Kẻ Tầm Xương

Chương 02 – Part 01



Với một cú vẫy cánh ngắn, con chim ưng đỗ xuống rìa cửa sổ. Ánh sáng bên ngoài, vào giữa buổi sáng, thật rực rỡ và không khí có vẻ nóng dữ dội.
“Mày đây rồi”, người đàn ông thầm thì. Sau đó anh ta ngẩng đầu khi nghe tiếng chuông cửa ở tầng dưới.
“Có phải ông ta không?” Anh hét về phía cầu thang. “Phải không?”
Lincoln Rhyme không nghe thấy tiếng trả lời và quay lại cửa sổ. Con chim xoay đầu, một động tác nhanh, dữ dằn nhưng đối với loài chim ưng nó lại thật lịch thiệp. Rhyme thấy móng nó dính máu. Một miếng thịt đang đung đưa dưới cái mỏ khoằm hình vỏ quả hạch màu đen bị vỡ. Nó vươn cái cổ ngắn và thả lỏng mình trong tổ những cử động khiến ta nhớ tới loài rắn chứ không phải loài chim. Con chim ưng thả miếng thịt vào cái miệng đang ngửa lên của một con chim non màu xanh lông lá. Ta đang nhìn, Rhyme nghĩ, vào một tạo vật sống duy nhất ở New York mà không có thú săn bắt. Có lẽ ngoại trừ chính Chúa Trời.
Anh nghe thấy tiếng chân bước chậm chạp lên cầu thang.
“Có phải ông ta không?”Anh hỏi Thom.
Người thanh niên trả lời: “Không.”
“Ai đó? Chuông cửa vừa kêu, đúng không?”
Ánh mắt Thorn hướng về cửa sổ. “Con chim đã quay lại rồi. Nhìn này, có vết máu trên bậu cửa sổ của anh. Anh thấy không?”
Con chim ưng cái dần xuất hiện trong tầm nhìn. Xanh xám như một con cá, óng ánh ngũ sắc. Đầu nó ngẩng lên nhìn bầu trời.
“Chúng luôn đi cùng nhau. Chúng có kết bạn cả đời không nhỉ?” Thom tự hỏi thành tiếng. “Như ngỗng trời ấy?”
Ánh mắt Rhyme quay lại nhìn Thom, anh chàng này đang cúi cái eo lưng trẻ trung, gọn gàng của mình ngắm nhìn cái tổ qua cánh cửa sổ vấy bẩn.
“Ai thế?” Rhyme nhắc lại. Chàng thanh niên đang bị kẹt, điều này làm Rhyme khó chịu.
“Một người khách.”
“Một người khách? Ha.” Rhyme khịt mũi. Anh cố nhớ lại người khách cuối cùng đã ở đây. Chắc phải đến ba tháng trước. Đó là ai nhỉ? Một phóng viên, có thể, hay một người họ hàng xa. À, Peter Taylor, một trong những chuyên gia cột sống của Rhyme. Và Blaine cũng đến vài lần. Nhưng cô ấy tất nhiên không phải là người-khách.
“Lạnh quá”, Thom than phiền. Phản ứng của anh ta là mở cửa sổ. Sự thỏa mãn tức thì. Tuổi trẻ.
“Đừng mở cửa sổ”, Rhyme hạ lệnh. “Và nói cho tôi biết đấy là ai.”
“Lạnh quá.’
“Cậu đang làm phiền con chim đấy. Cậu có thể giảm điều hòa nhiệt độ. Tôi sẽ giảm điều hòa.”
“Chúng ta ở đây trước”, Thom nói, nâng tiếp cánh cửa sổ to tướng lên. “Con chim chuyển đến khi đã biết rất rõ về anh.” Con chim ưng nhìn về phía tiếng ồn, giận dữ. Nhưng chúng luôn luôn nhìn giận dữ như thế. Chúng vẫn đậu trên thành cửa sổ, làm chủ khoảng đất của mình trên những ngọn cây bạch quả xanh xao và những người đỗ xe bên kia phố.
Rhyme nhắc lại. “Ai vậy?”
“Lon Sellitto”.
“Lon?”
Hắn ta làm gì ở đây thế?
Thom nhìn căn phòng. “Chỗ này thật lộn xộn.”
