Chiến dịch trái tim

Mở đầu



Mãi cuối triều đại Nữ hoàng Victoria…

Bộ xương người nằm trên chiếc giường mạ vàng được chạm trổ tinh xảo đặt ngay chính giữa phòng luyện kim cổ xưa nay là hầm mộ của nhà giả kim.

Đống xương hai trăm năm tuổi vẫn còn được vấn trong mớ quần áo tơi tả chắc chắn từng có thời là những loại nhung gấm lụa là cao giá nhất. Bao tay và dép mềm được thêu viền chỉ vàng chỉ bạc bao lấy phần xương của hai bàn tay bàn chân, tạo nên vẻ ngoài rờn rợn của da của thịt.

“Tay thợ may của ông này hẳn là yêu ông ta lắm nhỉ,” Gabriel Jones lên tiếng.

“Cho dù có là một nhà giả kim thì khách hàng của anh ta vẫn được quyền có gu thời trang tinh tế chứ,” Caleb Jones nhận xét.

Gabriel liếc sang quần áo của cậu em họ rồi xem xét phục trang trên người mình. Quần âu và áo sơ mi vải lanh họ đang mặc phủ đầy bụi bẩn và cáu ghét nhưng cả quần áo lẫn đôi ủng của họ đều được làm thủ công, vừa vặn như in.

“Có vẻ như là nét biểu trưng của dòng họ nhỉ,” Gabriel bảo.

“Thêm một nét duyên cho huyền thoại dòng họ nhà Jones đây mà,” Caleb đồng tình.

Gabriel tiến đến gần giường và giơ đèn lên cao hơn. Dưới ánh sáng chập chờn, chàng có thể nhìn ra những ký hiệu giả kim thuật bí ẩn dành cho thủy ngân, bạc kim loại và vàng viền thành hoa văn trang trí trên vạt áo rộng của bộ xương khô. Những họa tiết tương tự cũng được chạm khắc trên đầu giường bằng gỗ.

Trên sàn nhà cạnh giường là một chiếc hòm sắt nặng trịch. Hai thế kỷ gỉ sét đóng thành lớp trên bốn thành hòm, trong khi nắp hòm được phủ một tấm kim loại gì đấy mỏng tang nhưng lại không bị ăn mòn. Vàng, Gabriel tự nhủ.

Chàng cúi xuống, dùng một mảnh khăn tay sạch tinh lau lớp bụi phủ trên nắp hòm. Ánh sáng phản chiếu lên họa tiết trang trí hình lá và vài ký tự Latin khó hiểu được khắc chìm bằng a xít vào trong tấm vàng mỏng.

“Thật đáng ngạc nhiên làm sao, cả hai trăm năm qua nơi này chưa từng được phát hiện hay bị cướp phá gì cả,” chàng nói. “Theo như người ta đồn đại, nhà giả kim này cũng có kha khá đối thủ và kẻ thù. Đấy là còn chưa kể đến những thành viên của Hội Arcane và người nhà Jones đã truy tìm nơi đây cả hàng bao thập kỷ nay rồi.”

“Nhà giả kim này đã nổi danh vì trí thông minh và tính bí hiểm cơ mà,” Caleb nhắc nhở chàng.

“Lại là một nét biểu trưng của dòng họ nữa.”

“Quả thế thật,” Caleb tán thành. Giọng anh rõ ràng mang hơi hướm tàn nhẫn.

Chàng và người em họ khác biệt nhau trong nhiều mặt, Gabriel nghĩ lại. Caleb thường thiên về suy tư nghiền ngẫm và chìm đắm vào trong những quãng im lặng triền miên. Cậu ta thích dành thời gian ở phòng luyện kim của mình trong cô độc. Không thừa hơi cho khách khứa đến tham quan thăm hỏi hay bất cứ ai khác trông chờ nhận được chút ít phép lịch sự và đôi ba thói xã giao từ mình.

