Thời gian là câu trả lời tất cả
Các nhà kh ảo cổ lại tiếp tục cô ng việc kh ai qu ật vào sáng hôm sau sau khi tìm thấy các m ẩu x ương. Hai viên cản h sát tuần tra tối hôm trước đã chỉ cho họ ch ỗ Erlendur phát hiện ra bàn tay và Skarphédinn tức điên lên khi thấy Erlendur đã móc đất lên. Th ật là nh ững k ẻ nghiệp d ư ngu ngốc, ng ười ta nghe th ấy ông ta lầm bầm nh ư thế lúc chiều muộn. Đối với Skarphédinn, mỗi cu ộc khai qu ật là một nghi lễ long trọng tro ng đó đất ph ải được tách ra theo từng lớp, cho đến khi toàn bộ lịch sử của nh ững điều nằm bên dưới hiện ra ánh sáng và bí m ật được hé lộ ra. Mọi chi tiết đều quan trọng, mỗi nắm đất cũng có thể ch ứa đựng nh ững ch ứng cứ mang tính sống còn, và nh ững k ẻ kém hiểu biết rất có thể phá h ủy nh ững d ữ liệu quan trọng đó.
Ông ta thuy ết giảng toàn b ộ nh ững điều này cho Elínborg và Sigurdur Óli nghe, m ặc dù họ chẳng làm điều gì sai trái khi ra lệnh cho đội của mình. Công việc tiến hành rất chậm vì nh ững ph ương pháp khảo cổ tốn công này. Dây được ch ăng ra hết chiều dài và bề rộng của khu vực, đánh dấu thành các ô theo một hệ thống cụ th ể. Mối b ận tâm ch ủ yếu là ph ải giữ cho vị trí của bộ xương không di chuy ển tron g suốt qu á trình kh ai quật; họ phải ch ắc ch ắn rằng bàn tay đó không nhúc nhích ngay cả khi họ quét bụi đất khỏi nó, và ph ải xem xét cẩn thận từng cục đất nhỏ.
“T ại sao bàn tay đó lại nhô lên kh ỏi m ặt đất thế?” Elínborg hỏi Skarphédinn, cô ng ăn ông ta lại khi ông này đang b ăng qua.
“Không thể nói được,” Skarp hédin n đáp. “Trong trường hợp tồi tệ nhất, ng ười n ằm d ưới đó có thể vẫn còn sống khi anh ta bị phủ đất lên và cố gắng chống cự. Cố gắng đào đường thoát ra.”
“Còn sống!” Elínborg rên rỉ. “Đào đường thoát ra ư?”
“Điều đó ch ưa hẳn đã chính xác. Chúng ta không thể loại trừ khả năn g là bàn tay ở vị trí đó khi thi thể được đưa xuống đất. Bây giờ còn quá sớm để có th ể khẳng định điều gì.”
Sigurdur Óli và Elínborg rất ng ạc nhiên khi thấy Erlendur khô ng xu ất hiện tại cu ộc kh ai qu ật. Erlendur vẫn lập dị và kh ông thểđoán trước được nh ư th ường th ấy, họ cũng biết rằng ông rất quan tâm đến nh ững người bị m ất tích, tro ng cả quá khứ và hiện tại, và bộ xương nằm d ưới đất này có thể là chìa khóa giải quyết ột vụ m ất tích trước đây mà Erlendur rất để tâm khi đọc được từ một đống tài liệu khô kh an. Khi đã quá trưa, Elínborg gọi vào máy bàn ở nhà cũng nh ư di động cho ông, nhưng kh ông có k ết qu ả gì.
Khoảng hai giờ chiều, điện tho ại của Elínborg reo.
“Cô có ở đó ch ứ?” Một giọng trầm vang lên, và cô nh ận ra ng ười g ọi ngay lập tức.
“Ông đang ởđâu thế?”
“T ôi đang k ẹt. Cô có ở ch ỗ họđang khai qu ật không?”
“Có. “
“Cô có th ấy nh ững bụi cây không? Tôi nghĩ chúng là cây lý chua. Cách khu móng nhà kho ảng ba m ươi mét v ề ph ía đông, x ếp thành m ột hàng g ần nh ư th ẳng về phía nam.”
“Bụi cây lý chua ư?” Elínborg liếc m ắt nhìn quanh để tìm m ấy bụi cây. “Có,” cô đáp, “tôi thấy rồi. “
“Chúng được trồng cách đây lâu rồi.”
