m ớảo tưởng nhão nhoẹt. “Có th ể là trong một kh ung ảnh ho ặc một hộp lồng ảnh ch ẳng hạn,” cô nói thêm. “Nếu ông ta yêu cô ấy đến thế.”
“M ột m ớ tóc ư?” Sigudur Óli nh ắc lại.
“Ông ta thật là tối dạ,” Erlendur nói khi đã bắt kịp được dòng suy nghĩ của Elínborg.
“Ýông là gì, một m ớ tó c ư?” Sigurdur Óli hỏi.
“Nó sẽ cho biết cô ta là ai, nếu nh ư không còn lại dấu vết nào kh ác. “
“Ai cơ?” Sigu rd ur Óli nhìn hết ng ười này đến ng ười khác. “Hai ng ười đang nói đến DNA ư?”
“Còn có một ng ười ph ụ nữ trên đồi nữa,” Elín bo rg nói. “Chúng ta ph ải lần ra cô ta.”
“Ng ười ph ụ nữ màu xanh lục,” Erlendur trầm ngâm nói, rõ ràng là đang lẩm b ẩm m ột mìn h.
“Erlendur,” Sigudur Óli nói.
“Sao cơ?”
“Rõ ràng là cô ấy không th ể có màu xanh được.”
“Sigurdur Óli.”
“Sao?”
“Anh nghĩ là tôi là m ột kẻ ngu ngốc lắm à?”
Điện thoại trên bàn Erlendur vang lên. Ng ười gọi là Skarphédinn, nhà kh ảo cổ.
“Chúng tôi đang xu ống gần đến nơi rồi,” Skarphédinn nói. “Chúng tôi có th ể khai qu ật toàn bộ bộ hài cốt trong vòng hai ngày n ữa ho ặc g ần th ế.”
“Hai ngày cơ à!” Erlendur g ầm lên.
“Ho ặc gần vậy. Chúng tôi v ẫn ch ưa tìm ra thứ gì có vẻ như m ột vũ khí cả. Ông có thể nghĩ rằng chúng tôi đang làm việc quá tỉ mỉ, nhưng tôi cho là làm việc cẩn thận sẽ tốt hơn. Ông có muốn đến xem không?”
“Có, tôi đan g trên đường đến đây,” Erlendur đáp.
“Ông có thể mua m ột ít bánh ngọt trên đường đến đây không?” Skarphédinn nói, và Erlendur có th ể tưởng tượng ra cái răng nanh màu vàng của ông ta.
“Bánh ngọt ư?”
“Bánh ngọt Đan M ạch ấy,” Skarphédinn đáp.
Erlendur sập mạnh điện thoại, bảo Elín bo rg đi cùng mình đến Grafarhort và cử Sigurdur Óli đến tầng h ầm của Benjamín để cố tìm kiếm điều gì đó về ngôi nhà gỗ – ngôi nhà mà ng ười thương nh ân đã xây nh ưng không còn quan tâm gì đến nó n ữa sau khi cu ộc đời ông rơi vào b ếtắc.
Trên đường đến Grafahort, Erlendur vẫn còn vẩn vơ ng hĩ đến nh ững ng ười m ất tích và ch ết tro ng nh ững cơn bão tuy ết. Ông nhớ đến câu chuy ện v ề Jón Austman. Ông ta bị ch ết cóng, có lẽ là ở Blö ndu gil năm 1780. Con ngựa của ông ta bị phát hiện với cái cổ họng bị xé to ạc, nh ưng tất cả nh ững gì còn lại của Jón chỉ là một bàn tay.
Nó được bao bọc trong m ột cái g ăng tay len màu xanh.
Bố của Símon là con quái vật xuất hiện tron g tất cả nh ững cơn ác m ộng của nó. Th eo trí nh ớ của nó thì luôn là nh ư v ậy. Th ằng bé sợ con quái v ật hơn m ọi th ứ trên đời, và khi nó tấn công mẹ mình, tất cả những gì mà Símon có thể nghĩ đến là trở thành ng ười b ảo v ệ ẹ. Nó tưởng tượng ra m ột cuộc chiến đấu tất yếu giữa một bên là chàng hiệp sĩ oai dũng và bên kia làmột con rồng khè ra lửa. Giống nh ư trong các câu chuy ện phiêu lưu, chàng hiệp sĩ luôn đánh b ại con quái vật, còn tron g nh ững giấc m ơ của mình, Símon ch ưa bao giờ chiến thắng.