Rhyme không thích phải bận bịu dọn dẹp. Anh không thích sự hối hả, không thích tiếng ồn của máy hút bụi – thứ mà anh cảm thấy thực sự khó chịu. Anh thấy thoải mái ở đây, thực sự như vậy. Căn phòng này, anh gọi là văn phòng của anh, nằm trên tầng hai của ngôi nhà theo phong cách gothic ở Upper West Side của thành phố, nhìn ra Công viên Trung tâm. Căn phòng rộng, hai mươi nhân hai mươi, và gần như từng foot vuông của nó đều có đồ. Đôi khi anh nhắm mắt, chơi một trò chơi cố gắng phân biệt mùi của những đồ vật khác nhau trong phòng. Hàng nghìn cuốn sách và tạp chí, xếp thành từng chồng nghiêng như Tháp Pisa, những cái bóng bán dẫn nóng rực trong ti vi. Cái bóng đèn phủ bụi, một cái bảng ghim giấy. Mùi của nhựa vinyl, nước oxy già, nhựa mủ và vải bọc ghế.
Ba loại whisky Scotch dòng thuần mạch nha khác nhau.
Con chim ưng kia.
“Tôi không muốn gặp hắn ta. Nói với hắn ta tôi bận.”
“Và một cậu cảnh sát trẻ tuổi. Ernie Banks. Không, anh ta là một cầu thủ bóng chày, đúng không? Thực sự anh phải để tôi dọn dẹp. Anh không bao giờ nhận ra một chỗ có thể bẩn thỉu đến thế nào cho tới khi có người nói cho anh hay.”
“Nói cho anh hay? Trời, nghe có vẻ hoài cổ. Thời Victoria. Điều này nghe thế nào? Bảo với họ biến khỏi đây. Thế nghe có đạo đức hơn không?”
Lộn xộn…
Thom đang nói về căn phòng nhưng Rhyme lại cho rằng anh ta ám chỉ cả sếp của mình.
Tóc Rhyme đen và dày như tóc một thanh niên mới hai mươi tuổi – mặc dù anh gấp đôi – nhưng những lọn tóc lại lộn xộn và bờm xờm, cần được cắt gội. Mặt anh lởm chởm râu ba ngày chưa cạo, trông bẩn thỉu, và anh có thể thức giấc với cảm giác buồn buồn ngứa ngáy không ngừng trong tai, có nghĩa là lông ở đó cũng cần phải được cắt tỉa. Móng Rhyme dài, cả ở chân lẫn tay, và anh mặc bộ quần áo suốt một tuần – một bộ pyjama sọc, xấu kinh khủng. Mắt anh hẹp, nâu đậm và nằm trên một khuôn mặt mà như Blaine thỉnh thoảng nói với anh, trông giàu tình cảm và có thể coi là đẹp trai.
“Họ muốn nói chuyện với anh”, Thom tiếp tục. “Họ nói đó là việc rất quan trọng.”
“Ừ, hoan hô họ.”
“Anh không gặp Lon cả năm nay rồi.”
“Vì sao điều đó lại có nghĩa tôi phải gặp hắn ta lúc này? Cậu có làm cho con chim sợ không? Tôi sẽ rất bực nếu cậu làm nó sợ.”
“Quan trọng đấy, Lincoln.”
“Rất quan trọng. Tôi nhớ cậu đã nói thế. Bác sĩ đâu nhỉ? Ông ta có thể đã gọi điện đến. Lúc nãy tôi ngủ gật. Còn cậu đang ở ngoài.”
“Anh tỉnh dậy từ lúc sáu giờ sáng.”
“Không”. Rhyme dừng lại. “Tôi có dậy, đúng. Nhưng sau đó tôi lại ngủ gật. Giọng tôi nghe buồn ngủ lắm. Cậu đã kiểm tra tin nhắn chưa?”
Thom nói: “Rồi. Chẳng có gì của ông ta.”
“Ông ta nói ông ta sẽ đến vào tầm giữa buổi sáng.”
“Bây giờ là mười một giờ hơn. Có lẽ chúng ta cũng chưa nên gọi tìm kiếm cứu nạn vội. Anh thấy thế nào?”
“Cậu có dùng điện thoại không?” Rhyme hỏi bất ngờ. “Có thể ông ta đã gọi đến khi cậu đang nghe máy.”