Trong hai người thì Gabriel trước nay tính khí vẫn luôn cởi mở và ít thất thường hơn, nhưng dạo gần đây chàng tự thấy mình liên tục dai dẳng vùi mình trong thư viện riêng. Chàng biết rằng mình không chỉ đang tìm kiếm kiến thức mà còn cả thú tiêu khiển, có lẽ thậm chí là lối thoát, trong những nghiên cứu của mình.

Cả hai người đều đang trốn chạy, mỗi người một kiểu riêng, khỏi những khía cạnh chỉ có thể được xếp vào hạng không bình thường trong bản chất của chính họ. Gabriel thầm nghĩ. Chàng ngờ rằng dù họ đang lùng sục điều gì thì cả hai cũng sẽ chẳng thể tìm thấy nó ở trong phòng luyện kim hay trong thư viện.

Caleb săm soi một trong những quyển sách cổ. “Chúng ta cần được trợ giúp mới có thể chuyển những cổ vật này đi được.”

“Ta có thể thuê người trong làng,” Gabriel đáp.

Một cách máy móc, chàng bắt đầu vạch ra kế hoạch hành động để đóng kiện và chuyên chở mọi thứ đồ trong phòng luyện kim kiêm lăng mộ của nhà giả kim. Phác thảo kế hoạch hành động là việc chàng rất thạo. Không ít lần cha chàng từng bảo rằng khả năng hoạch định chiến lược của chàng có liên quan mật thiết đến năng lực tâm linh bất thường của chàng. Tuy nhiên, Gabriel lại thích nghĩ rằng khả năng đó của mình là sự biểu hiện của một phần bình thường trong chàng chứ chẳng phải siêu thường gì. Chàng khao khát muốn tin rằng mình thực sự là một người đàn ông hiện đại có lý trí logic, chứ không phải một thứ man di mọi rợ chưa kịp tiến hóa.

Gabriel gạt những suy nghĩ khó chịu ấy sang một bên để tập trung vào kế hoạch vận chuyển các cổ vật. Ngôi làng gần nhất cách đây cũng cả vài dặm. Ngôi làng bé xíu và chắc chắn tồn tại được qua bao thế kỷ nay nhờ vào việc chuyên chở hàng lậu. Đấy là một cộng đồng dân cư biết giữ bí mật, nhất là khi có dính dáng đến tiền. Hội Arcane thừa khả năng bỏ tiền ra mua lấy sự kín tiếng của cả ngôi làng này ấy chứ, Gabriel thầm nghĩ.

Khu vực hẻo lánh vùng duyên hải mà nhà giả kim đã chọn làm nơi đặt pháo đài luyện kim của ông ta cho đến tận ngày nay vẫn là một nơi hoang vắng. Hẳn hai trăm năm trước nơi đây còn hoang sơ và vắng lặng hơn nhiều, chàng tự nhủ. Phòng luyện kim kiêm lăng mộ này được xây cất ẩn mình trong lòng đất bên dưới những tàn tích của một tòa lâu đài cổ xưa đổ nát.

Mới lúc nãy khi chàng và Caleb rốt cuộc cũng mở được cửa vào phòng luyện kim thì một làn gió xú uế mang mùi tử khí đã ùa ra đón hai người. Cơn gió này khiến cả hai phải thối lui ra sau mà há hốc miệng ho sặc sụa.

Ngầm cùng nhau thỏa thuận, cả hai quyết định chờ cho đến khi không khí trong gian phòng được cơn gió hanh khô từ đại dương thổi vào làm thoáng đãng hơn rồi mới bước vào.

Vào được bên trong, họ phát hiện ra một căn phòng sắp xếp bàn ghế theo kiểu phòng nghiên cứu hàn lâm. Những bộ sách cổ bọc bìa da, gáy sách đã nứt nẻ sờn mòn, được sắp dọc dài trên kệ sách. Hai cây chân nến sẵn sàng đứng đó, chỉ đợi được găm nến vào và châm ngọn.

Các dụng cụ hai trăm năm tuổi đã được nhà giả kim sử dụng để theo đuổi các thí nghiệm của mình nằm ngăn nắp trên chiếc bàn thao tác dài. Những bình đựng bằng thủy tinh bị bụi bám ken dày. Các món đồ dùng bằng kim loại, mỏ đèn và ống thổi nghẹt cứng gỉ sét.

