Nàng cần tiền. Grace nhìn xuyên qua đêm mưa vào cây ATM; nó được thắp sáng như một điện thờ, mời gọi nàng vượt qua con phố và thực hiện nghi lễ điện tử của nó. Nhiều lắm nó cũng chỉ cách nàng ba mươi yard.(gần 30m) Nàng sẽ chỉ mất vài phút là tới được chỗ nó, ấn những con số cần thiết, và nàng sẽ có tiền mặt trong tay.
Nàng cần phải rút hết tài khoản séc, có lẽ một cây ATM thôi thì không đủ tiền để cho nàng rút từng ấy, có nghĩa là nàng sẽ phải tìm một cây ATM khác, và một cây khác, và mỗi lần nàng làm thế thì khả năng bị nhận dạng – cũng như khả năng bị trấn lột – sẽ tăng lên.
Các máy camera ở cây ATM sẽ ghi hình nàng, và cảnh sát sẽ biết nàng đã ở đâu, vào lúc nào. Một hình ảnh của Ford đột ngột đập vào tâm trí nàng, một lần nữa làm nàng tê liệt vì nỗi đau xé toạc tâm can. Chúa ơi. Ôi Chúa ơi. Tiếng kêu không giống người, không tự nguyện lại dâng lên trong cổ họng nàng một lần nữa, va đập kì cục vào hai hàm răng nghiến chặt của nàng. Âm thanh bị thoát ra ngoài khiến một con mèo đang lảng vảng gần đó đông cứng với một bàn chân giơ lên, lông dựng đứng. Rồi con vật quay người và lủi đi và biến mất vào trong màn mưa tối đen, tránh xa khỏi sinh vật lẩn khuất đã phát ra cái âm thanh ma quái, đau thương như thế.
Grace đu đưa người trước sau, đẩy nỗi đau vào sâu bên trong, buộc mình phải suy nghĩ. Ford đã dùng mạng sống của anh để mua lấy sự an toàn cho nàng, và nàng sẽ là kẻ bội phản không thể tưởng được nếu nàng lãng phí sự hi sinh của anh bằng cách đưa ra những quyết định tồi.
Những lần liên tiếp rút tiền vào ban đêm, sau khoảng thời gian giả định của hai cái chết, sẽ càng khẳng định thêm tội trạng của nàng. Kristian sẽ biết nàng rời khỏi nhà Sieber lúc mấy giờ, và Ford và Bryant đã bị giết đúng vào lúc đó. Cả hai người họ đều chỉ mặc rất ít quần áo, và đang ở trong phòng ngủ của Bryant… Parrish đã sắp đặt tình huống với sự chu đáo thường lệ của hắn; cảnh sát nào trên đời cũng đều tin rằng nàng đã bắt quả tang mối quan hệ đồng tính giữa chồng và anh trai, và đã giết cả hai. Sự biến mất ngay sau đó của nàng là một bằng chứng khác chống lại nàng.
Những gã đi cùng Parrish đều có cách làm việc rất chuyên nghiệp; chúng sẽ không làm bất kì việc gì vụng về như là để lại những dấu vân tay. Không có hàng xóm nào nhìn thấy những chiếc ô tô lạ đỗ trước nhà, bởi vì chúng đã để xe ở đâu đó và đi bộ tới. Không có nhân chứng, không có bằng chứng nào chỉ ra một thủ phạm khác ngoài chính nàng.
Và thậm chí nếu bằng một cách kì diệu nào đó nàng có thể thuyết phục cảnh sát rằng nàng vô tội, nàng không có bằng chứng nào về việc Parrish đã giết họ. Nàng đã nhìn thấy hắn làm thế, nhưng nàng không thể chứng minh là nàng đã nhìn thấy. Hơn nữa, theo cách nghĩ của cảnh sát, hắn không có động cơ nào hết, trong khi rõ ràng là nàng có động cơ khá vững chắc. Nàng còn có thể dùng cái gì làm bằng chứng đây? Một tập hợp những tờ giấy được viết bằng vài loại ngôn ngữ cổ xưa mà thậm chí nàng còn chưa giải mã được hết, và là tập giấy mà Parrish có thể lấy lại từ tay nàng bất kì lúc nào chỉ bằng cách đơn giản bảo nàng nộp lại chúng cho hắn ư?
Không có động cơ nào cả, ít nhất là không có cái nào nàng có thể chứng minh được. Và nếu nàng tự nộp mình, Parrish sẽ lấy được những tài liệu này, và nàng cũng sẽ chết. Hắn sẽ đảm bảo chắc chắn chuyện đó. Nó sẽ được dựng lên như là nàng đã tự thắt cổ, hoặc có lẽ một ca sốc thuốc sẽ gây nên một scăng-đan về sự hiện hữu của ma tuý trong khám và nhà tù, nhưng kết quả cuối cùng sẽ vẫn y như thế.
Nàng phải sống, và ở ngoài vòng tay cảnh sát. Đó là cơ hội duy nhất nàng có để tìm ra tại sao Parrish lại giết Ford và Bryant – và trả thù cho họ.
Để sống sót, để tự do, nàng phải có tiền. Để có tiền, nàng phải dùng các cây ATM dù việc đó sẽ khiến nàng có vẻ có tội đến thế nào đi nữa.
Liệu cảnh sát đã phong toả tài khoản của nàng chưa? Nàng không biết, nhưng nếu họ làm thì họ sẽ cần một lệnh của toà án. Việc đó sẽ cho nàng thêm chút thời gian – thời gian mà nàng đang phung phí bằng cách nấp sau một cái thùng rác, thay vì bước ngang qua con phố tới cây ATM và lấy ra bất kể chỗ tiền nào nàng có thể, trong khi nàng còn có thể.
Nhưng nàng cảm thấy tê liệt, gần như không thể hoạt động được. Ba mươi yard ấy tưởng chừng như ba trăm dặm.(480km)
Bề mặt đen bóng của vỉa hè ẩm ướt phản chiếu hình ảnh méo mó, không thật của những ngọn đèn: những dãy đèn nê-ông sáng choang đầy màu sắc, ánh sáng trắng của đèn đường, qui trình đơn điệu bất tận của đèn giao thông từ xanh, vàng, sang đỏ, hết lần này đến lần khác, áp dụng qui luật của nó lên luồng xe không tồn tại. Vào lúc hai giờ sáng chỉ thỉnh thoảng mới có ô tô, và trong vòng năm phút vừa qua thì không có chiếc nào cả. Không có chiếc nào trong tầm nhìn. Giờ là lúc để tiến tới cây ATM.