“Ph ải.”
“Kiểm tra xem tại sao. Xem có ai từng sống ởđó kh ông. Cô đi xuống Ủy ban Quy hoạch Đô thị và lấy cho tôi m ấy cái bản đồ về khu v ực này, kể cảảnh chụp trên không nếu có. Hãy tra cứu thêm sổ sách từ đầu thế kỷ cho đến ít nhất là năm 1960. Có thể là cả thời gian sau đó n ữa.”
“Ông nghĩ là trước đây từng có một ngôi nhà trên đồi n ày à?”
Elínborg nói và nhìn quanh. Cô không bu ồn che giấu sự ho ài nghi của mìn h.
“T ôi nghĩ là chúng ta ph ải làm rõ điều đó. Sigurdur Óli đang làm gì th ế?”
“Anh ta đang truy cập vào các dữ liệu v ề những ng ười bị m ất tích từ Th ế chiến thứ Hai, b ắt đầu từđó. Anh ta đang chờ ông đấy. Sigurdur Óli nói rằng ông thích nh ững chuy ện đại lo ại th ế.”
“Tôi vừa mới nói chuyện với Skarphédinn và ông ta nói rằng mình còn nhớởđây từng có một doanh trại, ở bên kia, chỗ dốc phía nam đèo Grafarholf, trong th ời chiến. Bây giờ ch ỗđó đã biến thành một sân golf.”
“M ột doanh trại ư?”
“M ột doanh trại của Anh hay Mỹ gì đó. Của quân đội. Ông ta khô ng nh ớ được tên. Cô cũng cần ph ải kiểm ch ứng lại thôn g tin đó nữa. Xem bên Anh có báo cáo về vụ lính m ất tích khỏi do anh trại nào không. Hay quân đội Mỹ có tiếp quản doanh trại đó khô ng.”
“Anh? M ỹ? Trong chiến tranh? Hượm đã n ào, tôi phải tìm nh ững thô ng tin đó ởđâu?” Elínborg hỏi đầy ngạc nhiên. “Khi nào ng ười Mỹ tiếp quản sau ng ười Anh ch ứ?”
“1 941. Đó có thể là một kho quân nhu. Dù thế nào, đó cũng là nh ững điều Skarphédinn nghĩ. Còn những ngôi nhà gỗ trên đồi và xung quanh đó nữa. Không biết có ng ười nào bị m ất tích m à liên qu an đến chúng không. Thậm chí chỉ là các câu chuy ện kể hay nh ững mối nghi v ấn. Chúng ta cần ph ải nói chu yện với chủ nh ân của nh ững ngôi nhà đó.”
“Có quá nhiều việc ph ải làm với m ấy mẩu x ương cũ rồi đây,” Elínbo rg nói m ột cách cáu kỉnh tron g khi đá vào những viên sỏi xung quanh móng nhà nơi cô đứng. “Ông đang làm cái gì thế?” sau đó cô hỏi, gần nh ư v ới vẻ cáo buộc.
“Cô không cần ph ải b ận tâm,” Erlendur nói rồi tắt máy.
Ông quay trở lại phò ng ch ăm sóc đặc biệt, m ặc một cái áo blu bằng giấy mỏng màu xanh lục, miệng bịt khẩu tran g. Ev a Lind đang nằm trên một chiếc giường lớn tro ng m ột phòn g đơn của khu điều trị. Ng ười con bé được nối với đủ loại máy móc thiết bị mà Erlendur ch ưa từng nhìn thấy bao giờ, m ột chiếc mặt n ạ oxy che kín m ặt và mũi nó. Ông đứng bên đầu giường, nhìn xuống con gái. Con ông đang trong cơn hôn mê, v ẫn ch ưa tỉnh lại. Trên m ặt nó có một v ẻ bình th ản ng ự trị mà trước đây ông ch ưa từng thấy. Một sự yên lặng xa lạ đối với ông. Khi con bé nằm nh ư thế, nh ững đường nét trên khuôn m ặt nó hiện ra rõ hơn, lông mày sắc hơn, da hai bên gò má kéo căng ra, còn đôi mắt thì chìm sâu vào hai h ốc.