Con quái vật tro ng giấc mơ của Símon có tên là Grímur. Nó khô ng bao giờ là ng ười Cha thân yêu của thằng bé, chỉ là Grímur mà th ôi.
Símon tỉnh dậy khi Grímur lần ra ba mẹ con họ trong khu tập th ể của nhà máy chế biến cá ở Siglufjördur, nó nghe th ấy tiếng ông ta thì thào vào tai m ẹ nó v ề việc ông ta sẽ đưa Mikkelína lên núi và giết chị. Nó nhìn thấy nỗi kinh hoàng trong mắt m ẹ, và nó thấy mẹ nó đột nhiên mất tự ch ủ, lao ng ười vào đầu giường và bất tỉnh. Sau đó Grímur bình tĩnh lại. Nó thấy lúc Grímur tát liên tục vào m ặt m ẹ nó để gọi m ẹ tỉnh d ậy. Th ằng bé ng ửi th ấy mùi hôi thối nồng nặc phát ra từ Grímur, nó vùi mặt vào tấm n ệm. Sợ quá, Símon cầu xin Jesus hãy mang nó lên thiên đàng ngay lập tức.
Símon không nghe thấy Grímur thì thào gì với m ẹ nó n ữa. Chỉ nghe thấy tiếng m ẹ khó c thút thít. Đầy kìm nén, giống nh ư tiếng của m ột con thú bị thương hòa cùng nh ững tiếng rủa x ả của Grímur. Qua khe m ắt, thằng bé thấy Mikkelína nhìn chằm ch ằm vào bóng tối trong n ỗi ho ảng sợ không thốt thành lời.
Sím on đã thôi cầu xin vị Chúa của mình, thôi không còn nói ch uy ện với “ng ười anh em tốt Jesus” nữa, dù ẹ nó có nói rằng kh ông được đánh mất niềm tin vào Ngài. Tuy không bị mẹ thuy ết phục nhưng Símon cũng đã không còn nói với m ẹ v ề hành động b ất tín của mình. Qua biểu hiện của m ẹ, nó có thể thấy rằng mình đã làm m ẹ ph ật lòng. Nó biết sẽ không có m ột ai, thậm chí là tất cả các vị thần thánh trên đời, có th ể giúp m ẹ nó chống lại được Grímur. Theo nh ư nh ững điều mà nó nghe được, Chúa là đấng sáng tạo quy ền n ăng và toàn trí ở cả thiên đường và mặt đất, Chúa đã tạo ra Grímur cũng giống như tất cả mọi ng ười, Chú a để cho con quái v ật đó sống và hành h ạ mẹ mình, kéo tóc m ẹ lôi quanh sàn bếp và kh ạc nhổ vào mặt m ẹ. Và đôi khi Grímur còn đánh cả Mikkelína, “con què khốn kiếp”, h ắn ta gọi nh ư v ậy trong lúc đánh đập và nh ạo báng chị nó. Thỉnh tho ảng hắn đánh cả nó, đá đít ho ặc đấm nó, có lần Rrímur đánh m ạnh qu á đến m ức nó bị b ật một cái răng hàm trên và ch ảy m áu.
“L ạy ng ười anh em tốt Jesus, ng ười b ạn của trẻ em …”
Grím u r đã sai lầm khi cho rằng Mikkelína chậm phát triển trí tuệ. Símon có cảm giác rằng chị mình thông minh hơn tất cả mọi ng ười tro ng nhà cộng lại. Nh ưng chịấy ch ẳng bao giờ nói n ửa lời. Th ằng bé ch ắc ch ắn rằng chị mình có th ể nói, nhưng chỉ là khô ng mu ốn nói mà thôi.
Chắc ch ắn chị nó đã ch ọn cách yên lặng, vì cái cách mà M ikk elín a sợ Grímur cũng giống y nh ư hai anh em nó, có thể còn hơn th ế vì đôi lúc Grímur nói đến chu y ện ném Mikkelína vào đống rác cùng với cái xe đẩy tạm b ợ của chị nó. Dù gì Mik kelína cũng là “kẻ vô dụng” và Grímur đã chán ng ấy việc cứ ph ải nhìn m ột “con què” ăn thức ăn do hắn làm ra mà ch ẳng được tích sự gì, ngoại trừ việc trở thành một gánh nặng. Hắn nói rằng M ikk elín a đã biến họ thành một cái nhà kho nực cười, cả gia đình và cả h ắn nữa, chỉ vì Mikkelína là m ột con què.