Nhưng nàng vẫn lấp ló ở đó, trốn khỏi tầm nhìn và phần nào được bảo vệ khỏi cơn mưa nhờ mái hiên của toà nhà và thùng rác. Tóc nàng dính bết vào đầu, bím tóc đẫm nước của nàng đung đưa nặng trịch đằng sau cổ. Quần áo của nàng ướt sũng, và mặc dù buổi đêm vẫn còn khá ấm áp theo tiêu chuẩn của Minneapolis, sự ẩm ướt đã hút hết hơi ấm từ người nàng khiến nàng run rẩy vì lạnh.
Nàng nắm chặt chiếc túi đựng rác vào ngực; nó là một cái túi nhỏ, loại thỉnh thoảng được dùng để thu nhặt những hộp rỗng trong các toà nhà công cộng. Nàng đã vứt một cái hộp như thế để lấy chiếc túi trong nhà vệ sinh nữ của một thư viện công cộng. Máy tính và những giấy tờ quí giá của nàng đều được bảo vệ trong cặp, nhưng khi trời bắt đầu mưa nàng đã hốt hoảng trước khả năng chúng bị ướt, và một chiếc túi ni lông là tất cả những gì nàng có thể nghĩ ra để bảo vệ cho chúng.
Có lẽ việc tới một thư viện công cộng là không khôn ngoan. Rút cuộc thì đó là một chỗ công cộng, và một nơi mà nàng thường tới. Mặt khác, cảnh sát có thường tìm kiếm nghi phạm giết người trong các thư viện hay không? Không thể nào có chuyện Parrish đã nhìn rõ nàng qua cái khe nhỏ xíu giữa hai tấm rèm cửa, nhưng chắc chắn hắn đã đoán ra nàng chính là người nhìn lén ở bên ngoài cửa sổ và đã thấy tất cả. Hắn và người của hắn đang tìm kiếm nàng, nhưng mặc dù Ford đã bảo chúng nàng đi thư viện nàng không nghĩ chúng sẽ cho rằng nàng trở lại một nơi như thế để trốn tránh.
Có khi cảnh sát còn chưa được báo về vụ giết người. Parrish không thể báo với họ mà không lộ mặt, việc mà hắn không muốn làm. Những người hàng xóm sẽ không nghe thấy gì hết, vì súng đã được giảm thanh.
Không. Cảnh sát đã biết rồi. Parrish sẽ không mạo hiểm để vài ngày trôi qua trước khi các thi thể – trí óc nàng ngần ngại trước từ đó, nhưng nàng buộc mình phải kết thúc ý nghĩ – được tìm thấy. Liệu có cách nào các nhà khám nghiệm phát hiện được liệu khẩu súng có được lắp giảm thanh không? Nàng không nghĩ vậy. Tất cả những gì Parrish phải làm chỉ là gọi tới báo một “tiếng động khả nghi, như tiếng súng,” ở địa chỉ của họ, và dùng một cột điện thoại trả tiền để không có gì hiện lên trong hồ sơ của 911.
Cả Parrish và người của hắn, và cảnh sát, đều đang tìm nàng. Vậy mà, nàng vẫn đi tới chi nhánh chính của thư viện. Bản năng đã dẫn nàng tới đó. Nàng đã bị tê liệt vì sốc và hoảng sợ, và thư viện, vốn quen thuộc với nàng như nhà nàng, dường như là một thiên đường. Mùi của những cuốn sách, hỗn hợp tuyệt vời của giấy và da thuộc và mực in, đã trở thành mùi của thánh địa. Mê mụ, lúc đầu nàng chỉ đơn giản là đi lang thang quanh các giá sách, nhìn vào những cuốn sách đã định nghĩ cuộc sống của nàng cho đến vài giờ ngắn ngủi trước đó, cố gắng nắm bắt lại cảm giác an toàn, cảm giác bình thường. Nàng đã không làm được. Không có gì còn bình thường được nữa.
Cuối cùng nàng đã vào trong phòng vệ sinh, và nhìn chằm chằm vô định và hình phản chiếu trong gương. Người phụ nữ có khuôn mặt trắng bệch, đôi mắt trống rỗng đó không phải là nàng, không thể nào là Grace St. John, người đã dành cả đời làm học giả và chuyên gia giải mã và dịch những ngôn ngữ cổ. Cô Grace St. John mà nàng biết, khuôn mặt mà nàng đã ngắm biết bao lần trong gương, có đôi mắt xanh hạnh phúc và một biểu cảm vui tươi, đó là khuôn mặt của một người đàn bà biết yêu và được yêu lại. Toại nguyện. Phải, nàng đã rất toại nguyện. Kể cả trông nàng hơi bụ bẫm thì đã sao nào, kể cả nàng có thể trở thành hình mẫu quảng cáo cho Bookworms Anonymous (những mọt sách vô danh) thì sao? Ford đã yêu nàng, và đó mới là điều quan trọng trong đời nàng.
Ford đã chết. Không thể nào. Chuyện này không phải là thật. Không có gì đã xảy ra là thật hết. Có lẽ nếu nàng nhắm mắt lại, khi mở mắt ra nàng sẽ thấy mình đang nằm trên giường của mình, và nhận ra đó chỉ là một cơn ác mộng kinh khiếp, hay là nàng đang bị một kiểu suy sụp tinh thần nào đó. Thế cũng đáng để đánh đổi, nàng nghĩ khi nàng nhắm chặt mắt lại. Đổi sự sáng suốt của nàng lấy mạng sống của Ford. Nàng sẵn sàng làm việc đó bất kì ngày nào trong tuần.