“Tôi có nói chuyện với…”
“Tôi có nói gì không?” Rhyme hỏi. “Giờ thì cậu tức giận rồi. Và tôi có nói là cậu không được dùng điện thoại không? Cậu được dùng chứ. Cậu luôn luôn được dùng. Ý của tôi chỉ là ông ta có thể gọi điện đến khi cậu đang nghe điện thoại.”
“Không, ý anh là sáng hôm nay phải thật tệ hại.”
“Lại nữa rồi. Cậu biết không, người ta có một thứ – gọi là chờ cuộc gọi. Cậu có thể nhận hai cuộc điện thoại một lúc. Tôi mong là chúng ta có dịch vụ này. Ông bạn cũ, Lon của tôi muốn gì thế nhỉ? Và bạn của hắn ta nữa, anh chàng cầu thủ bóng chày ấy mà.”
“Hỏi họ xem.”
“Tôi đang hỏi cậu.”
“Họ muốn gặp anh. Tôi chỉ biết thế thôi.”
“Có điều gì đó r… ất quan… trọng.”
“Lincoln.” Thom thở dài. Cậu thanh niên đẹp trai vò mớ tóc vàng của mình. Cậu ta đang mặc quần nâu và áo sơ mi trắng, đeo chiếc ca vát hoa xanh, thắt đẹp không chê vào đâu được. Khi thuê Thom một năm trước, Rhyme đã nói cậu ta có thể mặc áo phông và quần bò nếu cậu ta muốn. Nhưng hằng ngày cậu ta vẫn ăn mặc chỉnh tề, kể từ hồi đó. Rhyme không biết vì sao điều đó lại góp phần cho quyết định để cậu ta ở lại, nhưng đúng là có thế thật. Không một người nào trước Thom làm được quá sáu tuần. Số người tự bỏ việc đúng bằng số người bị đuổi.
“Được rồi, họ nói với cậu những gì?”
“Tôi nói với họ cho tôi mấy phút để bảo đảm anh ăn mặc tươm tất khi họ lên. Ngắn gọn thế thôi.”
“Cậu đã nói thế. Không hỏi ý kiến tôi. Cám ơn rất nhiều.”
Thom lùi mấy bước và gọi vọng xuống cầu thang dưới tầng một. “Lên thôi, thưa các quí ông.”
“Họ nói gì đó với cậu, đúng thế không?” Rhyme nói. “Cậu giấu tôi.”
Thom không trả lời còn Rhyme nhìn hai người đang lại gần. Khi họ vào phòng, Rhyme nói trước. Anh nói với Thom. “Hạ rèm xuống. Cậu đã chọc giận con chim quá mức rồi đấy.”
Nhưng điều đó thực ra có nghĩa là anh đã thấy quá đủ ánh nắng mặt trời.
Câm lặng.
Miếng băng dính hôi hám dán trên miệng làm cô không thể nói được, nó làm cô cảm thấy bất lực còn hơn chiếc còng đang bó chặt cổ tay cô. Hơn cả những ngón tay ngắn ngủn, mạnh mẽ của hắn đang bóp chặt bắp tay cô.
Người lái taxi, vẫn đeo mặt nạ trượt tuyết, dẫn cô đi theo một hành lang ẩm ướt, bụi bặm, dọc theo những hàng ống nước và ống cáp. Họ đang ở trong tầng hầm của một tòa nhà văn phòng. Cô chẳng biết là ở đâu.
Nếu mình có thể nói chuyện với hắn…
T.J. Colfax là một tay chơi. Một kẻ gớm ghiếc trên tầng ba của Morgan Stanley[11]. Một nhà đàm phán.
Tiền? Mày cần tiền? Tao sẽ đưa mày tiền, rất nhiều tiền. Hàng đống tiền. Cô đã nghĩ tới điều đó hàng chục lần, cố gắng bắt ánh mắt hắn ta, tựa như cô có thể thực sự đẩy ngôn ngữ vào đầu óc hắn.
