Đài tưởng niệm đen của bầy diều hâu gãy cánh

Chương 17



Thấy rõ là bà mẹ mất con không thèm chú ý tới vấn đề chiêm tinh, tôi nhắc Wilke:

– Còn cái quan tài, làm sao đây?

– Thì để tôi cố gắng xem sao. Nhưng không biết họ có cho phép?

Tôi nói ngay:

– Mình có thể hỏi ở phòng hộ tịch.

– Nhưng còn vấn đề tôn giáo? Mấy đứa bé đạo gì?

Người đàn bà ngập ngừng:

– Một đứa Thiên Chúa giáo, một đứa… Tin Lành. Chồng tôi theo Thiên Chúa giáo, tôi thì theo đạo Tin Lành. Chúng tôi dùng biện pháp dung hòa.

Wilke không bỏ được thói tò mò:

– Và làm lễ rửa tội cùng một ngày?

– Phải.

– Vậy là hai nhà thờ khác nhau.

Tôi nói vào:

– Dĩ nhiên là phải hai nhà thờ khác nhau. Nhưng bây giờ…

Wilke đưa tay ngăn tôi nói và hỏi người đàn bà:

– Bà làm thế nào để phân biệt? Chúng có giống nhau như đúc không?

– Giống nhau như quả trứng.

Tôi lại phải can thiệp:

– Cũng vậy thôi. Lo chuyện cái quan tài trước đã.

– Không được. Hai đứa hai đạo khác nhau. Bà có nhận ra đứa nào theo Thiên Chúa giáo không?

Người đàn bà không trả lời. Wilke như đang say mê:

– Bà có biết là rắc rối lắm không. Muốn chôn chung trong một cái hòm đôi, bà phải mời một linh mục và một mục sư tới làm lễ cho chúng. Chưa chắc hai người chịu tới một lượt, họ không thuận với nhau…

Tôi đá nhẹ vào chân hắn dưới bàn:

– Wilke, đó không phải là chuyện của mình.

Hắn phớt tỉnh:

– Còn hai đứa bé sanh đôi? Có thể đứa theo Tin Lành lại được mai táng theo nghi lễ Thiên Chúa giáo và đứa kia thì ngược lại. Lộn xộn hết. Không, cái hòm đôi là không ổn, phải có hai cái hòm be bé. Bà có hỏi mấy vị giáo sĩ chưa?

– Chồng tôi lo việc đó.

– Vậy thì thật là khó.

– Ông có đồng ý đóng hòm đôi không?

– Làm thì làm nhưng tôi xin báo trước…

– Bao nhiêu tiền?

Wilke lại gãi đầu:

– Chừng nào bà lấy?

– Càng sớm càng tốt.

– Vậy là tôi phải làm việc ban đêm. Thêm giờ phụ trội…

– Bao nhiêu?

– Tới lúc gần xong tôi sẽ cho bà biết, giá cả phải chăng. Nhưng tôi sẽ không nhận lại nếu họ cấm chôn như vậy.

– Họ sẽ không cấm.

Wilke ngạc nhiên nhìn người thiếu phụ:

– Sao bà biết?

– Nếu các vị giáo sĩ không tới, chúng tôi vẫn cứ chôn. Chúng nó sống chung nhau thì chết cũng phải ở bên nhau.

Người đàn bà lấy từ trong xách ra một cái bóp đựng tiền có dây kéo bằng nicken và hỏi:

– Ông có lấy tiền cọc không?

– Phải lấy để mua cây.

Và anh ta hơi ngượng khi ra giá tiền đặt trước:

– Một triệu.

Người đàn bà đưa Wilke một xấp giấy bạc xếp làm tư:

– Và đây là địa chỉ của tôi.

Wilke bảo:

– Không cần. Tôi sẽ cùng đi với bà. Để lấy kích thước. Tôi sẽ cố gắng đóng thật đẹp.

Người đàn bà nhìn tôi:

– Còn tấm bia? Chừng nào ông giao?

– Bất cứ lúc nào bà muốn. Có người muốn đợi vài tháng sau khi chôn cất.

– Có thể lấy ngay dược không?

– Được, nhưng phải chờ cho đất dẻ lại, nếu không, bia sẽ bị sụp.

– Vậy à?