Nàng đã cố. Nàng nhắm mắt lại thật chặt, tập trung vào ý nghĩ rằng đây chỉ là một cơn ác mộng và rằng nàng sắp tỉnh dậy, và mọi thứ sẽ ổn cả. Nhưng khi nàng mở mắt ra, mọi thứ vẫn như cũ. Nàng vẫn nhìn chằm chằm vào chính mình trong ánh sáng huỳnh quang, và Ford vẫn chết. Ford và Bryant. Chồng và anh trai nàng, hai con người duy nhất trên đời nàng yêu thương, và yêu thương nàng. Cả hai đều đã ra đi, không thể thay đổi, chắc chắn đã ra đi mãi mãi. Không có gì mang họ trở về được, và nàng cảm thấy như thể phần tinh tuý của chính mình đã chết cùng với họ. Nàng chỉ còn là một cái vỏ trống rỗng, và nàng tự hỏi tại sao bộ khung xương và lớp da nàng nhìn thấy trong gương không đổ sụp xuống vì bên trong rỗng không.
Rồi, nhìn vào đôi mắt của chính mình, nàng biết tại sao nàng còn chưa sụp đổ. Nàng không trống rỗng như nàng đã tưởng. Thực ra thì có gì đó bên trong nàng, cái gì đó hoang dã và vô đáy, một mớ hỗn độn hung dữ của kinh hoàng và căm hận. Nàng phải đấu với Parrish, bằng cách nào đó. Nếu hắn hoặc cảnh sát bắt được nàng, thì hắn sẽ thắng, và nàng không thể chịu đựng điều đó,
Hắn muốn tập tài liệu. Nàng chỉ mới bắt đầu dịch chúng; nàng không biết chúng chứa những gì, hay Parrish nghĩ là chúng chứa cái gì. Nàng không biết chúng có gì quan trọng đến nỗi hắn phải giết cả Ford và Bryant, và định giết cả nàng, chỉ vì họ biết những tài liệu đặc biệt đó tồn tại. Có lẽ Parrish nghĩ rằng nàng đã giải mã được nhiều hơn thực tế. Hắn không chỉ muốn nắm trong tay tập tài liệu đó, hắn còn muốn xoá sổ tất cả những hiểu biết về sự tồn tại hay nội dung của chúng. Điều gì có trong tài liệu để đến nỗi chồng và anh trai nàng phải chết vì nó? Đó là lý do tại sao nàng phải bảo vệ laptop của nàng. Máy tính của nàng chứa tất cả các ghi chú, những bài báo, những chương trình ngôn ngữ trợ giúp công việc của nàng. Chỉ cần có một chiếc modem, và nàng có thể kết nối với bất kì một nguồn trực tuyến nào nàng cần để làm việc, và nàng sẽ tiếp tục phần dịch của mình. Nàng sẽ tìm ra tại sao. Tại sao.
Để có bất kì một cơ hội lẩn trốn nào, nàng phải có tiền mặt. Những tờ tiền tốt đẹp, không thể lần theo được.
Nàng phải ép mình bước tới cây ATM đó. Và khi nàng đã rút nhẵn tiền ở đó – giả định là vẫn còn tiền mặt ở đó vào cái giờ giấc thế này – nàng sẽ phải tìm một cây khác.
Những ngón tay của nàng tê dại, và trắng bệch. Nhiệt độ vẫn trên sáu mươi, nhưng nàng đã bị ướt hàng giờ rồi.
Nàng không biết nàng đã tìm đâu được nguồn năng lượng dâng lên mang nàng đứng dậy. Có lẽ đó cũng chẳng phải là năng lượng, mà là sự tuyệt vọng. Nhưng đột nhiên nàng đang đứng, mặc dù đầu gối nàng cứng và yếu tới nỗi nàng phải dựa vào bức tường ẩm ướt để tìm trợ lực. Nàng đẩy mình ra khỏi bức tường, và lực đẩy kéo nàng vài bước loạng choạng trước khi nỗi hoảng sợ và đau đớn lại ùa vào nàng lần nữa, làm chậm bước chân của nàng lại. Nàng ôm chặt cái túi rác vào ngực, cảm thấy sức nặng an ủi của chiếc laptop bên trong lớp túi. Nước mưa nhỏ xuống mặt nàng, và một khối đen nặng trĩu đè xuống ngực nàng. Ford. Bryant.
Nàng nguyền rủa mọi thứ. Bằng cách nào đó chân nàng lại chuyển động, lảo đà lảo đảo, nhưng vẫn chuyển động. Đó là tất cả những gì nàng yêu cầu, chỉ cần chúng di chuyển.
Ví của nàng quăng quật trên vai, đập vào hông nàng. Nàng bước chậm lại, rồi dừng hẳn. Ngu ngốc! Nàng còn chưa bị trấn lột đúng là một điều kì diệu, khi lang thang trên đường phố vào đêm hôm khuya khoắt thế này mà ví thì khơi khơi trong tầm nhìn.
Nàng vội trở lại bóng tối, tim đập vì một cơn hoảng loạn chợt đến. Trong một thoáng nàng đứng bất động, sợ phải di chuyển khi mắt nàng quét quanh con phố tối om, tìm kiếm bất kì một gã lang thang trong đêm nào đang quần thảo thành phố. Con phố nhỏ vẫn im ắng, và hơi thở của nàng thoát ra. Nàng ở một mình. Có lẽ cơn mưa đã làm lợi cho nàng, và những gã cầu bơ cầu bất, nghiện ngập, đầu gấu du côn đã quyết định tìm chỗ trú ở đâu đó.
Nàng cười trong bóng tối, âm thanh nhỏ bé và chẳng có chút hài hước nào. Nàng đã lớn lên ở Minneapolis, và nàng chẳng có chút ý tưởng nào về việc nàng nên tránh khu vực nào trong thành phố. Nàng biết rõ khu phố của nàng, con đường tới trường đại học, tới các thư viện, tới bưu điện và cửa hàng thực phẩm, tới chỗ bác sĩ và nha khoa. Trong quá trình làm việc của nàng, và của Ford, nàng đã đi tới sáu lục địa và có Chúa biết là bao nhiêu quốc gia; nàng đã tưởng mình là người đi du lịch nhiều lắm, nhưng đột nhiên nàng nhận ra nàng biết ít thế nào về thành phố của chính mình bởi vì nàng đã được bao gọn trong cái thế giới nhỏ bé, an toàn, quen thuộc của chính nàng.