Làm ơn đi, cô thầm van xin và bắt đầu nghĩ đến cách lấy tiền từ quỹ hưu trí của mình để đưa cho hắn. Ôi, làm ơn đi…
Cô nhớ lại đêm qua: Người đàn ông quay lại không nhìn pháo hoa, lôi họ ra khỏi taxi, còng tay họ. Hắn ném họ vào cốp và lái xe đi. Đầu tiên qua đoạn đường sỏi mấp mô và đoạn đường trải nhựa đầy ổ gà, sau đó là một đoạn đường êm, rồi lại xóc. Cô nghe thấy tiếng vèo vèo khi xe qua cầu. Lại cua, lại đoạn đường xóc. Cuối cùng, chiếc taxi dừng lại và người tài xế ra khỏi xe, hình như hắn ta mở một cánh cổng hay mấy cánh cửa. Hắn cho xe vào ga ra, cô nghĩ thế. Toàn bộ âm thanh của thành phố bị gián đoạn và tiếng ống xả xe hơi ngày càng lớn hơn, dội lại từ những bức tường xung quanh.
Rồi cốp xe bật mở và người đàn ông kéo cô ra. Hắn giật chiếc nhẫn kim cương từ ngón tay cô và đút vào túi. Sau đó, hắn dẫn cô đi qua những bức tường có những khuôn mặt ma quái, hình vẽ những con mắt đã phai nhạt nhìn cô chằm chằm, một tên đồ tể, một con yêu tinh, ba đứa trẻ đáng thương – được vẽ trên lớp vữa nát vụn. Kéo cô xuống tầng hầm tối và ném cô xuống sàn. Hắn đi lộp cộp lên gác, bỏ cô lại trong bóng tối, bao quanh là một mùi ghê đến phát ốm – mùi thịt thối, rác rưởi. Cô nằm ở đây hàng giờ, có ngủ được một chút, và khóc lóc rất nhiều. Cô bất ngờ tỉnh dậy khi nghe một tiếng động lớn. Một tiếng nổ sắc nhọn. Ngay gần. Rồi lại là giấc ngủ bất an.
Nửa giờ trước hắn lại đến chỗ cô. Dẫn cô ra cốp xe và lái đi khoảng hai mươi phút. Tới đây. Dù cô chẳng biết đây là chỗ nào.
Giờ thì họ đang bước trong một căn phòng mờ tối dưới tầng hầm. Ở giữa phòng là một cái cổng đen dày; hắn còng tay cô vào đấy, sau đó tóm chân cô kéo thẳng ra trước, đẩy cô ngồi dậy. Hắn quỳ xuống và trói chân cô bằng một sợi dây mảnh – việc này mất đến vài phút; hắn đeo đôi găng da. Sau đó hắn đứng lên, nhìn cô rất lâu, cúi xuống và phanh áo cô. Hắn vòng ra sau cô, và rồi cô thở gấp, cảm thấy bàn tay hắn trên vai cô, dò dẫm, bóp chặt xương bả vai.
Khóc lóc, van xin qua lớp băng dính.
Biết được điều gì sẽ xảy đến.
Hai bàn tay đi xuống dưới cánh tay cô, sau đó vòng xuống dưới và vòng qua phía trước thân người cô. Nhưng hắn không chạm vào ngực cô. Không, khi hai bàn tay đan lưới trên làn da cô. Hắn chọc và vuốt ve xương sườn cô. T.J rùng mình cố thoát ra. Hắn tóm lấy cô chặt hơn và săn sóc thêm chút nữa, ấn mạnh, cảm nhận sự đàn hồi của xương.
Hắn đứng dậy. Cô nghe thấy tiếng chân xa dần. Im lặng một lúc lâu, chẳng có gì ngoài tiếng rên rỉ của những chiếc máy điều hòa và thang máy. Rồi cô thốt ra một tiếng làu bàu kinh sợ vì một tiếng động ngay phía sau cô. Tiếng ồn lặp lại. Xoẹt. Xoẹt. Nghe rất quen, nhưng cô chẳng thể nhận ra. Cô cố quay lại xem hắn định làm gì nhưng không được. Cái gì thế nhỉ? Lắng nghe một âm thanh nhịp nhàng, lặp đi lặp lại. Âm thanh ấy đưa cô trở lại nhà mẹ cô.
Xoẹt. Xoẹt.
Sáng thứ Bảy, trong một căn nhà nhỏ ở Bedford, Tennessee. Đó là ngày duy nhất mẹ cô không đi làm và bà dành toàn bộ thời gian để dọn nhà. T.J. sẽ thức dậy khi mặt trời đã chiếu nắng nóng và chạy xuống nhà để giúp mẹ. Xoẹt. Cô khóc khi chợt nhớ tới kỷ niệm này, khi cô nghe âm thanh đó và tự hỏi vì sao hắn lại quét nhà cẩn thận với những nhát chổi chính xác và cẩn thận đến vậy.
