Cô Gái Thứ Ba
Chương 11
Bà Oliver, ngồi trong xe buýt, tỏ vẻ rất hài lòng, mặc dù có phần thở dốc, chơi cái trò người theo dõi lành nghề đang để mắt tới con mồi của mình. Người này, trong trí óc của bà, bà đặt tên hắn là Con Công, đã tỏ ra là một người đi bộ giỏi hơn bà. Bà đã đi theo hắn, cách xa hai mươi bước chân, trên các bến cảng, dọc theo sông Tamise, bà đã đi lên tàu điện ngầm sau hắn từ Charing Cross. Họ cùng xuống tại Sloana Square để đi xe buýt.
Tới World’s End, người con trai, vẫn có bà Oliver lẽo đẽo sau lưng, đã xuống đi bộ. Hắn lao mình vào một mê lộ của các con đường nhỏ, ra King’s Cross và con sông. Hắn đi qua một miếng đất xem như một nơi xây dựng và bà Oliver đã kịp thời núp sau một cánh cổng ra vào để hắn đi xa hơn, bỗng nhiên bà nhận thấy đã mất dấu vết của hắn. Bà đi lang thang trong một ngõ hẻm nhỏ, có những bức tường đã lở vữa và lọt ra những con hẻm khác cũng vô danh như vậy mà bà đã đi một cách vô vọng. Bị mất hoàn toàn phương hướng, bà đi vòng tròn để cuối cùng rơi trở lại đúng cái nơi đã xuất phát. Sau lưng bà, một giọng nói khiến bà giật thót mình, đã nổi lên nhẹ nhàng:
– Tôi hy vọng là mình đã không đi quá nhanh đối với bà chứ?
Bà quay đầu lại và bỗng nhiên; cái điều cho tới nay chỉ là một trò chơi, một cuộc săn bắt được tiến hành một cách nhẹ nhàng bỗng trở nên một nỗi sợ. Phía sau cái giọng khôi hài kia, bà Oliver nhận thức có một cơn phẫn nộ được kiềm hãm, và bà nhớ lại tất cả các điều bà đã đọc trên các tờ nhật báo về những người lớn tuổi đã bị bọn du côn độc ác trẻ tuổi lòng đầy hận thù và thích thú gây điều xấu, tấn công. Bà không nghi ngờ gì về tính cách của người con trai mà bà đã theo dõi một cách kiên trì này. Biết rằng bà đi theo đuổi y, y đã tìm cách thoát ra để trở lại là người đi theo đuổi bà. Bây giờ, hắn đã chận đường đi của bà. Ở Luân Đôn này, thật là nhàm chán nếu người ta bỗng chốc bị chìm đắm trong đám đông, để rồi, một giây phút sau lại đi tới những con đường nhỏ vắng tanh. Có thể là một con đường huyết mạch gần đây đang tấp nập, đầy người trong những ngôi nhà kế cận, nhưng, trên một mảnh đất hoang vắng này, chỉ có cái bóng dáng đầy hăm dọa của hắn với đôi bàn tay to lớn, mạnh mẽ và đầy bạo lực. Bỗng nhiên, bà Oliver có cảm tưởng chắc chắn rằng lúc này, hắn đang tính tới việc sử dụng chúng. Con Công. Một Con Công hãnh diện về áo quần sặc sỡ của hắn, đang có cái giọng nói làm ra vẻ bình tĩnh, châm biếm nhưng mới đáng làm sao!
Bà Oliver hít thở sâu ba lần. Trong một loáng sáng suốt, bà hình dung ra một kế hoạch tự vệ. Bà bắt đầu bằng việc ngồi xuống một cái thùng đựng rác đặt áp sát vào tường, sau đó, bà tuyên bố bằng một giọng đầy kịch tính:
– Trời! Anh làm tôi sợ hãi làm sao! Tôi không ngờ rằng anh lại có mặt ở đây. Tôi hy vọng rằng anh không giận chớ?
– Vậy là bà đã đi theo tôi?