Grímur ch ắc ch ắn Mikkelína có thể nghe thấy nh ững điều này, và hắn đã cười sằng sặc khi thấy vợ hắn cố gắng một cách yếu ớt để át đi nh ững lời ch ửi rủa. Mikkelína ch ẳng nề hà gì việc bị hắn ta quát m ắng hay sỉ nhục, nó chỉ kh ông mu ốn m ẹ phải chịu đựng kh ổ sở vì mình. Símon có thể thấy điều đó khi nhìn chị. Giữa Mikkelína và nó có mối quan hệ rất gắn bó, gắn bó hơn rất nhiều so với Tómas – một đứa khó hiểu và chỉ thui thủi một mình.
Ng ười m ẹ biết rằng Mikkelína không hề bị ch ậm ph át triển trí tuệ hay thể ch ất. Cô thường xuyên luy ện tập cùng con bé, nh ưng chỉ v ào nh ững lúc Grímur không có nhà. Cô giúp con kh ởi động đôi chân, nh ấc cánh tay cứng ng ắc, quắt queo bị vặn vào phía trong của nó lên và lấy thuốc mỡ mình tự ch ế từ th ảo d ược trên đồi để xoa bóp nửa người bị liệt cho co n. Ng ười m ẹ thậm chí còn cho rằng một ngày nào đó con mình có thểđi lại được. Cô vòng tay con bé quanh người mình và dìu nó đi ch ập ch ững tới lui trên sàn nhà, giục giã n ó, động viên nó.
Ng ười m ẹ luôn nói chuy ện v ới Mikkelína giống nh ư với một đứa trẻ khỏe mạnh bình thường khác, cô còn yêu cầu Símon và Tómas cũng ph ải làm nh ư thế. Cô chưa bao giờ loại con bé ra khỏi nh ững công việc mà mấy mẹ con họ cùng làm m ỗi khi Grímur ra ngoài. M ẹ và con gái luôn luôn hiểu lẫn nhau. Và các em của nó cũng hiểu nó như thế, hiểu từng cử chỉ, từng biểu hiện trên khuôn m ặt của nó. Nói chuy ện là việc khô ng cần thiết, thậm chí n ếu Mik k elín a biết v ề ngôn ngữ, con bé cũng không bao giờ sử dụng. Cô đã dạy nó đọc và nó còn ưa thích đọc sách hơn cả việc được đưa ra ngoài sưởi n ắng.
Và rồi một ngày lời nói của Mikkelína bắt đầu b ật ra, một ngày mùa hè sau khi thế giới lâm vào cảnh chiến tranh và quân đội Anh đến d ựng lều trên đồi, khi ấy Símon đưa Mikkelína vào nhà tránh nắng. Cả ngày hô m đó con bé sôi động khác thường, nó lắc lư cái đầu, há miệng và thè lưỡi ra ngoài. Símon đang ch uẩn bị đặt chị lên chiếc đi- v ăng trong b ếp vì trời đã sắp tối và bắt đầu trở lạnh thì bất thình lình con bé phát ra tiến g nói khiến m ẹ nó giật mình đến nỗi đánh rơi cả cái đĩa vào bồn rửa bát và vỡ tan tành. Quên khu ấy đi nỗi ho ảng sợ của con bé sau sự vụng về đó, cô quay lại và nhìn con không ch ớp m ắt.
“EMAAEMAAA,” Mikkelína nh ắc lại.
“Mikkelína!” m ẹ th ốt lên đầy kin h ng ạc.
“EMAAEMAAA,” Mikkelína hét lên, lắc đầu qu ầy qu ậy đầy ph ấn khích khi th ấy mình đã làm được.
Ng ười m ẹ từ từđi lại chỗ con bé nh ư thể không tin nổi vào tai mình, sau đó nhìn con, miệng há hốc, còn Símon dường nh ư thấy m ắt m ẹầng ậng nước.
“Maammmmaa,” Mikkelína nói. Cô bế nó từ tay Símon rồi ch ầm ch ậm và nh ẹ nhàng đặt nó lên giường, xoa xoa vào đầu con bé. Trước đây Símon ch ưa bao giờ thấy mẹ nó khóc, mặc cho Grímur có làm gì với mẹđi ch ăng nữa, m ẹ cũng không bao giờ khóc. M ẹ nó chỉ kêu thét vì đau, gọi người cứu, van xin ông ta dừng tay lại ho ặc là chịu đòn trong câm lặng, nh ưng Símon ch ưa bao giờ th ấy mẹ khóc.