“Nếu trong này có thứ gì giá trị thì chắc chắn nó ở trong chiếc hòm kia thôi,” Caleb bảo. “Tôi không thấy chiếc chìa khóa nào cả. Chúng ta nên phá khóa ngay tại đây hay phải chờ cho đến khi ta mang nó trở lại trụ sở của Hội Arcane nhỉ?”

“Tốt hơn là chúng ta nên tìm hiểu xem mình đang xử lý thứ gì đây.” Gabriel đáp. Chàng ngồi thụp xuống bên cạnh chiếc hòm nặng nề để coi xét ổ khóa bằng sắt. “Nếu trong hòm này mà có cả một kho báu đầy vàng hay đá quý, thì nhất thiết ta phải bảo vệ những thứ bên trong cẩn trọng hơn trên chuyến trở vể.”

“Ta phải tìm dụng cụ để nạy mở nắp này ra.”

Gabriel nhìn sang bộ xương khô. Một vật bằng kim loại lấp ló dưới một bàn tay bọc trong găng.

“Tôi nghĩ tôi nhìn thấy chìa khóa rồi đây,” chàng bảo.

Chàng với tay xuống cẩn thận nhấc những ngón tay bọc găng lên để lấy chìa khóa ra. Có tiếng răng rắc khe khẽ. Bàn tay tách lìa khỏi cổ tay. Gabriel thấy mình đang cầm một chiếc găng tay đầy những mảnh xương.

“Quỷ thật,” Caleb lẩm bẩm. “Đúng là lạnh cả sống lưng. Tôi cứ tưởng loại chuyện này chỉ xảy ra trong mấy cuốn tiểu thuyết giật gân thôi chứ.”

“Chỉ là một bộ xương thôi mà,” Gabriel vừa bảo vừa đặt chiếc găng tay cùng những thứ chết chóc trong ấy xuống chiếc giường cổ. “Một bộ xương hai trăm năm tuổi.”

“À, nhưng tình cờ đây lại là bộ xương của ngài Sylvester Jones, nhà giả kim, tổ tiên của dòng họ chúng ta đồng thời là người sáng lập nên Hội Arcane,” Caleb than. “Theo như đồn đại thì người đàn ông này vừa giảo hoạt vừa nguy hiểm. Biết đâu ông ta lại không muốn phòng luyện kim của mình bị phát hiện ra sau từng ấy năm.”

Gabriel lại thụp xuống bên cạnh chiếc hòm sắt. “Nếu coi trọng sự riêng tư của mình đến thế thì lẽ ra ông ta không nên để lại manh mối dẫn đến chỗ này trong hàng loạt thư từ viết trước khi chết chứ.”

Những bức thư ấy đã nằm mục ruỗng ra trong kho lưu trữ văn kiện của Hội cho đến khi chàng tìm thấy chúng mấy tháng trước và giải được những mã riêng của nhà giả kim.

Chàng tra thử chiếc chìa vào ổ khóa và biết ngay là sẽ chẳng có tác dụng gì.

“Gỉ sét quá rồi,” chàng thông báo. “Đem dụng cụ lại đây nào.”

Mười phút sau, cùng nhau hiệp sức, hai người họ đã cạy mở được hòm. Cái nắp chần chừ nâng lên. Tiếng bản lề kẽo kẹt rên rỉ. Nhưng chẳng có vụ nổ nào, chẳng có lửa phụt ra hay bất cứ điều ngạc nhiên đáng sợ nào khác.

Gabriel và Caleb nhìn vào trong hòm.

“Vậy là đi tong cái ý nghĩ tìm được một kho vàng bạc đá quý rồi nhé,” Caleb lên tiếng.

“Cũng may là chúng ta không tiến hành chuyến thám hiểm này với hy vọng tìm được kho báu,” Gabriel tán đồng.

Vật duy nhất chứa trong chiếc hòm sắt là một cuốn sổ ghi chép nho nhỏ bìa da.