– Tôi không nghĩ rằng điều đó đã làm anh phật ý. Tôi nghĩ rằng đó là một dịp rất tốt đẹp. Anh chớ nên lấy làm phiền, tôi cam đoan với anh là… Nói tóm lại, không có gì quan trọng… Tôi phải nói với anh rõ là tôi viết sách trinh thám – bà ngồi ngay ngắn hơn trên cái ngai tạm bợ của bà – và sáng nay, tôi có một vấn đề cần được giải quyết. Vậy là tôi đã đi vào một tiệm cà phê để suy nghĩ về kỹ thuật mà nhân vật của tôi cần phải áp dụng để đi theo dõi một người nào đó. Tôi nhận thấy rằng mình chưa biết gì về món này. Tôi luôn luôn căn cứ vào những điều mà những tác giả khác đã viết trước tôi. Một số đã đề cập tới vấn đề, nhận thấy nó rất giản đơn, những người khác thì lại cho rằng tình hình hoàn toàn ngược lại, rằng người ta thực sự là khó lòng đi theo đuôi một người. Vì vậy, tôi tự nhủ: “Tại sao mình không thử làm xem sao?” Tôi có thể tự mình phân tích được những cảm nghĩ mà người ta có trong một tình huống như vậy. Tôi ngước mắt lên và đã để ý tới anh, ngồi cách tôi không xa, và tôi đã nghĩ đến… tôi hy vọng rằng anh sẽ không giận dữ… rằng anh sẽ là một nhân vật lý tưởng để tôi theo dõi.
Hắn vẫn xem xét bà với cặp mắt có màu xanh ánh thép và bỗng nhiên, bà Oliver có cảm giác là ánh nguy hiểm đã tắt.
– Vì sao bà lại nghĩ rằng tôi là một nhân vật lý tưởng để theo dõi?
– Quả vậy, anh đã có một dáng vẻ rất đặc biệt! Quần áo thì rất đẹp… gần kiểu Régence. Đó là cái điều khiến tôi nghĩ rằng rất dễ phân biệt anh với những người bộ hành khác. Vậy đó, khi anh đi khỏi tiệm cà phê, tôi đi ra ngay lập tức để theo anh. Bây giờ, tôi có thể thú nhận là theo đuôi thật không dễ dàng chút nào. Anh có phiền nếu cho tôi biết là anh đã để ý tới tôi ngay từ đầu không?
– Không, không phải ngay từ đầu.
– Đúng là tôi ít lộ mình bằng anh. Anh không để ý tới tôi nếu tôi đã có mặt trong một nhóm người có tuổi. Phải vậy không?
– Các sách của bà đã được xuất bản chưa? Tôi có thể đọc chúng được không?
– Tôi không biết rõ. Có khả năng. Tới giờ, tôi đã viết bốn mươi ba cuốn rồi. Tên tôi là Oliver.
– Ariane Oliver?
– Vậy là anh đã biết tới tên tôi? Tất nhiên điều này rất đáng cho tôi hãnh diện, theo ý tôi, các tiểu thuyết của tôi chắc không hợp “gu” của anh lắm. Không có nhiều bạo lực.
– Bà không biết tôi trước đây?
– Không. Tất nhiên là không rồi.
– Và còn người con gái đã ngồi với tôi trong tiệm cà phê?
– Anh muốn nói tới cái cô gái đã ăn hạt đậu với cà tô mát cùng ngồi với anh? Không, tôi nghĩ rằng không. Quả là tôi chỉ nhìn thấy cái gáy của cô ta mà thôi. Cô ta giống như… thực tình, tôi thấy những cô con gái giờ đây đều rất giống nhau. Anh có nhận thấy như vậy không?
– Cô ấy biết bà, hắn nói bỗng nhiên giọng trở nên cứng rắn. Cô ấy cho tôi biết là đã gặp bà cách đây không lâu. Nhiều lắm là một tuần lễ, không hơn.
– Ở đâu? Trong một tiệm cốc-tây chăng? Cô ấy tên gì nhỉ?
Hắn tỏ vẻ do dự, rồi quyết định theo dõi sự phản ứng trên nét mặt bà:
– Norma Restarick.
– Norma Restarick. Ồ! Phải rồi! Đó là trong một phiên họp mặt ở nông thôn, tại một nơi tên… Long Norton, hình như thế. Tôi đã quên mất tên ngôi nhà rồi. Tôi đã tới đó với những người bạn. Dù sao, tôi không nghĩ rằng mình đã nhìn ra cô ấy, mặc dù hình như tôi có nhớ là cô ấy đã nói điều gì đó về các sách của tôi. Tôi đã có hứa sẽ gởi cho cô ấy một cuốn. Lạ lùng phải không, là ngẫu nhiên tôi đã quyết định đi theo một người đã ngồi với một cô con gái mà tôi đã quen ít nhiều? Tôi không nghĩ rằng mình có thể sử dụng các chi tiết này trong một cuốn tiểu thuyết của tôi. Điều đó có vẻ là một sự tình cờ lộ liễu quá phải không anh? Bà đứng dậy. Trời ơi! Tôi đã ngồi lên cái gì vậy? Một thùng đựng rác? Chúng ta đang ở đâu đây?