Người đàn bà chớp mắt ra vẻ suy nghĩ. Một lúc sau, bà ta nói tiếp:

– Chúng tôi lại cần có ngay. Chẳng biết có cách nào… tôi muốn nói là làm cách gì đó để cho bia đừng lung lay không?

– Vậy là phải làm nền trước khi mai táng. Có phải bà muốn thế không?

Người đàn bà gật đầu:

– Và trên tấm bia có khắc tên hai đứa nó, ông có thể cho khắc ngay bây giờ không? Tôi xin trả tiền ngay. Bao nhiêu?

Bà ta lại mở bốp tiền ra lần nữa. Cũng như Wilke, tôi không khỏi ngượng khi nói giá, và lại phải nói thêm như để xin lỗi:

– Thời buổi này, tiền bạc tính toán bằng triệu.

Kể cũng là điều lạ khi bất chợt nhận thấy rằng, bản chất của con người có thể nhận ra dễ dàng qua cách xếp tiền. Người đàn bà lần lượt mở từng tờ giấy bạc, đặt tờ này lên tờ kia gần những viên đá mẫu.

– Chúng tôi để dành khoảng tiền này để nuôi chúng ăn học. Hiện thời thì chắc là không đủ được… dầu sao cũng vừa đủ cho một đám tang.

Riesenfield kêu lên:

– Không bao giờ. Người bạn nhỏ có biết đây là loại đá hoa cương nhập cảng trực tiếp từ Thụy Điển sang không? Thụy Điển không phải ở đằng gốc đường. Đây không phải là loại hàng có thể trả bằng Đức kim. Phải trả bằng ngoại tệ, bằng đồng cua-ron Thụy Điển. Chúng tôi chỉ còn một ít dành cho ban bè. Không còn nữa. Quý như kim cương. Tôi sẽ giao cho các bạn một khối để đánh đổi một tối đi chơi với bà Watzek… nhưng đòi hai là không được.

Tôi nhún vai. Riesenfield nói tiếp:

– Hãy chụp lấy cơ hội. Đừng chơi trò bảo hoàng hơn vua, lo cho chú hơn chính phủ phải lo.

– Có gì đâu. Tôi làm thế là do sự thúc đẩy tình yêu mộ bia. Yêu cao thượng, vả lại, khối đá sỏi của ông chưa chắc sẽ tự tay tôi bán đi.

Riesenfield vừa tự rót rượu vừa hỏi vặn:

– Không bán à?

– Không, tôi có ý định đổi nghề.

– Thật không?

Hắn lùi ghế ra một chút để có thể nhìn thấy cửa sổ nhà Lisa. Tôi thản nhiên:

– Rất thật.

– Trở lại nghề dạy học?

– Không bao giờ? Tôi không còn nuôi cái ngây thơ cần thiết nữa. Cũng không còn bao nhiêu ảo mộng. Một người biết quá nhiều như ông có thể giúp tôi một ý kiến nào không?

Riesenfield lơ đãng:

– Hả?

– Một việc gì đó, tại thành phố lớn. Làm tùy phái cho nhà báo hoặc bất cứ chuyện gì không quan trọng.

– Theo tôi thì ở đây là ổn nhứt. Tại sao lại muốn đi?

– Khó mà giải thích được chính xác. Nếu giải thích được chắc tôi đã không muốn đi. Có điều là thỉnh thoảng dường như tôi bắt gặp được một thứ linh cảm.

– Và bạn đang có linh cảm phải rời khỏi nơi đây?

– Đúng vậy.

– Rất tiếc là rồi sẽ có ngày bạn lại muốn trở về đây.

– Chính vì vậy mà bây giờ tôi muốn đi.

Riesenfield nhảy nhổm lên như bị điện giựt. Phòng Lisa vừa được bật đèn lên và ả đang đi ra chỗ cửa sổ. Dường như ả không nhìn thấy chúng tôi đang ngồi trong căn phòng tối om nên ung dung cởi chiẽc áo blouse ra. Dưới chiếc áo blouse chẳng còn gì cả.

Riesenfield thở khì khịt như ngựa động cỡn:

– Ôi, kinh khiếp quá, đồ sộ như trái núi!