Ông đã gọi xe cứu thương khi khô ng thể giúp Eva Lind tỉnh lại ở nơi nó nằm trước nhà hộ sinh cũ. Cảm thấy mạch đập nhè nh ẹ, ông khoác áo lên mình con, cố gắng giữ gìn cho con hết sức có th ể nh ưng vẫn không dám xê dịch nó. Điều tiếp theo mà ông biết là chiếc xe cứu thương xu ất hiện, vẫn là chiếc xe đã đến Tryggvagata, với cùng một ông bác sĩ. Họ nh ẹ nhàng chuy ển Eva Lind lên cáng và đẩy vào tron g xe, rồi cái xe lao vút đi trên đoạn đường ng ắn d ẫn đến b ệnh viện Tai n ạn và Cấp cứu.
Con bé được ph ẫu thuật ngay lập tức, ca ph ẫu thu ật gần như kéo dài suốt đêm hôm đó. Erlendur đi lại trong một phòn g chờ nhỏ đằng trước phò ng phẫu thu ật, tự hỏi khô ng biết có nên cho Halldóra biết khô ng. Ông ng ần ngại khi ph ải gọi điện cho vợ cũ. Cuối cùng ông cũng tìm ra được một giải pháp. Ông gọi Sin dri Snaer dậy, báo cho nó biết tin tức về chị nó và bảo nó báo ẹ nó biết để bà ấy vào viện thăm Eva Lind. Hai bố con họ trao đổi với nhau m ột vài câu. Sindri không có ý định trở về th ành phố s ớm, nó thấy khô ng cần thiết ph ải quay về chỉ vì Eva Lind. Rồi cu ộc nói chu yện k ết thú c.
Erlendur đốt hết điếu này đến điếu khác m ặc dù ngay bên trên có tấm biển đề “Nghiêm cấm hút thuốc lá”, ông cứ hút nh ư thế ch o đến khi có một bác sĩ ph ẫu thuật đeo khẩu tran g đi qua và quở trách ông vì đã vi phạm nội quy. Khi ông ta đi rồi, chu ông điện thoại của Erlendur ch ợt vang lên. Sindri gọi ch o ông để nói lại lời nhắn của Halldóra: “Tốt hơn là nên để Erlendur tự th ực hiện trách nhiệm của mình một lần đi. “
Sáng hôm sau, ông bác sĩ trưởng ca ph ẫu thu ật trao đổi với Erlendur. Chẩn đoán của họ về tình trạng sức khỏe con bé là khô ng được tốt lắm. Họ khô ng thể cứu được đứa bé trong bụng cô và ngay cả bản thân E va Lind cũng khó lòng qua khỏi. “Tình trạng của cô ấy rất xấu,” ông bác sĩ nói. Ông ta cao nh ưng gầy, kho ảng bốn mươi tu ổi.
“Tôi hiểu,” Erlen du r nói.
“T hiếu ăn kéo dài và lạm dụng ma túy. Đứa bé không có nhiều cơ hội được sinh ra khỏe mạnh nên… m ặc dù nói ra điều đó th ật độc ác nhưng …”
“Tôi hiểu mà,” Erlendur đáp.
“Cô ấy có bao giờ cân nh ắc đến ch uy ện phá thai không? Trong nh ững trường h ợp như thế này…”
“Con bé mu ốn sinh đứa trẻ,” Erlendur đáp. “Nó nghĩ rằng đứa trẻ sẽ có thể giúp nó, và tôi cũng động viên nó nữa. Con bé muốn dừng lại. Đó là m ột phần nhỏ bé trong co n người Eva Lind muốn thoát ra kh ỏi cái địa ng ục này. Một ph ần nhỏ bé đôi khi lộ ra và muốn từ bỏ tất cả. Nh ưng thông thường thì có m ột Eva ho àn toàn khác ng ự trị. Dữ tợn và nh ẫn tâm. Một Ev a nào đó luôn tìm cách tránh né tôi. Một Eva nào đó luôn đi tìm kiếm sự hủy ho ại này, địa ngục này.”
Nh ận ra là mình đang nói với m ột người đàn ông ho àn toàn không quen biết, Erlendur lại yên lặng.
“Tôi có th ể hiểu được nỗi khó khăn của các bậc cha m ẹ khi ph ải trải qua chuy ện này,” ông bác sĩ nói.
“Ch uy ện gì đã x ảy ra thế?”
“Placenta abruptio. M ột ch ứng xu ất huy ết ồạt bên tro ng, xảy ra khi nhau thai bị rách k ết hợp với nh ững tác nhân độc hại, chúng tôi vẫn đang ch ờ kết qu ả. Cô ấy mất qu á nhiều máu và chúng tôi vẫn ch ưa giúp cô ấy tỉnh lại được. Điều đó không có m ấy ý nghĩa trong hoàn cảnh này. Cô ấy th ực sự rất y ếu.”