Nghĩ rằng m ẹ thất vọng, nó vòng tay quanh ng ười m ẹ, nhưng m ẹ lại bảo nó đừng lo lắng. Đây là điều tuyệt vời nh ất mà mẹ từng có trong đời. Th ằng bé ch ắc ch ắn rằng mẹ nó khó c không ph ải chỉ vì sức kh ỏe của Mikkelína mà còn vì nỗ lực của chị nó nữa. Và điều này làm mẹ nó hạnh phúc hơn tất thảy những gì mẹ nó cho phép mình cảm nhận được từ trước đến giờ.
Đó là chu yện cách đây hai năm, và Mik kelín a đã dần dần bổ sung thêm vào vốn từ vựng của mình, giờđây con bé đã nói được cả câu hoàn chỉnh, m ặt nó giống như một củ cải lớn, thè lưỡi ra và lắc đầu ngu ầy ngu ậy một cách điên cuồn g khiến họ nghĩ rằng cái đầu sẽ rơi ra khỏi cơ thểốm yếu quặt quẹo của con bé mất. Grímur không biết rằng con bé nói được. Mikk elína khôn g bao giờ hé miệng khi có hắn ta ở nhà và người mẹ cũng giấu hắn, bởi vì ch ưa bao giờ cô để hắn m ảy may chú ý gì đến con bé, thậm chí là thành quả tuy ệt vời nh ư thế. M ẹ con họ giả vờ nh ư ch ẳng có chuy ện gì xảy ra hay thay đổi. Có đôi lần Símon nghe thấy mẹ nó nói một cách rất thận trọng với Grímur v ề việc họ ph ải tìm ng ười giúp đỡ Mikk elína. Nói rằng con bé có thể trở nên linh ho ạt và khỏe m ạnh hơn theo thời gian, và nó tỏ ra có năn g khiếu học.Nó có thể đọc và đang học viết bằng bàn tay lành.
“Nó làmột con què,” Grímur đáp. “Đừng bao giờ nghĩ rằng nó có thể làm được gì khác hơn ngo ài một con què. Và đừng bao giờ nhắc đến nó trước m ặt tao n ữa.”
Vậy nên cô thôi khô ng nói n ữa, bởi vì cô tuân theo từng lời nói của h ắn. Nguồn giúp đỡ duy nhất mà Mikkelína nh ận được là từ m ẹ nó, Símon và Tómas khi hai anh em nó bế chị ra ngoài và ch ơi đùa cùng chị.
Símon tránh bố càng xa càng tốt, nhưng dần d ần hắn ta b ắt nó phải đi cùng mình. Khi Símon lớn lên, thằng bé có vẻ h ữu ích đối với Grímur nên hắn đưa nó lên Reykjavík và b ắt nó khu ân đồ dự trữ về nhà. Chuyến đi lên thành phố mất hai tiếng đồng hồ, họ xuống Grafarvogur, qua cầu ở Ellidaár và đi men theo các quận Sund và Laugarnes. Đôi lúc họđi theo dốc đến Háaleiti và đi qua Sogamýri. Símon đi cách Grímur khoảng bốn n ăm bước, còn hắn thì không bao giờ hé răng nói nửa lời hay để ý gì đến thằng bé cho đến khi tống lên ng ười nó cả đống đồ rồi bắt nó tải về nhà. Quãng đường v ề nhà mất ba ho ặc b ốn tiếng đồng hồ, phụ thuộc vào sức nặng của đống hàng mà Símon phải vác. Đôi lúc Grímur ở lại thành p hố và không v ề đồi tro ng nhiều ng ày liền.
Khi ch uy ện đó xảy ra, cả nhà họ bừng lên một niềm v ui khôn tả.