Để sống sót, nàng sẽ phải khôn ngoan hơn, cảnh giác hơn rất nhiều. Thông thạo đường phố có nhiều mặt hơn nhiều so với việc khoá xe của bạn ngay khi bạn đã vào trong. Nàng sẽ phải sẵn sàng cho mọi việc, một cuộc tấn công từ bất kì góc nào, và nàng sẽ phải sẵn sàng chiến đấu. Nàng sẽ phải học cách nghĩ như những gã lang thang sống về đêm, nếu không nàng sẽ chẳng tồn tại nổi một tuần trên phố.
Nàng cẩn thận trượt thẻ ATM vào trong túi quần, rồi một lần nữa chui xuống dưới mái hiên. Sau khi đặt chiếc máy tính quí giá được gói cẩn thận trong túi ni lông xuống đất, nàng mở ví và bắt đầu thô bạo lọc qua những thứ trong đó. Nàng lấy số tiền mặt ra, nhét nó vào trong một túi của chiếc cặp đựng máy tính mà không thèm đếm; nàng biết nó chẳng nhiều nhặn gì, có lẽ chỉ bốn mươi năm mươi đô la, bởi vì nàng thường không mang theo nhiều tiền mặt. Nàng ngần ngừ với cuốn sổ séc, nhưng quyết định mang theo nó; nàng có thể sử dụng nó, mặc dù để lại một dấu vết trên giấy tờ rất nguy hiểm. Tiếp theo là thẻ American Express. Nàng thả cả hai thứ vào túi ni lông. Mặc dù vậy bất kể chúng dùng vào việc gì cũng phải làm ngay và trong ngắn hạn thôi. Nàng sẽ phải rời Minneapolis, và sau khi rời khỏi, dùng cả séc lẫn thẻ tín dụng đều sẽ dẫn cảnh sát tới thẳng chỗ nàng.
Có vài bức hình trong ngăn nhựa. Nàng không cần phải nhìn cũng biết chúng là cái gì. Những ngón tay của nàng run rẩy, nàng kéo toàn bộ miếng bảo vệ ảnh ra khỏi ví và trượt nó vào trong túi.
Okay, còn gì nữa? Có bằng lái xe và thẻ bảo hiểm của nàng, nhưng giờ thì chúng có ích gì? Bằng lái xe chỉ làm nàng lộ diện, việc mà nàng muốn tránh, và thẻ bảo hiểm xã hội ư – một tiếng cười ma quái của nàng vang lên. Nàng không nghĩ nàng có cơ hội sống để mà đòi được tiền bảo hiểm.
Bất kì một loại giấy tờ nhân thân nào nàng bỏ lại chắc chắn sẽ được những người lang thang tìm thấy và sử dụng, việc đó có thể giúp đánh lạc hướng cuộc tìm kiếm của cảnh sát nếu họ phải chạy theo những đầu mối chẳng liên quan gì tới nàng. Nàng bỏ lại hai loại giấy tờ, và trong một cơn bốc đồng lại lôi cuốn sổ séc ra khỏi túi ni lông. Sau khi cẩn thận xé một tờ séc và đặt vào cùng chỗ với tiền mặt, nàng thả cuốn sổ séc vào lại trong ví.
Nàng bỏ lại thỏi son dưỡng môi, nhưng không thể chịu được nếu không có lược. Một tiếng cười kì quái, trống rỗng nữa phát ra từ cổ họng nàng; chồng và anh trai nàng vừa mới bị giết, cảnh sát đang truy nã nàng, và nàng thì lo về việc tóc tai bù xùi ư? Tuy nhiên, chiếc lược cũng đi vào trong túi.
Những ngón tay vụng về của nàng chạm vào vài cái bút bi và bút chì kim, và nàng lấy cả hai không cần suy nghĩ. Chúng là những thứ cần thiết cho công việc của nàng cũng như chiếc máy tính, bởi vì đôi khi, khi nàng vướng vào việc giải mã một cụm từ hay một từ đặc biệt khó, viết nó ra bằng chính bàn tay mình sẽ tạo nên một kết nối nhận dạng nào đó giữa não bộ và đôi mắt nàng, và đột nhiên nàng sẽ hiểu ra ít nhất là vài từ khi nàng nhìn thấy sự tương đồng trong các ngôn ngữ khác, trong hệ chữ cái khác. Nàng phải có những chiếc bút.
Rồi đến cuốn sổ ghi lịch hẹn to đùng của nàng. Nàng lờ nó đi, gạt nó ra khỏi suy nghĩ. Nó chứa đựng những chi tiết của một cuộc sống đã không còn tồn tại: những cuộc hẹn và những danh sách việc cần làm. Nàng không muốn nhìn thấy dòng ghi chú viết tay về cuộc hẹn tiếp theo của Ford với nha sĩ, hay là hình trái tim ngớ ngẩn anh đã vẽ trên lịch cạnh ngày sinh của nàng.
Nàng bỏ lại đống danh thiếp – dù sao nàng cũng chẳng bao giờ sử dụng chúng nhiều lắm. Nàng bỏ lại gói giấy ăn nhỏ, lọ thuốc xịt rửa mắt kính, những viên thuốc giảm nồng độ a xít trong dạ dày, những viên kẹo vị bạc hà. Nàng lấy cái giũa móng tay bằng kim loại. Nó chẳng nhiều nhặn gì, nhưng nó là thứ duy nhất nàng có có thể dùng như một vũ khí. Nàng ngần ngừ với chìa khoá ô tô, tự hỏi có thể nào luồn trở lại và lấy được xe của nàng hoặc xe tải của Ford hay không. Không. Việc đó thật ngu ngốc. Nàng bỏ lại chìa khoá. Với cả chiếc chìa khoá và địa chỉ của nàng, có lẽ ai đó tìm được cái ví này sẽ ăn cắp được chiếc xe hoặc chiếc xe tải, hoặc là cả hai, và dẫn cảnh sát đi chệch hướng còn nhiều hơn.