Rồi bất thần hắn hỏi:

– Bà ta có thường thay đồ vậy không?

– Bà ta không ngại. Không một ai nhìn thấy được, dĩ nhiên là trừ chúng tôi ra.

– Quái đản chưa! Vậy mà còn định bỏ cái trạm quan sát này?

Tôi đáp “phải” nhưng Riesenfield chẳng thèm nghe. Hắn đã rón rén đi tới cửa sổ, một tay cầm li, một tay xách theo chai rượu.

Lisa đang chải tóc. Riesenfield nói một mình:

– Thượng đế ơi! Ước gì con là một nhà điêu khắc. Thật là đáng tiếc… đáng tiếc cho đời.

– Chắc ông thích tạc tượng bằng đá hoa cương?

– Sao lại bắt qua chuyện đá hoa cương?

– Với đá hoa cương thì người mẫu sẽ già sớm trước khi tác phẩm hoàn thành. Phải nhớ là loại đá này quá cứng. Theo tôi thì ông nên nắn tượng bằng đất sét. Nếu không thì mọi tác phẩm đều dở dang.

Đèn trong phòng Lisa vụt tắt. Nhà thầu đá còn đứng dán mũi vào kính cửa sổ thêm một lúc lâu. Tôi hỏi cho có chuyện:

– Ông có cần tôi giúp gì không?

– Một bức thơ. Bạn có chịu chuyển giúp giùm tôi một bức thơ không?

– Cho ai?

– Hỏi gì ngốc vậy! Cho bà Watzek chớ còn ai!

Tôi không trả lời. Riesenfield nói tiếp:

– Đổi lại, tôi sẽ tìm cho bạn một chỗ làm.

Tôi vẫn im lặng và theo dõi nhà điêu khắc tưởng tượng và bắt đầu tháo mồ hôi. Tôi tự nguyện phải trung thành với Georges dầu sẽ cù bơ cù bất trong tương lai.

Riesenfield nhún vai:

– Tôi cũng có cách đưa thơ được mà.

– Chuyện đó thì chẳng có gì phải nghi ngờ. Nhưng tại sao ông lại nhứt quyết là phải viết thơ? Vả lại đêm nay là ông phải đi rồi, hay là chờ lần tới.

Riesenfield uống cạn li rượu mạnh:

– Bạn hãy còn trẻ nên không biết. Những vụ như thế này cần phải được thanh toán càng sớm càng hay.

Ngay lúc đó. Lisa xuất hiện trước cửa nhà. Ả mặc toàn đen, những đường cong thiên nhiên lồ lộ. Riesenfield cùng thấy một lượt với tôi. Hắn chụp lấy cái trên bàn và nhảy ra ngoài:

– Đúng lúc rồi!

Tôi nhìn theo hắn đang bước sải trong ngõ hẹp. Nón cầm tay hắn sửa điệu bộ cho lịch sự rồi tới gần Lisa. Ả quay lại nhìn. Rồi hai người khuất vào góc đường. Tôi tự hỏi và không biết chuyện gì đã xảy ra. Georges Kroll chắc chắn sẽ cho tôi biết. Con cáo già đó không biết chừng sẽ moi được của Riesenfield một khối đá hoa cương nữa.

Wilke đi qua sân, nói với tôi:

– Tối nay làm một chầu được không?

– Có Kurt Bach không?

– Có chớ. Tôi đi mua thuốc điếu cho hắn đây.

Bọn tôi quay quần trong xưởng mộc của Wilke giữa những đóng dăm bào, những chiếc quan tài và những hũ keo. Căn phòng sực nức mùi nhựa thông và gỗ bách. Wilke đã thêm nhưn thêm nhị cho cái nắp quan tài đôi của hai đứa bé sanh đôi. Hắn còn quyết định sẽ cho thêm lên đó một tràng hoa không tính tiền. Khi đã cảm thấy hứng thú, chẳng bao giờ hắn nghĩ tới món lợi.