Anh thấy sự ngạc nhiên và không thoải mái trên khuôn mặt họ.
Điều mà ta không thường xuyên thấy ở những viên cảnh sát điều tra án mạng của Thành phố New York.
Lon Sellito và anh chàng trẻ tuổi Banks (Jerry, không phải Ernie) ngồi xuống chỗ mà Ryhme vừa dùng cái đầu tổ quạ của anh ra hiệu cho họ ngồi: chiếc ghế mây bẩn thỉu, không thoải mái.
Ryhme đã thay đổi rất nhiều từ lần cuối cùng Sellitto đến đây và viên thám tử không giấu được cú sốc của mình. Banks thì không có tiêu chí nào để so sánh với những gì anh ta nhìn thấy, nhưng anh ta vẫn bị sốc như thường. Căn phòng nhếch nhác, một kẻ du mục đang nghi ngờ nhìn họ. Mùi thì quá chắc chắn – mùi nội tạng đang bao quanh một tạo vật được gọi là Linconl Ryhme.
Anh lấy làm tiếc là đã để họ lên.
“Sao anh không gọi điện trước hả, Lon?”
“Anh sẽ bảo chúng tôi đừng đến.”
Đúng thật.
Thom trèo lên cầu thang. Ryhme chặn trước.
“Không, Thom, chúng tôi sẽ không cần đến cậu.” Anh chợt nhớ là chàng thanh niên này luôn hỏi xem khách có muốn ăn uống gì không.
Đồ Martha Stewart[12] chết tiệt.
Im lặng một lúc. Sellitto to lớn, nhăn nhúm – một cựu chiến binh hai mươi năm – nhìn vào một cái hộp cạnh giường và bắt đầu nói. Điều anh ta định nói lập tức bị chặn lại khi anh ta nhìn thấy những cái bỉm dành cho người lớn.
Jerry Banks nói: “Tôi có đọc sách của ngài, thưa ngài.” Chàng cảnh sát trẻ tuổi này cạo râu thật kém, rất nhiều vết đứt. Còn vết bò liếm trên tóc anh ta trông thật duyên dáng! Lạy Chúa tôi, anh ta không thể quá mười hai tuổi được. Thế giới càng mệt mỏi, cư dân ở đó trông càng trẻ trung, Rhyme nghĩ.
“Cuốn nào vậy?”
“À, hướng dẫn về hiện trường vụ án, tất nhiên rồi ạ. Nhưng ý tôi là cuốn sách ảnh. Cuốn sách khoảng hai năm trước.”
“Trong đó cũng có cả chữ nữa. Thực ra, chủ yếu là chữ. Cậu có đọc nó không?”
“Ồ, tất nhiên rồi”, Banks nói nhanh.
Một chồng cao ngất các cuốn sách The Scenes of the Crime[13] còn lại đang dựa vào một bức tường trong phòng.
“Tôi không biết anh và Lon là bạn bè”, Banks nói thêm.
“À, Lon không cho cậu xem cuốn kỷ yếu sao? Cho cậu xem mấy bức ảnh? Xắn tay áo và chìa mấy cái sẹo rồi nói với cậu rằng những vết thương này tôi đã bị cùng Lincoln Rhyme?”
Sellitto không cười. Được thôi, mình có thể cho hắn ta ít thứ để cười hơn nếu hắn ta muốn. Viên thám tử có thâm niên đang lục lọi trong chiếc cặp của anh ta. Hắn ta có cái gì trong ấy nhỉ?
“Các anh đã cộng tác bao lâu rồi?” Banks hỏi, tìm cách nói chuyện.
“Có một động từ cho cậu đấy”, Rhyme nói và nhìn đồng hồ.
“Chúng tôi không phải cộng sự của nhau”, Sellito nói. “Tôi làm ở Ban Án mạng, anh ta là giám đốc IRD.”
“Ồ”. Bank mói, tỏ ra bị ấn tượng hơn nữa. Lãnh đạo IRD là một trong những công việc uy tín nhất trong sở.
“Ừ”, Rhyme nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ, tựa hồ bác sĩ của anh sẽ tới qua con chim ưng. “Hai người lính ngự lâm”.
Bằng một giọng kiên nhẫn nhưng lại làm cho Rhyme khó chịu. Sellito nói: “Bảy năm liên tục, chúng tôi làm việc cùng nhau.’