Trên đường đến Reykjavík, Símon phát hiện ra một đặc điểm của Grímur mà nó m ất kh á lâu để cố gắng tìm hiểu màvẫn không hiểu hết. Ở nhà, Grímur cáu kỉnh và hung tợn, hắn gh ét ng ười khác nói chuy ện với mình, khi buộc ph ải nói, h ắn ăn nói tục tĩu và gọi vợ con bằng nh ữn g cái tên thô bỉ. Hắn bắt vợ con phải phục tùng tất cả m ọi nhu cầu của mình và ch ửi m ắng nh ững ai không làm tròn nhiệm vụ. Nh ưng khi tiếp xúc với người ngo ài, con quái vật dường như náu mình sau lớp vỏ và lại trở thành một con ng ười thực thụ. Tro ng chu y ến đi đầu tiên của Símon đến Reykjavík, nó nghĩ rằng Grímur sẽ cư xử giống như v ới mẹ con nó ở nhà, lúc nào cũng cằn nhằn và đấm, thụi. Nórất sợ chuy ện đó, nhưng điều đó không bao giờ x ảy ra. Mà ng ược lại. Đầy bất ngờ, Grímur mu ốn làm v ừa lòng tất cả m ọi ng ười. Hắn ta nói ch uy ện râm ran với ng ười lái buôn, cúi rạp đầu chào kính cẩn với tất cả nh ững ng ười đến cửa hàng. Hắn ta gọi tên họ một cách trịnh trọng, thậm chí còn mỉm cười, bắt tay họ n ữa. Đôi lúc Grímur tình cờ g ặp nh ững ng ười hắn ta quen, h ắn cười lên ha hả ch ứ khô ng ph ải là điệu cười khàn khàn kỳ cục và khô kh ốc thường bật ra khi phỉ báng vợ mình. Khi mọi ng ười chỉ vào Símon, Grímur đưa tay lên đầu thằng bé và nói “Vâng, con trai tôi đấy, lớn tướng rồi.” L ần đầu Símon cúi đầu né tránh vì sợ bị đòn, nh ưng Grímur lại đùa cợt v ới ng ười ta v ềđiều đó.
Símon ph ải m ất rất nhiều thời gian m ới hiểu ra sự hai mặt kỳ cục của Grímur. Nó không thể nh ận ra được v ẻ b ề ngoài lạ lùng của bố nó. Nó kh ông th ể hiểu được tại sao Grímur có thể là một ng ười nh ư th ếở nhà nh ưng khi ra đường hắn lại làmột con ng ười hoàn toàn khác. Símon không thể hiểu được tại sao hắn lại có thể bợ đỡ, khúm núm và cúi đầu lịch sự đến th ế, trong khi đó ở nhà hắn ta giống như một người có quy ền uy tối th ượng, ban ra sự sống và cái ch ết. Khi Símon nói lại chuy ện này với m ẹ, bà chỉ lắc đầu chán n ản và nhắc nh ở thằng bé, y nh ư mọi khi, là ph ải cảnh giác với Grímur, chú ý không được kích động hắn. Không cần biết ai là người làm hắn ta điên lên, Símon, Tómas hay M ikk elín a, hay chu y ện gì xảy ra khi Grímur không ở nhà khiến hắn ta lồng lộn, Grímur luôn luôn đán h đập v ợ mìn h.
Đôi khi nh ững vụđánh đập xảy ra cách nhau mấy tháng liền, thậm chí là cả năm trời, nh ưng có khi chúng lại diễn ra khá thường xuyên, thậm chí là hàng tu ần. T ần suất giận dữ của hắn cũng biến đổi khôn lường. Có khi là một qu ả đấm b ất thình lình, có khi h ắn rơi vào cơn thịnh n ộ khô ng kiểm soát nổi đến nỗi đánh v ợ gục xu ống sàn và đá cô không th ương tiếc.
Đè n ặng lên cả gia đình không chỉ là bạo hành về thân th ể. Ngôn ngữ mà hắn ta dùng giống như một cái roi quất vào m ặt.
Tất cả đều là những lời đả kích thậm tệ nh ắm vào Mikkelína, rằng nó là một con què vô tích sự, rồi ng uy ền rủa Tómas là một thằng chuyên đái d ầm vào ban đêm và ch ửi b ới Símon hành động ch ẳng khác nào một th ằng con hoang lười như hủi. Kể cả nh ững điều m ẹ nó bị buộc ph ải nghe trong khi m ấy anh em nó cố g ắng bịt tai lại để tránh.
Grímur không thèm đếm xỉa gì đến ch uy ện con cái chứng kiến hắn đán h đập hay sỉ nhục vợ bằng nh ững từ sắc nh ư dao cạo.
Th ời gian còn lại, hắn gần nh ư khôn g bao giờ chú ý gì đến ch úng, cư xử cứ như thể không còn ai tồn tại ngo ài hắn. Thỉnh tho ảng lắm hắn m ới chơi bài với hai đứa con trai và thậm chí còn để Tómas thắng. Đôi lúc, vào ngày Ch ủ nh ật, cả nhà họ kéo nhau lên Reykjavík và h ắn còn mua kẹo cho chúng n ữa. Rất hiếm khi M ikk elín a được cho đi cùn g, và tro ng nh ững lần nh ư thế, Grímur bố trí nh ờ m ột chiếc xe tải ch ở than đá để khỏi phải b ế con bé từ trên đồi xuống. Trong nh ững chuy ến đi rất hiếm hoi và cách nhau rất xa ấy, Símon có cảm giác bố nó gần như là m ột con ng ười thực sự, gần nh ư là m ột ng ười cha.