Chàng nhặt cuốn sổ lên và hết sức thận trọng mở ra. “Có lẽ trong này sẽ chứa phương thuốc mà nhà giả kim đã ám chỉ trong các văn bản và thư từ của mình. Hẳn là ông ta coi cuốn sổ này quan trọng hơn hẳn vàng bạc và đá quý.”

Những trang giấy ố vàng chi chít nét chữ viết tay ngay ngắn của nhà giả kim, tất cả đều bằng tiếng Latin khó hiểu.

Caleb rướn người tới trước để nhìn kỹ hơn mớ chữ cái, con số và ký hiệu dường như là vô nghĩa phủ đầy trên trang đầu tiên.

“Lại được viết bằng một loại mã riêng chết tiệt khác của ông ta rồi,” Caleb vừa nói vừa lắc đầu.

Gabriel lật qua một trang, “Tình yêu dành cho điều bí ẩn và các mật mã là một truyền thống mà những thành viên của Hội Arcane đã hăng hái duy trì trong suốt hai thế kỷ qua.”

“Cả đời này tôi chưa từng gặp đám người nào lập dị như những thành viên của Hội Arcane, vừa mê muội vừa thích sống ẩn dật.”

Gabriel cẩn thận gấp sổ lại và nhìn vào mắt Caleb, “Có những người sẽ bảo rằng cậu và tôi cũng lập dị không kém nếu không muốn nói là kỳ quặc hơn bất cứ người nào trong Hội đấy.”

Lập dị chắc chắn không phải là từ chính xác để mô tả chúng ta đâu.” Quai hàm Caleb nghiến lại. “Nhưng rồi tôi sẽ chóng tìm ra từ nào đó thích hợp hơn thôi mà.”

Gabriel không bàn cãi gì. Thời trẻ họ từng say sưa với thói lập dị của chính mình, coi tính nhạy cảm cá biệt của mình là điều rất đỗi bình thường. Nhưng sự trưởng thành và chín chắn đã khiến họ có cái nhìn khác, thận trọng hơn nhiều.

Giờ đây, còn khó sống hơn, Gabriel thầm nghĩ, chàng thấy mình lại phải đối phó với một người cha có suy nghĩ cấp tiến đang ngày càng nhiệt tình ủng hộ cho các học thuyết của Darwin. Ông Hippolyte Jones dứt khoát muốn người thừa kế của mình kết hôn càng nhanh càng tốt. Gabriel biết chắc cha mình đang âm thầm muốn khám phá xem liệu khả năng siêu linh bất thường mà con trai ông đang sở hữu có mang tính di truyền hay không.

Còn lâu chàng mới để cho mình bị ép phải dự phần vào công cuộc thí nghiệm của phép tiến hóa, Gabriel thầm nghĩ. Nói đến việc tìm vợ thì chàng thích tự mình tiến hành cuộc săn hơn.

Chàng nhìn sang Caleb. “Có khi nào cậu thấy rằng chúng ta là thành viên của một hội rặt những kẻ lập dị sống ẩn dật thích giấu giếm và luôn bị ám ảnh bởi những điều bí ẩn và lạ kỳ không?”

“Nào phải lỗi của chúng ta cơ chứ,” Caleb thốt lên, khom người xuống săm soi một trong những dụng cụ xưa cổ đặt trên bàn thao tác. “Khi chúng ta chấp nhận vào hội, ấy là chúng ta chỉ thực hiện nghĩa vụ làm con mà thôi. Anh cũng như tôi đều biết rõ, mấy ông già của chúng ta hẳn sẽ rất phẫn nộ nếu chúng ta không chịu tham gia cái hội quý báu của hai ông ấy. Vả lại, anh thì có gì mà phải phàn nàn cơ chứ. Chính anh đã thuyết phục tôi đồng ý tham gia từ đầu đến cuối cái nghi lễ quỷ quái ấy cơ mà.”