Kẹo cao su, găng tay cao su, một chiếc kính lúp… nàng nhận ra chúng bằng tay, và chỉ lấy ra chiếc kính lúp nàng cần cho công việc. Sao nàng lại mang theo mình nhiều đồ linh tinh đến thế? Một thoáng sốt ruột nháng qua, cảm xúc đầu tiên ngoài đau đớn và tuyệt vọng đã thấm qua sự mụ mẫm bao quanh nàng. Không chỉ là vì cái ví của nàng; nàng không được phép phạm một sai lầm nào, không được mang bất kì đồ vật thừa nào, không được để bất kì điều gì can thiệp vào sự tập trung của nàng. Từ giây phút này trở đi, nàng sẽ phải làm bất kì việc gì cần thiết. Sẽ không có chuyện lãng phí thêm thời gian và năng lượng quí báu bởi vì nàng bị nỗi sợ làm tê liệt. Nàng phải hành động, không được ngại ngần, nếu không Parrish sẽ thắng.
Nàng dứt khoát vứt chiếc ví lên trên thùng rác, và nghe thấy một tiếng chít chít và sột soạt yếu ớt khi một con chuột cống bị làm phiền. Bằng cách nào đó nàng lại khiến chân nàng di chuyển được, lệt bệt đi qua con phố rác rưởi, đau đớn rời từ chỗ trú ẩn an toàn tới nơi lộ thiên.
Đèn pha của một chiếc xe đang tới làm nàng bất động trước khi bước lên được vỉa hè. Nó chạy qua, bánh nghiến trên vỉa hè ẩm ướt, người lái xe thậm chí không thèm liếc về phía cái hình hài xộc xệch đứng giữa hai toà nhà.
Chiếc xe rẽ phải ở ngã tư tiếp theo, và biến mất khỏi tầm nhìn. Grace tập trung vào cây ATM, hít một hơi dài, rồi bước đi. Nàng nhìn chằm chằm vào chiếc máy được chiếu sáng quá chăm chú đến nỗi nàng không thấy lề đường và bị vấp, trẹo cổ chân phải. Nàng lờ đi cơn đau, không để mình dừng lại. Những vận động viên vẫn bước trong cơn đau hoài đấy thôi; nàng cũng làm được như thế.
Cây ATM hiện ra gần hơn và gần hơn, sáng hơn và sáng hơn. Nàng muốn bỏ chạy, muốn trở về với cái thùng rác an toàn. Nàng cứ như là đang trần truồng vậy; cảm giác bị lột trần quá mạnh đến nỗi nàng run rẩy, chiến đấu để kiểm soát bản thân. Bất kì ai cũng có thể đang theo dõi nàng, chờ nàng kết thúc giao dịch để trấn lột của nàng, lấy tiền, và có khi còn giết nàng trong lúc giằng co. Camera của cây ATM lúc này sẽ theo dõi nàng, ghi hình mọi cử động.
Nàng cố nhớ lại xem nàng có bao nhiêu tiền trong tài khoản thẻ. Chết tiệt, nàng đã ném cuốn sổ séc đi mà không nhìn vào số dư! Không đời nào nàng trở lại con phố và trèo vào trong thùng rác đó để tìm cái ví của nàng, kể cả khi nàng có làm được việc ấy đi nữa. Nàng sẽ chỉ đơn giản rút tiền cho đến khi chiếc máy ngừng nàng lại.
Chiếc máy ngừng lại ở ba trăm đô la.
Nàng nhìn chằm chằm vào màn hình choáng váng. “Giao dịch bị từ chối.” Nàng biết có nhiều hơn thế trong tài khoản, có hơn hai ngàn đô la – không phải số tiền lớn nhưng nó có nghĩa là sự khác biệt giữa sống và chết với nàng. Nàng biết có giới hạn rút tiền trong mỗi giao dịch, nhưng tại sao cái máy lại dừng ở lần thứ hai?
Có lẽ không còn đủ tiền trong cây ATM để thực hiện yêu cầu của nàng. Nàng bắt đầu lại, bấm mã số của nàng, và lần này chỉ yêu cầu 100 đô.
“Giao dịch bị từ chối.” Sự hoảng loạn bắn qua dạ dày nàng, vặn xoắn nó thành nút. Ôi, Chúa ơi, cảnh sát không thể phong toả tài khoản của nàng sớm vậy chứ, hay là họ có thể?
Không. Không. Không thể nào. Các ngân hàng đã đóng cửa rồi. Đó sẽ là việc đầu tiên họ làm vào sáng sớm mai, nhưng vẫn chưa có gì xảy ra cả. Chỉ là chiếc máy đã hết tiền thôi. Chỉ có thế thôi.
Vội vã, nàng nhét ba trăm đô vào trong túi quần, chia chúng ra để nếu nàng có bị trấn lột thì có thể vẫn thoát được mà chỉ mất một túi tiền thôi. Nàng chỉ hi vọng không có chuyện gì xảy ra với cái máy tính; nàng sẽ đưa ra tất cả số tiền mà không tranh cãi gì hết, nhưng nàng sẽ chiến đấu vì cái máy tính và những tài liệu quí giá ấy. Không có chúng, nàng sẽ không bao giờ biết tại sao Ford và Bryant lại chết, và nàng phải biết. Chỉ trả thù cho họ thôi thì chưa đủ; nàng phải biết tại sao.
Nàng bắt đầu bước đi vội vàng, tuyệt vọng lèo lái đôi chân tê cứng của mình. Nàng phải tìm một cây ATM khác, lấy thêm tiền. Nhưng một cây khác ở chỗ nào? Cho đến giờ, nàng chỉ sử dụng cái đặt ở ngay chi nhánh ngân hàng của nàng, nhưng nàng biết nàng đã nhìn thấy những cái khác. Chúng được đặt trong các siêu thị, nhưng siêu thị giờ này cũng đóng cửa rồi. Nàng cố nghĩ ra những nơi mở cửa hai mươi bốn giờ một ngày, và cũng có cây ATM. Các cửa hàng thực phẩm chăng? Nàng nhớ khi nàng mở tài khoản, ngân hàng đã cho nàng một tờ rơi liệt kê tất cả các “địa điểm thuận lợi” đặt ATM của họ, nhưng nàng chẳng thấy chúng thuận lợi cái khỉ gì hết.
“Đưa tiền đây.” Chúng xuất hiện ngay trước mặt nàng, lao ra khỏi một ngõ phố nhanh đến nỗi nàng không có thời gian phản ứng. Có hai người, một trắng, một đen, cả hai đều hung dữ. Gã da trắng dí một con dao vào nàng, lưỡi dao sáng mờ ảo trong ánh đèn đường bị mưa làm mờ đi. “Đừng có lộn xộn, chó cái,” hắn rít lên, hơi thở chết chóc hơn cả vũ khí của hắn. “Đưa tiền đây.” Hắn bị thiếu một vài cái răng và rất thiếu trí tụê.