Có vài lần Símon nhìn nh ận bố mình không giống nh ư một kẻ bạo ng ược, ông ta bí ẩn và khó hiểu. Một lần hắn ngồi uống cà ph ê ở bàn ăn trong lúc quan sát Tómas ch ơi trên sàn nhà, hắn xoa xoa bàn tay lên mặt bàn và bảo Símon mang ình m ột cốc cà phê khác khi nó đang chu ẩn bị lẻn ra khỏi bếp. Và khi Símon rót cà phê cho h ắn, h ắn nói:
“Cứ ng hĩ v ề ch uy ện đó là tao lại ph át điên lên.”
Símon dừng tay lại, hai tay bê lấy bình cà ph ê và đứng bên cạnh b ố.
“Ph át điên lên được,” hắn nói trong lúc tay vẫn xoa xoa trên m ặt b àn.
Símon chầm ch ậm lùi về đằng sau và đặt cái bình xuống m ặt lò nướng.
Nhìn Tómas chơi trên sàn, Grímur nói:
“Tao phát điên lên khi nghĩ rằng mình không thể lớn tuổi hơn thằng đó.”
Símon chưa bao giờ tưởng tượng ra bố nó trông như thế nào nếu trẻ hơn, hay là có gì khác. Giờđây, đột ngột, bố nó trở thành m ột đứa trẻ cũng giống như Tómas, và một khía cạnh hoàn toàn mới mẻ trong tính cách của bố nó được bộc lộ.
“Mày và Tómas là bạn bè phải không?”
Símon gật đầu.
“Ph ải không?” hắn nhắc lại, và Símon nói “Vâng.”
Bố nó vẫn xoa cái bàn.
“Chúng tao cũng đã từng là bạn.”
Sau đó hắn im lặng.
“Người phụ nữ đó,” cuối cùng Grímur nói. “Tao đã bị gửi đến
đó. Lúc bằng tuổi Tómas bây giờ. Ởđó rất nhiều n ăm.” Hắn lại im lặng.
“Và ch ồng cô ấy.”
Hắn thôi không xoa mặt bàn n ữa mà xiết chặt tay lại.
“T h ằng chó đẻ ấy. Thằng chó đẻ khốn kiếp ấy.”
Símon ch ầm ch ậm lùi ra sau. Sau đó bố nó dường nh ưđã lấy lại bình tĩnh.
“Ngay cả tao cũng không hiểu chuy ện đó,” Grímur nói. “Và tao không th ể kiểm so át được n ó.”
Hắn uống hết cà phê, đứng lên, đi vào phòng ng ủ và đóng cửa. Trên đường đi, hắn nh ấc Tómas từ sàn nhà lên và đưa nó đi cùng mình.
Thời gian trôi đi, Símon cảm thấy có sự th ay đổi ở mẹ nó khi nó dần lớn lên, trưởng thành hơn và cảm thấy có trách nhiệm h ơn. Ch uy ện đó xảy ra khô ng nhanh chó ng giống như khi Grímur đột ngột lột xác và trở thành m ột ng ười bình thường; ngược lại, m ẹ nó đã thay đổi từ từ và ít m ột, tron g khoảng thời gian nhiều năm. Và nó nhận ra ý nghĩa đằng sau sự thay đổi đó, trong nó dấy lên một cảm giác mu ốn phủ nhận tất cả. Cảm giác của nó càng ngày càng rõ rệt rằng sự th ay đổi của m ẹ nó rất ngu y hiểm, không thua kém gì so với Grímur, và ch ắc ch ắn nó phải có trách nhiệm can thiệp trước khi quá mu ộn. Mikk elín a thì quá yếu còn Tómas thì còn quá nhỏ. Một mình nó cũng cóthể giú p được m ẹ.
Símon khó có thể hiểu được sự thay đổi này, càng không hiểu thay đổi nh ư th ế có nghĩa là gì, nh ưng nó dần dần để ý đến ch uy ện đó nhiều hơn tro ng kho ảng thời gian Mikkelína phát ra được tiếng nói đầu tiên. Sự tiến bộ của Mikk elín a khiến m ẹ nó vui m ừn g khôn xiết. Có đôi lúc trông cô d ường nh ư m ất hẳn vẻ u uẩn thường ngày, cô cười và ôm tất cả các con vào lòng. Thời gian sau đó cô dạy Mikk elína học cách nói và vui sướng trước nh ững tiến triển th ậm chí là nhỏ nhất của con gái.