David nhìn bà. Đột nhiên bà có cảm giác mình sẽ hoàn toàn nghĩ sai về anh ta. “Vô lý về phần mình”, bà nghĩ. “Mình sẽ tưởng tượng ra gì nữa, khi đánh giá anh chàng này là một người nguy hiểm?”
Hắn có một nụ cười dễ mến và khi quay nhẹ đầu, các lọn tóc của hắn như múa lên trên đôi vai.
“Những chàng thanh niên hiện đại này đều là những con người kỳ dị làm sao”, bà văn sĩ tự nhủ.
– Điều tối thiểu mà tôi có thể làm là – hắn báo cho bà biết bà đã bị dẫn tới đâu. Mời bà lại đây. Chúng ta hãy leo lên những bậc thang gác này.
Hắn chỉ tay về phía một cái thang lầu phía bên ngoài nhà, có vẻ không mấy chắc chắn và hình như dẫn tới cái phòng sát mái nhà.
– Những bậc thang này à?
Bà Oliver ngập ngừng, lo ngại rằng hắn tìm dụ bà lên trên đó để hạ sát. “Này, Ariane”, bà lẩm bẩm “Mi đã đi tới tận đây. Vậy sẽ chẳng ích lợi gì nếu giờ mi lại lui trước khi đã tới đích”.
– Anh có cho là chúng chịu được sức nặng của tôi hay không? Bà nói tiếp.
– Chúng chắc hơn vẻ bề ngoài của chúng. Tôi sẽ lên trước và chỉ đường cho bà.
Bà Oliver đi theo hắn, nhưng trong thâm tâm bà lại lo sợ.
Chàng trai đẩy một cánh cửa ra vào và bà văn sĩ nhận thấy một căn phòng dài, không có trang trí gì, một loại xưởng vẽ của họa sĩ ngẫu hứng. Vài tấm nệm đặt ngay trên mặt đất, những bức tranh vẽ chất đống dựa vào tường ở phía cuối, hai cái giá vẽ và một mùi nồng nặc sơn vẽ. Hai người đã ở trong phòng. Một chàng trai trẻ đầy râu, đang bận vẽ, quay lưng về hướng họ vừa vào.
– Hê lô! David! Cậu đem khách tới đó à?
Bà Oliver tự nhủ anh chàng này là một người ở dơ nhất mà bà được thấy. Mái tóc cáu ghét bao quanh cái đầu, che lấp mất đôi mắt. Bộ mặt của chàng ta chắc rất ít khi được giao cho người thợ cạo râu trông nom và quần áo thì ăn khớp với vẻ mặt của chàng.
Bà văn sĩ để ý tiếp tới người phụ nữ đang ngồi, ở tuyến thứ nhì. Cô ta ngồi trên một cái bục, làm ra vẻ uể oải, mái tóc dài rủ xuống đôi vai. Bà Olirer nhận ra ngay cô nàng: Frances, người thứ nhì trong ba người con gái trẻ thuê nhà ở Borodene Mansions.
– Xin bà hãy làm quen với Peter, David nói, một tài năng để râu của chúng tôi. Và còn đây là Frances, đang ngồi làm mẫu một cô gái tuyệt vọng.
– Hãy câm miệng lại, thằng ngốc, Peter lầu bầu.
– Tôi nghĩ rằng tôi đã biết cô ấy, bà Oliver phát biểu có tính toán khi quay mình về cô gái. Tôi có cảm giác là đã gặp cô ở nơi nào đó, cách đây không lâu.
– Bà là bà Oliver, phải không?
– Đó là điều mà bà ta khẳng định với tôi. David nói.
– Có thể tại một nơi nào nhỉ? Bà Oliver tiếp tục. Trong một buổi tối chăng? Không… A, tôi nhớ ra rồi! Ở Borodene Mansions!
Frances đứng thẳng dậy, khiến cho Peters hét lên một cách tuyệt vọng.
– Cô đã làm mất tư thế ngồi rồi! Cô thấy cần uốn éo như vậy sao?
– Tôi hết chịu nổi rồi, cô gái đáp giọng nói kéo dài mặc dù rất trong trẻo. Vai tôi sưng đỏ lên rồi.