“Những năm tháng tốt đẹp”, Rhyme nhấn nhá.
Thom cau có, nhưng Sellitto không nhận thấy sự mỉa mai này. Mà đúng hơn là lờ đi. Anh ta nói: “Chúng tôi có vấn đề, Lincoln. Chúng tôi cần giúp đỡ.”
Soạt. Chồng giấy đổ xuống cái bàn đầu giường.
“Giúp đỡ?” Tràng cười nổ ran từ chiếc mũi mà Blaine luôn ngờ rằng đó là sản phẩm của phẫu thuật thẩm mỹ, mặc dù không phải như vậy. Cô cũng luôn nghĩ rằng đôi môi của anh quá hoàn hảo (nếu thêm một vết sẹo, có lần cô đã đùa như vậy khi họ suýt cãi nhau). Mà tại sao hôm nay sự hiện diện đầy nhục cảm của cô lại cứ dâng mãi lên như vậy nhỉ, anh tự hỏi. Buổi sáng anh thức dậy với ý nghĩ về người vợ cũ của mình và tự nhiên muốn viết cho cô một lá thư, lá thư đó vẫn còn ở trên màn hình máy tính vào lúc này. Anh đang lưu nó vào đĩa. Sự im lặng tràn ngập cả căn phòng khi anh nhập lệnh vào máy tính bằng một ngón tay.
“Lincoln?” Sellitto hỏi.
“Vâng, thưa ngài. Sự giúp đỡ. Của tôi. Tôi nghe thấy.”
Banks vẫn giữ nụ cười không đúng chỗ trên mặt anh ta khi anh ta ngọ nguậy đầy khó chịu trên ghế.
“Tôi sắp có một cuộc hẹn, ngay bây giờ”, Rhyme nói.
“Một cuộc hẹn.”
“Một bác sĩ.”
“Thật không?” Banks hỏi, chỉ để cố gắng phá tan sự im lặng lại vừa tràn ngập căn phòng.
Không chắc lắm là cuộc nói chuyện đang đi đến đâu, Sellitto hỏi: “Anh thế nào?”
Banks và Sellitto không hỏi tới sức khỏe của anh khi họ tới. Đó là câu hỏi mọi người thường tránh khi họ gặp Lincoln Rhyme. Câu trả lời có thể sẽ rất phức tạp, và gần như chắc chắn là sẽ khó chịu.
Anh nói đơn giản: “Tôi ổn, cám ơn. Còn anh? Betty?”
“Chúng tôi đã li dị”, Sellitto nói nhanh.
“Thế à?”
“Cô ta được ngôi nhà còn tôi thì một nửa đứa con.” Viên cảnh sát lùn, đậm người với một giọng vui vẻ giả tạo, cứ như anh ta đa nói điều này trước đó, và Rhyme nói rằng có một chuyện đau đớn đằng sau cuộc chia tay. Câu chuyện mà anh chẳng hề muốn nghe. Tuy vậy, anh cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy cuộc hôn nhân này thất bại. Sellitto là một con ngựa thồ. Anh ta là một trong khoảng một trăm thám tử hạng nhất trong lực lượng và đã từng giữ vị trí này nhiều năm – anh ta lên hạng vì có công trạng thực sự chứ không phải chỉ vì thâm niên. Anh ta làm việc tới tám mươi giờ một tuần. Rhyme không hề biết anh ta đã lấy vợ trong mấy tháng đầu tiên họ cùng làm việc.
“Giờ anh đang sống ở đâu?” Rhyme hỏi, hy vọng rằng một cuộc nói chuyện xã giao sẽ làm họ kiệt sức và biến đi.
“Brooklyn. Tại Heights. Đôi khi tôi đi bộ đi làm. Anh biết chế độ ăn kiêng định kỳ của tôi rồi chứ nhỉ? Vấn đề không phải ăn kiêng. Mà là tập luyện.”
Anh ta trông không béo hơn hay gầy hơn so với Lon Sellitto ba năm rưỡi trước đây. Hoặc Sellitto cách đây mười lăm năm.
Banks nói: “Vậy, anh nói đó là một bác sĩ. Để cho…”
“Một dạng điều trị mới à?” Rhyme hoàn thành câu hỏi. “Chính xác.”
“Chúc may mắn.”
“Cám ơn cậu rất nhiều”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.