Nh ưng ch ẳng bao lâu sau, mẹ nó lại trở về thói qu en như cũ, như thể là sự u uất trước đây rời bỏ cô bây giờ lại qu ay trở lại với cường độ m ạnh hơn rất nhiều lần. Đôi khi cô ngồi bên giường, nhìn ch ằm chằm vào kho ảng không nhiều giờ liền sau khi đã lau chùi từng hạt bụi trong ngôi nh à nhỏ bé của họ. Cô nhìn trừng trừng không ch ớp, hai m ắt lim dim trô ng thật khổ sở, gương m ặt sầu thảm, đầy cô độc. Có lần, sau khi Grímur đấm vào mặt cô xong và lao ra ngoài, Símon thấy mẹ nó cầm con dao thái thịt, lòng bàn tay ng ửa lên và lướt nhẹ lưỡi dao qu anh cổ tay. Khi thấy con nhìn mìn h, cô mỉm cười nhăn nhó và đặt con dao trở lại vào ngăn kéo.
“M ẹ lấy dao ra làm gì th ế?” Símon hỏi.
“M ẹ kiểm tra xem nó có sắc khôn g ấy mà. Ông ấy luôn yêu cầu dao phải được mài th ật sắc.”
“Ở thành phố trô ng ông ấy khác h ẳn,” Símon nói. “Ông ấy ch ẳng cáu giận chút nào.”
“M ẹ biết.”
“Ởđó ông ta rất vui v ẻ, lại còn cười n ữa m ẹạ.”
“Ừ.”
“T ại sao ở nhà ông ấy lại khôn g như thế nhỉ? Với chúng ta ấy?”
“M ẹ k hôn g biết. Ông ấy không th ấy thoải mái cũng nên.”
“Co n ước là ông ta khô ng như thế này. Con ước ông ta ch ết đi.”
M ẹ nó nhìn nó.
“Khô ng được nói thế. Con đừng nói n ăng giống nh ư ông ta. Con kh ông được nghĩ nh ư thế. Con không giống ông ta và sẽ không bao giờ giống h ết. Cả con và Tómas. Không bao giờ. Con nghe rõ ch ưa? Con không được ph ép. “
Símon nhìn m ẹ.
“M ẹ kể về bố của chị Mikkelína cho con nghe đi,” nó nói. Có đôi lần Símon nghe th ấy mẹ k ể về ng ười đàn ông đó với Mikkelína và nó cố gắng hình dung ra xem m ẹ nó sẽ nh ư thế nào nếu ông ấy khô ng ch ết và để lại m ẹ nó một mình. Nó tưởng tượng mình là con của ng ười đàn ông đó, hình dung ra m ột gia đình mà bố nó không phải là con quái vật, ông ấy là m ột ng ười bạn, một ng ười thân luôn h ết lòng yêu th ương con cáicủa mình.
“Ông ấy ch ết rồi,” m ẹ nó đáp, giọng đầy tiếc nuối. “Và chỉ thế thôi.”
“Nh ưn g ông ấy khác,” Símon nói. “M ẹ sẽ sống khác.”
“Nếu như ôn g ấy khô ng ch ết ư? Nếu như Mikkelína không bị ốm ư? Nếu mẹ không gặp bố con ư? Nghĩ như thế thì có ích gì cơ ch ứ?”
“T ại sao ông ấy lại luôn cáu giận như v ậy hả m ẹ?”
Th ằng bé cứ hỏi đi hỏi lại điều này. Đôi khi m ẹ nó trả lời, đôi khi m ẹ nó ch ẳng nói câu nào nh ư thể chính cô cũng đã cố tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó tron g nhiều năm ròng mà ch ưa bao giờ giải đáp được. Cô chỉ nhìn chằm ch ằm vào kho ảng không, chìm đắm vào thế giới riêng của mình và tự nói một mình đầy buồn bã và xa vắng, nh ư thể là mình có nói hay làm gì đi ch ăng nữa cũng ch ẳng ích gì.
“M ẹ kh ông biết. M ẹ chỉ biết rằng chúng ta không có lỗi gì hết. Đó không phải là lỗi của chú ng ta. Mọi chuyện là tại ông ta cả. Lúc đầu m ẹ tự đổ lỗi ình, cố gắng tìm xem mình có làm gì sai trái khiến ông ta tức giận khô ng, và mẹđã cố gắng thay đổi điều đó. Nh ưng m ẹ không bao giờ hiểu được nguyên nhân đó là gì, và m ẹ có làm gì đi ch ăng nữa thì cũng ch ẳng có gì khác cả. M ẹđã không còn tự trách mình nhiều năm rồi và m ẹ không muốn con, Tómas hay Mikkelína nghĩ rằng vì mình mà ông ta cư xử nh ư v ậy. Ngay cả khi ông ta nguy ền rủa hay sỉ nhục các con cũng th ế. Đó không ph ải là lỗi của các con.”