– Tôi vừa thí nghiệm đi theo một người tình nghi tưởng tượng, bà Oliver giải thích. Thật là khó khăn nhiều hơn là tôi đã hình dung lúc ban đầu. Đây là một xưởng vẽ của họa sĩ thực à? Bà nói thêm, ngắm nhìn quanh mình một cách hứng thú.
– Trong thời này, những xưởng vẽ đều như vậy đó. Peter trả lời. Một loại phòng sát mái nhà và chúng tôi phải tự thấy mình còn có nhiều hạnh phúc nếu chưa bị lọt xuống vì sàn nhà thủng.
– Đâu đến nổi! Ở đây có đầy đủ tiện nghi. David reo lên. Ánh sáng tới từ hướng bắc, chúng tôi lại có rất nhiều chỗ trống, một cái giường tồi tàn để ngủ, đi vệ sinh cùng chỗ với bốn gia đình bên dưới và chúng tôi có thê nấu ăn được nữa. Chúng tôi còn dự trữ một hay hai chai. Bà cho phép tôi phục vụ bà một chút gì để uống nhé!
– Tôi không uống.
– Quí bà không uống! Ai tin được nào?
– Anh hơi thô lỗ nhưng vẫn có lý. Phần lớn thiên hạ tới gặp tôi đều nhận xét, với nhiều hay ít nét cộc cằn: “Tôi cứ tưởng là bà uống như một hũ chìm.”
Bà mở cái túi xách và ba lọn tóc rơi xuống đất. David lượm chúng và trao cho bà.
– Ồ! Cám ơn. Sáng nay, tôi đã không có thì giờ. Tôi tự hỏi không biết mình có đủ đinh ghim không…
Peter cười rũ ra.
“Mình mới ngu ngốc làm sao khi nghĩ rằng mình đang gặp nguy hiểm”, bà nữ văn sĩ nghĩ thầm. “Bất kể loại gì mà các thanh niên này tự gán cho mình, họ đều dễ thương và đáng mến. Điều nhận xét và người ta lập đi lập lại với mình rất đúng, mình giàu óc tưởng tượng quá.”
Đã tới lúc bà tuyên bố mình phải rời nơi này, và David với dáng vẻ lịch sự cổ truyền của nước Anh, đã giúp bà đi xuống cái thang lầu mỏng manh và chỉ dẫn bà thật đầy đủ cách thức đi tới King’s Road, một cách mau lẹ nhất.
– Tới đó, bà có thể đi xe buýt hay xe tắc xi.
– Một xe tắc xi. Tôi không đứng nổi trên đôi chân của mình được nữa. Cám ơn anh đã không phìền lòng về sự theo dõi của tôi. Tôi không nghĩ rằng những nhà thám tử tư giống một người đàn bà như tôi.
– Có lẽ không, chàng trai nghiêm chỉnh đáp.
Bà không sao giải thích được cái cảm giác khó chịu mà bà đã có trong ít lâu trước đây, nay lại tràn ngập trong người bà khi bà đi qua mảnh đất trống trơn này. Bà quay đầu lại, David vẫn còn đứng tại các nấc thang, nhìn bà đi xa.
“Ba người thanh niên hoàn toàn dễ thương… và rất tốt. Sang trái, rồi sang phải… Bởi vì họ có cá tính riêng nên người ta đã tưởng tượng ra nhiều điều kỳ quặc về họ… Mình có phải quay sang phải nữa hay không? Không, bên trái… Ô! Hai cái chân của tôi! Và trời lại sắp sửa mưa!”
Cuộc đi bộ dường như dài vô tận và King’s Road xem ra xa kinh khủng. Bà chỉ nghe tiếng xe chạy từ nơi xa xăm. Cái sông nằm ở chỗ quái nào? Và bắt đầu lo mình đã làm sai những điều hướng dẫn của chàng trai rồi.
“Trời, mình sẽ phải đi tới một nơi nào đó… dù là cái sông, hay Putney hay Wandsworth!”
Bà hỏi đường nơi một khách bộ hành đơn độc. Bằng dấu hiệu người này tỏ ý mình là một người lạ, không biết đường.
Bà Oliver đi vào một con đường khác và trông thấy sông Tamise. Sung sướng, bà đi vào một con hẻm hẹp để tới đó mau hơn và bỗng nhiên, một tiếng chân ở phía sau lưng đã khiến bà quay nửa sau lại. Muộn quá rồi. Màn sương mù dày đặc đã phủ lên cặp mắt của bà.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.