Nàng không nói không rằng đút tay vào túi và lấy tập tiền ra. Nàng biết nàng nên sợ hãi, nhưng rõ ràng tâm trí con người chỉ có thể chịu đựng được sợ hãi đến một mức độ nào đó mà thôi, và bất kì cái gì ở sau nó thì đơn giản là không tiếp thu được.
Gã da đen giật lấy tiền, và gã kia dí con dao vào sát hơn, lần này vào mặt nàng. Grace giật đầu ra sau vừa kịp lúc không để con dao cứa ngang cằm nàng. “Tao thấy mày rồi, con chó. Đưa hết đây.”
Mưu kế vĩ đại của nàng thế đấy; có lẽ chúng đã thấy nàng kể từ lúc nàng bước qua con phố. Nàng thò tay vào túi khác, và cố gắng thọc ngón tay vào trong tập tiền để nàng có thể lôi ra chỉ một nửa. Gã da đen cũng giật luôn chỗ đó.
Rồi chúng bỏ đi, lẩn vào trong ngõ, chìm vào đêm đen. Chúng thậm chí còn không hỏi về cái túi ni lông nàng mang theo. Chúng chỉ chạy theo tiền mặt, không phải cái gì gây thêm rắc rối. Ít nhất nàng vẫn còn chiếc máy tính. Grace nhắm mắt lại, và chiến đấu để đầu gối nàng khỏi quỵ xuống vì sức nặng của sự tuyệt vọng. Ít nhất nàng vẫn còn chiếc máy tính. Nàng không còn chồng, không còn anh trai, nhưng ít nhất nàng vẫn còn… chiếc máy tính… khốn kiếp. Âm thanh gay gắt, ma quái làm nàng giật mình. Mất một lúc nàng mới nhận ra nó phát ra từ cổ họng của chính nàng, một lúc nữa nàng mới nhận ra nàng lại đang bước đi, bằng cách nào đó, tới nơi nào đó. Nước mưa nhỏ ròng ròng trên mặt nàng, hay ít nhất nàng nghĩ đó là nước mưa. Nàng không thể cảm nhận được mình đang khóc, nhưng mà nàng cũng đâu có cảm nhận được mình đang bước đi; nàng chỉ đơn giản là di chuyển. Có lẽ nàng đang khóc thật, dù việc đó thật vô dụng. Nước mưa hay nước mắt thì có khác gì nhau đâu?
Nàng vẫn còn chiếc máy tính. Máy tính. Kristian.
Ôi, Chúa. Kristian. Nàng phải cảnh báo cậu ta. Nếu Parrish có bất kì nghi ngờ nào về chuyện Kristian biết về tập tài liệu, chứ chưa nói đến một phần nội dung của nó, thì hắn sẽ không ngại ngần giết chết thằng bé.
Những cột điện thoại trả tiền, cảm tạ Chúa, có vô số và tiện lợi hơn cây ATM rất nhiều. Nàng lôi ít tiền xu ra khỏi túi, tuyệt vọng nắm chặt những đồng xu trong lòng bàn tay ướt nhoét của nàng khi nàng băng qua một góc phố và chạy hết đường, rồi rẽ vào một phố khác, muốn tạo một khoảng cách kha khá giữa nàng và hai tên trấn lột trước khi nàng dừng lại. Lạy Chúa, các con phố đều vắng tanh, một điều nàng sẽ không bao giờ tưởng tượng được ở St.Paul – trong một khu vực trung tâm của thành phố Minneapolis. Tiếng bước chân nàng vọng lại; hơi thở của nàng khò khè và đứt quãng, to một cách không bình thường. Nước mưa nhỏ giọt từ mái hiên và vải bạt, và những toà nhà sừng sững trên đầu nàng, đây đó những cửa sổ sáng cho thấy một tù binh văn phòng nào đó đang cày thâu đêm. Nàng bị đẩy xa cả thế giới so với họ, tất cả những người ngồi ấm áp và khô ráo trong những chiếc lồng bằng thép và kính kia, trong khi nàng vội vã lao qua màn mưa và cố biến thành vô hình.
Cuối cùng, hổn hà hổn hển, nàng dừng lại trước một trạm điện thoại. Nó không đặt trong phòng kính, giờ hiếm khi họ làm vậy nữa, chỉ là một cột điện thoại với ba miếng nhựa trong tạo nên các vách ngăn cho nó ở hai bên và phía trên đầu. Ít nhất nó cũng có một cái giá để nàng đặt cái túi lên, dùng cơ thể giữ nó trên giá trong khi nàng kẹp tai nghe giữa vai và đầu và vụng về nhét hai mươi lăm xu vào trong khe. Nàng không thể nhớ được số của Kristian nhưng những ngón tay nàng thì nhớ, chúng nhảy múa theo một thứ tự quen thuộc mà không cần não bộ chỉ huy.
Tiếng chuông đầu tiên vẫn còn ngân trong tai nàng khi nó bị ngắt đột ngột và giọng Kristian vang lên, “Xin chào?” Cậu ta có vẻ căng thẳng, tỉnh táo khác thường so với thời điểm này trong đêm – hay đúng hơn là sáng sớm.
“Kris.” Tiếng nói không hơn gì một tiếng khào khào. Nàng hắng giọng và cố lần nữa. “Kris, chị Grace đây.”
“Chị Grace, ôi lạy Chúa! Cảnh sát ở khắp nơi, và họ nói –” Cậu ta đột ngột dừng lời và hạ giọng, tiếng thì thầm mạnh mẽ gần như là gay gắt. “Chị có ổn không? Chị đang ở đâu?”
Ổn? Làm sao nàng có thể ổn được? Ford và Bryant đã chết, và có một cái hố rộng hoác trong ngực nàng. Nàng sẽ không bao giờ còn ổn được nữa. Tuy nhiên, về mặt thân thể nàng không bị hại, và nàng biết đó là điều mà cậu ta đang hỏi. Từ câu hỏi của cậu ta, nàng cũng biết rằng Parrish thực sự đã gọi cảnh sát; khu phố yên tĩnh chắc hẳn phải náo loạn cả lên.