Bà nhìn Símon.
“Cái thứ sức m ạnh nhỏ bé mà ông ta có trên đời này là cai trị chúng ta, và ông ta không bao giờ có ý định từ bỏ nó. Không bao giờ.”
Símon nhìn vào cái ng ăn kéo đựng dao.
“Chúng ta không làm được gì sao mẹ?”
“Khô ng. “
“M ẹ định lấy dao làm gì th ế?”
“M ẹ nói với con rồi mà. M ẹ chỉ kiểm tra xem nó sắc đến đâu thôi. Ông ta muốn dao trong nhà ph ải thật s ắc.”
Símon tha thứ cho việc m ẹ nó nói dối, vì nó biết rằng bà đang cố gắng, nh ư bà v ẫn luôn như thế, bảo vệ ông ta, che chở cho ông ta và tìm cách để cho cu ộc sống gia đình khủng khiếp của họ ít ảnh hưởng b ởi ông ta nh ất.
Buổi tối hôm đó, khi Grímur về đến nhà, người ngợm đen thui vì bụi than, tinh thần h ắn thoải mái đến kỳ lạ. Hắn kể cho vợđiều gì đó hắn ngh e được ở Reykjavík. Grímur ngồi xuống ghế đẩu, bảo vợ mang cà phê ình và nói rằng ng ười ta nh ắc đến tên cô trong xưởng làm việc của hắn. Hắn kh ông hiểu tại sao, nh ưng nh ững ng ười thợ m ỏ nói rằng cô là m ột trong số nh ững đứa trẻ được sinh ra sau ngày tận th ếở nhà máy sản xu ất khí đốt.
Cô xoay lưng về phía Grímur và không nói năng gì. Símon đứng cạnh bàn còn Tómas và M ikkelína đã ra ngoài.
“Ở nhà máy sản xuất khí đốt ư!?”
Sau đó Grímur cười khù ng khục. Đôi khi hắn ho ra nh ững cục đờm đen kịt vì bụi than, quanh miệng, m ắt và tai, chỗ nào cũng m ột màu tối th ui.
“Trong một cu ộc vui điên cuồng ở một cái kho ch ứa ga kh ốn kiếp!” h ắn quát lên.
“Không phải đâu,” cô nh ẹ nhàng nói, và Símon rất ng ạc nhiên vì rất ít khi nó thấy m ẹ nó ph ản đối nh ững gì Grímur nói. Nó nhìn m ẹ ch ằm ch ằm, cảm thấy một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.
“Bọn chúng làm tình và uống say túy lúy suốt đêm vì chúng nghĩ ngày tận thếđã đến, và đó là lý do tại sao mày được sinh ra,
đồ đĩ ạ.”
“Họ nói dối đấy,” cô nói, kiên quyết hơn lúc trước, nhưng vẫn không nhìn lên mà chỉ tập tru ng vào công việc của mìn h ở bồn rửa bát. Lưng cô vẫn xoay v ề phía Grímur, hai bờ vai nhỏ bé nhô lên như th ể cô mu ốn trốn vào giữa chú ng.
Grímur thôi không cười n ữa.
“Mày gọi tao là thằng nói láo phải không?”
“Không,” cô nói, “nh ưng chuy ện đó khô ng đú ng. Đó chỉ là ch uy ện hiểu lầm th ôi.”
Grím u r đứng lên.
“Đó chỉ là chuyện hiểu lầm thôi,” h ắn nhại lại lời cô.
“Em biết thời gian người ta xây cái kho chứa ga mà. Em được sinh ra trước đó.”
“Tao lại không nghe thấy thế. Tao nghe nói là mẹ mày là một con điếm còn bố mày là m ột gã lang thang, bọn chúng đã vứt mày vào thùng rác sau khi đẻ ra mày.”
Lúc đó ngăn kéo đang mở, cô nhìn ch ằm ch ằm xuống đó và Símon thấy mẹ nó liếc nhìn con dao thái thịt to b ản. Cô nhìn Símon rồi lại nhìn xuống con dao, và đó là lần đầu tiên nó tin rằng m ẹ nó có kh ả năng sử dụng con dao đó.