Gabriel liếc xuống chiếc nhẫn mã não màu vàng đen trên tay phải mình. Mặt nhẫn được khắc nổi ký hiệu của lửa trong thuật giả kim.

“Tôi biết rõ lắm chứ,” chàng bảo.

Caleb thở hắt ra. “Tôi nhận thấy hồi ấy anh đã phải chịu áp lực rất lớn phải gia nhập hội.”

“Phải.” Gabriel đậy nắp hòm nặng nề lại và nghiên cứu những con chữ bí ẩn được khắc chìm vào trong lớp vàng. “Hiển nhiên tôi hy vọng đây không phải là một câu trù yếm nào của thuật giả kim. Kẻ nào to gan mở chiếc hòm này ra sẽ phải hứng lấy một cái chết kinh hoàng ngay khi mặt trời ló dạng, hay là đại loại thế.”

“Chắc chắn đây là một lời nguyền hay cảnh báo gì đấy rồi.” Caleb nhún vai. “Những nhà giả kim thời xưa nổi tiếng về những chuyện này lắm. Nhưng anh và tôi là con người thời hiện đại, phải không nào? Chúng ta đâu có tin vào những điều nhảm nhí như thế.”

***

Người đầu tiên bỏ mạng chỉ ba ngày sau đó.

Tên hắn là Riggs. Hắn là một trong những người làng mà Gabriel và Caleb đã mướn để thu gom cổ vật trong khu mộ của nhà giả kim và bảo đảm cho những kiện hàng được an toàn chất lên toa xe vận chuyển.

Xác chết được phát hiện trong một con hẻm cũ gần bến tàu. Riggs bị đâm hai nhát. Nhát đầu tiên xuyên qua ngực. Nhát thứ hai cứa đứt cổ. Một lượng máu lớn đọng thành vũng khô quánh lại trên mặt đá cũ. Hắn ta bị giết chết bằng chính con dao của mình. Con dao nằm bên cạnh xác, lưỡi dao đọng vệt máu khô đen.

“Theo tôi biết, Riggs là kẻ không gia đình chỉ thích nhậu nhẹt, chơi gái và mắc mớ vào những cuộc ẩu đả trong quán rượu,” Caleb thông báo. “Theo lời dân địa phương thì Riggs chẳng chóng thì chầy rồi sẽ gặp kết cục đen đủi mà thôi. Người ta cho là rốt cuộc hắn đã vướng vào một trận ẩu đả mà đối thủ của hắn hoặc nhanh nhẹn hoặc là may mắn hơn.”

Anh nhìn sang Gabriel; vẫn đang chờ đợi mà chẳng nói năng gì.

Chấp nhận chuyện có muốn tránh cũng không được, Gabriel ngồi xổm xuống bên cạnh xác chết. Chàng ngần ngại nắm đằng chuôi nhặt con dao lên, tập trung chú ý vào món hung khí giết người và chuẩn bị tinh thần đón nhận cơn chấn động từ nhận thức lạnh băng mà chàng biết rõ hẳn đang đón chờ mình.

Trên chuôi dao vẫn còn sót lại luồng năng lượng mạnh mẽ. Dù gì thì vụ sát hại mới chỉ xảy ra cách đấy vài giờ. Những cảm giác bạo liệt vẫn còn bám lấy lưỡi dao, đủ mạnh để khơi nguồn cho một luồng chấn động đen tối tận thẳm sâu trong chàng.

Mọi giác quan của chàng nhạy bén hẳn ra. Như thể chàng đột nhiên trở nên cảnh giác hơn theo một kiểu siêu hình mơ hồ nào đó. Phần đáng ngại là khát khao săn mồi mãnh liệt đã làm máu chàng sôi sục.

Gabriel vội thả tay ra, con dao rơi loảng xoảng xuống nền đá, chàng đứng dậy.

Caleb chăm chú quan sát chàng. “Sao hả?”