“Chị đã thấy chuyện xảy ra,” nàng nói, cổ họng nàng nghẹn đắng đến nỗi giọng nàng nghe như giọng của người lạ, đều đều và trống rỗng. “Họ sẽ nói là chị đã làm, nhưng chị thề là chị không làm. Parrish đã làm. Chị đã nhìn thấy hắn.”
“Parrish? Parrish Sawyer, sếp của chị á? Parrish đó á? Chị chắc không? Chuyện gì đã xảy ra?”
Nàng chờ cho tới khi chùm câu hỏi đã dừng lại. “Chị đã thấy hắn,” nàng nhắc lại. “Nghe này, họ đã thẩm vấn em chưa?”
“Một chút. Họ muốn biết chị về lúc mấy giờ.”
“Em có nhắc tới những tài liệu mà chị đang làm không?”
“Không.” Giọng cậu chắc chắn. “Họ hỏi tại sao chị ở đây, và em nói chị mang modem của chị sang cho em sửa. Thế thôi.”
“Tốt. Bất kể em làm gì, đừng nhắc tới tập tài liệu. Nếu ai hỏi, chỉ cần nói em chẳng biết giấy tờ gì hết.”
“Okay, nhưng tại sao?”
“Vì Parrish sẽ giết cả em.” Răng nàng bắt đầu va vào nhau lập cập. Ôi, Chúa, nàng lạnh, cơn gió nhẹ cũng thổi xuyên qua được quần áo ướt nhèm của nàng. “Chị không đùa đâu. Hứa với chị em sẽ không để ai biết em biết một tí gì về bất kể việc gì chị đang làm. Chị không biết trong tài liệu có gì, nhưng hắn định xoá sổ bất kì ai biết về sự tồn tại của nó.”
Có một khoảng lặng trên đường dây, rồi Kristian choáng váng nói, “Ý chị là hắn không muốn chúng ta biết gì về vị Hiệp sĩ thánh chiến mà chị đang cố truy tìm? Ông ta đã sống từ hàng thế kỉ trước rồi, nếu ông ta có tồn tại đi nữa! Ai mà thèm quan tâm chứ?”
“Parrish quan tâm.” Nàng không biết tại sao, nhưng nàng dự định sẽ tìm ra. “Parrish quan tâm,” nàng lặp lại, giọng trượt đi.
Nàng lắng nghe tiếng thở của cậu ta, ngắn và nông, được khuếch đại trong điện thoại. “Okay, em sẽ câm như hến. Em hứa.” Cậu ta dừng lại. “Chị cần em giúp gì không? Chị có thể mượn xe –”
Nàng gần như cười. Bất chấp mọi thứ, âm thanh đó vẫn bùng bục trong cổ họng nàng và neo ở đó, không thể nào vượt ra khỏi những cơ bắp nghiến chặt. Đài tưởng niệm cơ khí của testerone (hóc môn nam tính) của Kristian là một cỗ máy thu hút sự chú ý, thứ mà nàng muốn tránh nhất. “Không, cám ơn em,” cuối cùng nàng cũng nói được. “Cái chị cần là tiền, nhưng chiếc máy chị vừa thử đã hết tiền rồi, và chị bị trấn lột ngay khi bước ra khỏi nó.”
“Em không nghĩ vậy,” cậu ta nói. Cậu ta không nghĩ nàng bị trấn lột ư? “Cái gì?” Nàng quá mệt gần như không cử động hay nghĩ được, nhưng chắc chắn cậu ta không có ý như thế.
“Em không nghĩ là máy hết tiền,” cậu ta nói. Đột nhiên giọng cậu ta nghe có vẻ già dặn hơn, mang trong nó sự chắc chắn bình tĩnh có nghĩa là cậu ta đang nghĩ về máy tính. “Chị đã lấy ra được bao nhiêu?”
“Ba trăm. Đó không phải là giới hạn cho mỗi lần giao dịch à? Chị nhớ ngân hàng đã nói gì đó về ba trăm đô khi bọn chị mở tài khoản.”
“Không phải ba trăm đô một giao dịch,” Kristian kiên nhẫn giải thích. “Ba trăm đô một ngày. Chị có thể thực hiện bao nhiêu lần giao dịch mà chị muốn, cho đến khi tổng số đạt tới ba trăm trong thời gian hai mươi tư giờ. Mỗi ngân hàng đặt ra giới hạn riêng, và giới hạn của ngân hàng của chị là ba trăm.”
Lời giải thích của cậu ta rớt xuống nàng như một lời sấm nguyền. Thậm chí cả khi nàng tìm được một cây ATM khác, nàng cũng sẽ không thể lấy thêm được tiền nữa cho tới giờ này sáng mai. Nàng không thể chờ lâu đến thế. Nếu cảnh sát có thể đóng băng tài khoản của nàng, tới giờ đó chắc chắn họ đã làm rồi. Và nàng cần ra khỏi Minneapolis, để tìm một chỗ trốn an toàn nào đó nơi nàng có thể làm việc với tập tài liệu và tìm ra tại sao Parrish lại giết Ford và Bryant. Để làm việc đó, nàng cần phải có tiền; nàng phải truy cập được điện thoại, để thu thập các tài liệu.
“Chị chết rồi,” nàng nói, giọng nàng nặng trịch. “Không!” cậu ta gần như la lên. Cậu ta nhắc lại nhỏ hơn, “Không. Em có thể chữa được. Chị còn bao nhiêu tiền?”
“Chị không biết chính xác. Một vài nghìn.”
“Tìm một cây ATM khác,” cậu ta hướng dẫn. “Em sẽ vào máy tính của ngân hàng chị, đổi mức giới hạn sang… xem nào, năm nghìn. Chị rút hết tiền, rồi em sẽ đổi lại mức giới hạn thành số tiền ban đầu. Họ sẽ không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra, em hứa.”
Hi vọng bùng lên trong nàng, một cảm giác kì lạ sau những giờ ác mộng vừa qua. Tất cả những gì nàng phải làm là tìm một cây ATM khác, một việc nói thì dễ hơn làm nhiều khi nàng phải đi bộ.