Sau khi ng ừng lại m ột lát, ông bác sĩ tiếp tục, “Ông đã liên lạc với ng ười thân của mình chưa? Nh ư thế họ có th ể san sẻ với ông hay …”
“Ch ẳng có ai là ‘ng ười thân ’ của tôi cả”, Erlendur đáp. “Chúng tôi đã ly hôn rồi. M ẹ con bé và tôi ấy. Tôi đã báo cho bà ấy biết. Cả em trai của Eva nữa. Nó đang làm việc ở vùn g nông thôn. Tôi khô ng biết liệu m ẹ nó có đến đây không. Có v ẻ như bà ấy đã chịu đựn g quá đủ rồi. Cu ộc sống đã rất kh ắc nghiệt với bà ấy. Luôn luôn là nh ư v ậy. “
“Tôi hiểu.”
“Tôi không cho là thế,” Erlendur nói. “Đến bản th ân tôi còn khô ng hiểu được nữa là.”
Ông lấy hai túi nhựa nhỏ và một hộp thu ốc tro ng túi áo ra đưa cho bác sĩ.
“Con bé có thểđã d ùng th ứ này,” ông nói.
Ông bác sĩ cầm lấy nh ững viên thu ốc và n hìn chú ng.
“Ch ất kích thích à?”
“Trông giống th ế.”
“Đó là m ột cách giải thích. Ch ún g tôi nh ận dạng được m ột số ch ất trong máu cô ấy. “
Erlendur lưỡng lự. Tro ng một thoáng, cả ông và ông bác sĩ không nói gì với nhau.
“Ông có biết cha đứa bé là ai không?” ông bác sĩ tiếp tục.
“Khô ng. “
“Ông có nghĩ là cô ấy biết không?”
Erlendur nhìn ông ta và nhún vai b ất lực.
Sau đó họ lại yên lặng.
“Con bé sắp ch ết ph ải không?” Erlendur h ỏi sau m ột thoáng.
“Tôi không biết,” ông bác sĩđáp. “Chúng ta chỉ có th ể hy vọng vào điều tốt đẹp nh ất.”
Erlendur do dự khi đặt câu hỏi. Ông đã ph ải v ật lộn với nó, ghê sợ nó, mà không tìm ra được câu trả lời. Ông không dám ch ắc mình có muốn yêu cầu chuy ện đó h ay khô ng. Cu ối cùn g, ông làm tới.
“Tôi có thể thấy nó được không?”
“Nó ư? Ý ông là…?”
“Tôi có thể xem cái bào thai được không? Tôi có thể nhìn đứa bé được không?”
Ông bác sĩ nhìn Erlendur mà không hề mảy may tỏ ra ngạc nhiên, trên mặt ông chỉ tràn ng ập sự thông cảm. Ông g ật đầu và bảo Erlendur đi theo mìn h. Họđi dọc m ột hành lang dẫn vào một căn phò ng trống. Ông bác sĩ nh ấn nút và bóng đèn huỳnh qu ang trên trần nhà lập lòe một lúc trước khi b ừng lên thứ ánh sáng trắng tỏa kh ắp căn phòng. Ông ta b ước đến m ột cái bàn kim loại lạnh lẽo và nh ấc tấm v ải lên, để lộ raxác của một em bé.
Erlendur nhìn xu ống và vu ốt ngón tay dọc theo má đứa trẻ.
Đó là một bé gái.
“Con gái tôi sẽ qua cơn hôn mê ch ứ? Ông có th ể kh ẳng định với tôi điều đó không?”
“Tôi không biết,” ông bác sĩ nói. “Không thể nói ch ắc được. Tự b ản thân cô ấy sẽ phải v ượt qua. Nó phụ thu ộc rất nhiều vào cô ấy.”
“T ội ng hiệp con bé,” Erlendur nói.
“Ng ười ta nói rằng thời gian s ẽ ch ữa lành mọi v ết th ương,” ông bác sĩ nói khi ông th ấy Erlendur sắp không kiềm ch ế được mình. “Điều đó đúng cả v ới th ể xác và tinh th ần. “
“T hời gian,” Erlendur đáp trong lúc kéo cái mền phủ lên người đứa bé,”…chẳng chữa lành được vết thương nào cả.”