“Riggs không phải bị giết bởi một kẻ xa lạ đang trong cơn nóng giận hay hoảng loạn đột ngột,” Gabriel bảo. Chàng lơ đễnh co bàn tay vừa nắm lấy con dao lại thành nắm đấm. Đây là một cử chỉ vô thức, một cố gắng vô ích để trút bỏ dấu vết tội ác còn vương lại lẫn thôi thúc săn lùng đang vây lấy chàng. “Kẻ gặp hắn trong con hẻm này, dù là ai, đã đến đây với ý định dứt khoát là phải giết hắn. Đúng là máu lạnh.”

“Có lẽ là một anh chồng bị cắm sừng hay một kẻ thù xa xưa nào đấy.”

“Chắc đây là lời giải thích khả dĩ nhất.” Gabriel đồng ý. Nhưng chàng có thể cảm thấy được những mũi châm nhận thức đang làm cho tóc gáy mình dựng đứng cả lên. Cái chết này không phải là một sự kiện lẻ loi. “Căn cứ vào tiếng tăm của Riggs, chắc chắn chính quyền địa phương sẽ kết luận là vậy. Tuy nhiên, tôi lại nghĩ chúng ta nên kiểm qua ruột các kiện hàng.”

Caleb nhướng mày. “Anh tin là có lẽ Riggs đã đánh cắp một trong những món đồ khảo cổ và cố bán nó cho kẻ đã sát hại hắn sao?”

“Chắc là vậy.”

“Tôi cứ tưởng chúng ta đã đồng ý rằng trong phòng luyện kim của nhà giả kim ấy chẳng có thứ gì đáng tiền lắm, nói gì đến đáng một mạng người chứ.”

“Thôi ta hãy đi báo cho các nhà chức trách rồi mở xem các kiện hàng nào.” Gabriel lặng lẽ bảo.

Chàng quay mình vội vã rảo bước về phía đầu hẻm, lòng những muốn hết sức gia tăng khoảng cách giữa mình và nơi mang dấu vết bạo lực kia. Lòng khát khao được săn lùng vẫn nằm trong tầm kiểm soát nhưng chàng đã có thể cảm nhận được nó đang thì thào nham hiểm, hối thúc chàng mở lòng đón nhận mặt tính cách kia của chàng, cái phần mà chàng e sợ rằng chẳng có chút nào văn minh hiện đại cả.

***

Phải mất một hồi lâu để kiểm kê hết các cổ vật đã được gói ghém cẩn thận và chuẩn bị được chuyển đi dựa vào danh sách những cổ tác mà Gabriel và Caleb lập ra. Rốt cuộc chỉ thiếu mất một món.

“Hắn ta đã cuỗm cuốn sổ chết tiệt ấy rồi,” Caleb ghê tởm buột miệng.

“Giải trình việc thất thoát này cho hai ông bố của chúng ta chẳng dễ chịu chút nào đâu, chứ đừng nói gì đến việc giải trình cho Hội đồng Trị sự.”

Gabriel đăm chiêu nhìn chiếc hòm rỗng không. “Chúng ta đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho hắn vì chúng ta cạy mở nắp hòm lên sẵn rồi. Hắn chẳng phải nhọc công gì để thó được cuốn sổ. Nhưng kẻ nào lại muốn có được cuốn sổ ấy kia chứ? Chẳng qua đấy chỉ là một cố bút uyên thâm thú vị chép đầy những lời lan man ngơ ngẩn của một tay giả kim già nua điên loạn thôi mà. Vật ấy chỉ mang ý nghĩa lịch sử đối với những thành viên của Hội Arcane mà thôi, mà có là thế cũng chỉ vì Sylvester là người sáng lập ra Hội.”

Caleb lắc đầu. “Dường như vẫn còn có kẻ tin rằng phương thuốc ấy sẽ có tác dụng thật. Kẻ sẵn lòng ra tay giết người để đoạt cho được phương thuốc ấy.”

“À, có một điều quá rõ rồi đây. Chúng ta vừa mới chứng kiến sự khởi đầu của một phần bổ sung mới mẻ vào những huyền thoại của Hội Arcane.”

Caleb cau mày. “Lời nguyền của Sylvester – nhà giả kim chăng?”

“Nghe cũng kêu đấy chứ.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.