“Hãy nhìn vào danh bạ điện thoại,” cậu ta đang nói. “Mọi chi nhánh của ngân hàng đều sẽ có một cây ATM. Chọn cái gần nhất và tới đó.”
Tất nhiên rồi. Đơn giản làm sao. Bình thường nàng đã tự nghĩ ra được, và thực tế nàng đã không nghĩ ra chính là một thước đo cho sự choáng váng và kiệt lực của nàng.
“Okay.” Tạ ơn Chúa, vẫn còn một cuốn danh bạ được xích vào giá. Nàng mở nó ra. Chà, ít ra còn một phần của danh bạ, và nó chứa phần quan trọng nhất, Những trang vàng. Nàng mò mẫm trong đó cho đến khi tới chữ “Ngân hàng,” và xác định ngân hàng của nàng, nó có khoảng mười sáu địa điểm thuận tiện.”
Nàng tính toán sẽ mất nửa tiếng để tới được cái gần nhất. “Giờ chị đi đây,” nàng nói. “Chị sẽ ở đó trong vòng ba mươi tới bốn mươi lăm phút, trừ khi có chuyện gì xảy ra.” Nàng có thể bị cảnh sát bắt, hay bị trấn lột lần nữa, hoặc Parrish và tay chân của gã có thể đang lùng sục thành phố, truy lùng nàng. Không một điều gì có khả năng xảy ra với nàng mà lại dễ chịu cả.
“Gọi cho em,” Kristian gấp gáp nói. “Giờ em sẽ vào máy tính của ngân hàng, nhưng gọi cho em và cho em biết mọi chuyện đều ổn.”
“Chị sẽ gọi,” nàng hứa. Chuyến đi ba mươi phút mất đến gần một tiếng. Nàng đã kiệt sức, và chiếc laptop nặng hơn với mỗi bước chân của nàng. Nàng phải trốn mỗi khi có một chiếc ô tô đi ngang, và một lần có một chiếc xe tuần tra của cảnh sát đã lướt qua ngã tư ngay trước mặt nàng, ánh sáng nhấp nháy trong sự yên tĩnh hoàn toàn. Cảm giác hoảng loạn làm nàng yếu ớt và run rẩy, tim nàng đập thình thịnh.
Nàng chỉ thông thuộc một vài địa điểm cụ thể trong khu vực trung tâm thành phố. Nàng đã sống, tới trường, và đi mua sắm ở khu vực ngoại thành. Nàng rẽ nhầm và đi chệch đến mấy con phố trước khi nhận ra việc nàng vừa làm, và phải đi ngược trở lại. Nàng nhận thức sâu sắc từng giây phút trôi qua cho tới bình minh, khi mọi người sẽ thức dậy và bật ti vi lên, và biết về một vụ giết hai người trong khu phố yên tĩnh của nàng. Cảnh sát sẽ có ảnh của nàng, được lấy từ căn nhà, và khuôn mặt nàng sẽ nằm trên hàng trăm ngàn màn hình. Nàng cần phải tới nơi nào đó an toàn trước lúc ấy.
Cuối cùng nàng tới được chi nhánh ngân hàng, với chiếc ATM đáng yêu đặt ở đằng trước, sáng long lanh và được một camera an ninh theo dõi để nếu có ai bị giết chết ngay tại đó thì họ sẽ có hình của tên sát nhân để chiếu trên bản tin tối.
Nàng quá mệt để lo lắng về chiếc camera, hay khả năng có một vài tên côn đồ đang theo dõi nàng. Cứ để kẻ nào khác cố trấn lột nàng đi. Lần tới, nàng sẽ chiến đấu: nàng chẳng còn gì để mất, bởi vì tiền tức là sinh mạng của nàng. Nàng bước thẳng tới chỗ chiếc máy, lấy thẻ ngân hàng ra, và làm theo các chỉ dẫn, yêu cầu rút trọn hai nghìn.
Chiếc máy ngoan ngoãn bắt đầu kiểm những tờ hai mươi đô la. Nó đếm được một trăm tờ trước khi ngừng lại. Ôi, lạy Chúa phù hộ cho tự động hoá!
Với ba trăm đô nàng đã rút, nàng không nghĩ mình còn lại nhiều tiền lắm. Nàng không cố tìm xem con số chính xác là bao nhiêu, không phải với hai nghìn đô trong tay và thời gian thì gấp rút. Nàng nhào qua góc đường và lẩn mình trong bóng tối, ngồi xổm dựa lưng vào tường và vội vã nhét những tờ tiền vào trong cặp máy tính, trong túi áo túi quần, trong áo ngực, trong giày. Trong lúc đó nàng vẫn nhìn quanh khu vực tìm một sự chuyển động, nhưng con phố im ắng và vắng tanh. Giờ những tên ma xó ban đêm đã đi tìm chỗ trú ngụ của chúng, trả lại thành phố cho những công dân ban ngày.
Có lẽ vậy. Giờ nàng không thể mạo hiểm chút nào nữa. Nàng cần một loại vũ khí nào đó, bất kì cái gì, dù thô sơ đến đâu, để nàng có thể dùng nó bảo vệ bản thân. Nàng nhìn quanh, hi vọng tìm được một cây gậy chắc chắn, nhưng những thứ duy nhất vương vãi trên mặt đất là vài mảnh kính vụn và vài cục đá.
Chà, vũ khí không thể nào thô sơ hơn đá được, phải không?
Nàng nhặt cục những cục lớn nhất lên, vứt đi hết rồi chỉ thả một cục vào trong túi quần. Cục đá nặng nhất thì nàng nắm chặt trong bàn tay. Nàng biết rõ sự phòng vệ này đáng thương đến đâu, nhưng cùng lúc nàng lại thấy dễ chịu kì cục. Bất kì sự phòng vệ nào cũng tốt hơn là không có gì.
Nàng phải gọi Kristian, và nàng phải ra khỏi Minneapolis. Nàng không muốn gì hơn là nằm xuống và ngủ một giấc, để có thể quên đi trong vài giờ, nhưng sự nghỉ ngơi xa hoa đó phải chờ đã. Thay vào đó Grace nhanh chóng đi hết phố này đến phố khác khi bầu trời sáng dần lên, và mặt trời bắt đầu mọc trong ngày đầu tiên làm goá phụ của nàng.