Kurt Bach ngồi trên một cái hòm sơn đen, tôi thì ngồi trên một cái bằng gỗ sồi. Chúng tôi đã chuẩn bị một bữa khá thịnh soạn với nhiều bia, dồi chả, bánh mì và phô-mai trong ý định chờ ma quỷ tới. Thường thưởng cứ quá nửa đêm là Wilke lâm vào trạng thái ngất ngư. Hắn không tín ngưỡng nhưng lại rất sợ yêu ma. Để có thể yên tâm được phần nào, hắn chỉ có một con hoàng anh nuôi trong lồng kéc để bầu bạn trong những đêm phải làm khuya. Những hôm chẳng có việc gấp, hắn lại nhờ tới rượu để hôn mê. Chúng tôi thường bắt gặp buổi sáng, hắn còn ngủ như chết trong một cái hòm tổ bố, đã là vật riêng của hắn từ bốn năm qua.

Đó là cái hòm mà hắn đã đóng để chôn anh chàng khổng lồ của gánh xiếc lưu động Bleichfeld. Anh này đã ngã chết sau khi ngốn một hơi hàng tá phô-mai, trứng luộc, dồi heo, bánh mì và cả chục li rượu mạnh. Nhưng giữa lúc anh bạn thợ mộc của chúng tôi thức suốt đêm để cưa bào đục đẽo thì gã khổng lồ bỗng sống dậy, uống thêm nửa chai rượu mạnh rồi nằm xuống ngủ ngon lành. Sáng hôm sau, tươi như hoa hồng, hắn tuyên bố chẳng biết chuyện gì về cái hòm. Và gánh việc tiếp lục cuộc lưu diễn. Cái quan tài quá lớn không thể gạ bán cho ai được. Wilke đành giữ lại để làm giường ngủ.

Chính vì câu chuyện này mà hắn trở nên đa nghi. Mỗi lần có người đến đặt đóng hắn viện cớ là cần phải đo ni tấc để đến tận nơi xem người chết đã chết thật hay chưa. Một cái hòm khổng lồ may ra còn có lúc bán được chớ một cái quan tài đôi cho hai đứa bé song sanh thì làm sao đây? Hắn không hề nuôi ý định biến xưởng mộc của hắn thành một gian hàng triển lãm quan tài.

Con hoàng anh bắt đầu hót: ánh đèn khiến nó không ngủ được. Tôi hỏi Wilke:

-Thấy trong người thế nào? Người bên kia thế giới về chưa?

– Chưa, chưa đâu. Mới mười một giờ rưỡi.

Kurt Bach chen vào:

– Xin người thợ mộc hãy bắt chước nhà điêu khắc Kurt Bach này, chẳng tin bất cứ gì nên không bao giờ lố bịch.

– Nhưng cũng chẳng hãnh diện được bao nhiêu.

– Có thể. Nhưng cũng vẫn khá hơn là mỗi đêm ra cửa sổ ngồi nhìn sao rồi chìm vào hằng triệu năm ánh sáng, và cũng không phải lo sợ một hạng siêu nhân nào đó đến quấy rối mình.

Nhà điêu khắc kết thúc câu nói bằng một khoanh giò cho vào mồm. Wilke bắt đầu thấy khó chịu: gần tới nửa đêm. Hắn nói lắp bắp:

– Lạnh! Mới đây đã mùa Thu.

Hắn vừa toan khép cửa lại, tôi ngăn ngang:

– Cứ để vậy. Đóng cửa cũng vô ích. Ma quỷ còn xuyên qua gạch đá được thì một cái cửa ăn thua gì. Có nhìn thấy cái cây ngoài kia không? Có nghe gió hát trên cành của nó không? Vậy mà một ngày kia nó sẽ bị hạ xuống, xẻ ra để bạn đóng hòm. Còn rượu mạnh không?

Kurt Bach đưa chai sang tôi. Thình lình, Wilke rùng mình:

– Các bạn có nghe thấy gì không?

Một con nhện rớt trúng bóng đèn. Tôi bảo Wilke:

– Đừng sợ. Đó chưa phải là dấu hiệu báo trước của bên kia thế giới đâu. Con vật này lầm tưởng bóng đèn là mặt trời.

Bọn tôi và Kurt phải cố làm cho Wilke quên sợ hãi cho tới quá một giờ đêm. Theo Wilke thì sau giờ đó, ma quỷ sẽ đi ngủ. Wilke chợt hỏi:

– Tôi không biết làm sao người ta có thể sống được nếu không theo một tôn giáo nào đó. Thí dụ như vào giữa khuya mình bỗng thức giấc giữa một trận bão.

– Mùa Hè, phải không?

– Dĩ nhiên, là mùa Hè. Mùa Đông làm gì có bão.

Kurt Bach luôn có sẵn câu trả lời:

– Thì cứ uống một thứ gì tươi mát rồi ngủ lại.

Wilke lắc đầu. Giờ thiên của ma quỷ là hắn muốn phát run lên. Gió lay mạnh cánh cửa. Chuông giáo đường ngân vang trong tịch mịch. Nửa đêm, Wilke uống thật mau một li đầy rượu mạnh.

Gã vô thần Kurt Bach bỗng nói đùa quá trớn:

– Bây giờ mà được đi dạo vào nghĩa địa thì tuyệt.

Bộ râu mép lòng thòng của Wilke lay động theo cơn gió từ ngoài đi qua cửa sổ. Hắn lườm Kurt:

– Bạn tốt là vậy đó sao?

Và hắn lại rùng mình:

– Có tiếng động ở đâu đây. Các bạn có nghe không?

Tôi cố trấn an:

– Chẳng có gì đâu. Ngoài vườn giờ này còn có một tình nhân. Ma quỷ rất sợ mùi đồ ăn. Bạn còn chút mắm cá Na uy nào không?

Wilke nhìn tôi với đôi mắt của một con chó bị đá vào hông giữa lúc nó đứng bên cột đèn đưa một chân sau lên.

– Tình nhân! Sao lại nói chuyện đó trước mặt tôi. Mọi người đều biết là tôi không có số đào hoa mà.

– Bạn là nạn nhân của nghề nghiệp. Thôi, nên ăn uống cho vững bụng.

Cả ba bắt đầu bận rộn với những khoanh dồi và những chai bia. Con hoàng anh được chia phần một lá cải lại hót lên rộn rã. Kurt Bach lại đưa bộ mặt khó thương ra:

– Vào nửa đêm mình ngửi thấy mùi tinh tú.

Wilke dựng chai bia lên lớp mạt cưa:

– Cái gì? Bạn muốn nói cái gì?

– Trời nồng nặc mùi tinh tú.

– Đừng có ba hoa nữa. Làm như bạn đang sống bằng một nghề khả kính…

– Bộ muốn lôi tôi vào đạo à?

– Không, không… tôi chỉ nói vậy thôi… này, có tiếng sột soạt…

Kurt lại mồm mép:

– Đúng rồi, đó là tiếng bước của tình yêu.

Bên ngoài, thêm một cặp lình nhân nữa vừa nhẹ bước vào khu vườn đầy bia mộ và tháp tưởng niệm của chúng tôi. Wilke hơi yên tâm:

– Tại sao con người lại có bộ mặt khác sau khi chết?

Lại vẫn anh chàng Kurt:

– Bởi vì lúc đó mặt nạ đã rớt xuống rồi.

Wilke ngừng nhai:

– Mặt nạ gì?

– Mặt nạ của cuộc đời.

Trăng nhô ra khỏi những đám mây. Trong vườn, các khối cẩm thạch chiếu trắng ngời, những cây thánh giá nổi bật lên với màu đen. Chúng tôi nhìn thấy có bốn cặp uyên ương, hai trong vùng cẩm thạch, hai lẫn lộn trong khu vực đá hoa cương. Trăng sáng vằng vặc khiến họ bị lộ diện. Những cái đầu quay khắp phía, những cặp mắt ngơ ngác nhìn nhau. Rồi từ từ, họ cùng quay đầu về một phía: cửa sổ còn ánh sáng của bọn tôi. Tất cả bất động cùng một lúc dường như Kurt Bach vừa chạm họ vào thân đá. Một đám mây trôi qua, khu vườn lại chìm vào trong tối, duy nhứt chỉ còn một chút ánh sáng đọng lại trên tháp tưởng niệm đen.

Chuông nhà thờ báo hiệu một giờ đêm, giờ trở về huyệt mộ của loài ma quỷ. Chúng tôi có quyền chọn lựa, hoặc tiếp tục uống say vùi hoặc thả mình vào giấc ngủ như đi vào hầm mỏ đầy những lớp than, những xác người và những kim cương chôn giấu.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.