Jerry Banks từ hàng lang đi vào phòng. “Tin xấu. Công ty Secure-Pro không giữ hồ sơ nào về các tổ hợp mã khóa. Máy móc thiết lập ra chúng ngẫu nhiên.”
“À.”
“Nhưng điều thú vị là họ nói họ thường xuyên nhận được các cuộc gọi của cảnh sát về sản phẩm của họ và anh là người đầu tiên nghĩ tới việc truy tìm ổ khóa qua tổ hợp mã.”
“Có thể thú vị đến đâu nếu như đó là ngõ cụt?” Rhyme càu nhàu và quay về phía Mel Cooper, anh ta đang lắc đầu khi nhìn vào máy tính của GC-MS. “Gì thế?”
“Có kết quả phân tích đất rồi. Nhưng tôi sợ là máy có thể phải sửa. Quá nhiều nitrogen. Ta phải thử lại lần nữa, chắc lần này phải dùng nhiều mẫu hơn.”
Rhyme bảo anh ta làm. Ánh mắt anh quay lại phía khúc xương. “Mel, con vật bị giết lâu chưa?”
Mel xem xét vài mảnh nhỏ dưới kính hiển vi điện tử.
“Có rất ít các nhóm vi khuẩn. Cậu Bambi này chắc mới bị thịt, có lẽ thế. Hay mới được lấy ra khỏi tủ lạnh khoảng tám tiếng.”
“Như thế là hắn mới mua nó”, Rhyme nói.
“Hoặc tháng trước và làm đông lạnh nó”, Sellitto đề xuất.
“Không”, Cooper nói. “Nó không bị đông lạnh. Không có vết biểu bì bị tinh thể băng phá hoại. Và nó không ở trong tủ lạnh quá lâu. Không bị khô; tủ lạnh hiện đại làm thức ăn bị khô.”
“Dấu vết tốt đấy”, Rhyme nói. “Hãy điều tra thêm một chút đi.”
“Điều tra thêm?” Sachs cười. “Ý anh nói là chúng ta sẽ gọi điện cho tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố để hỏi ngày hôm qua có ai bán xương bê không à?”
“Không”, Rhyme nói. “Mà là trong hai ngày qua.”
“Anh có cần gọi Những Chàng trai Dũng cảm không?”
“Cứ để họ làm việc của họ. Gọi Emma, ở trung tâm, xem cô ấy còn làm việc không? Và nếu không, gọi cô ấy quay lại văn phòng cùng với những điều phối viên khác để họ làm ngoài giờ. Đưa cho cô ấy danh sách tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố. Tôi cá là anh chàng của chúng ta không mua thực phẩm cho gia đình bốn người, vì thế nói với Emma giới hạn danh sách xuống những người chỉ mua dưới năm thứ.”
“Lệnh bắt?” Banks hỏi.
“Hễ có ai đó giật mình, ta sẽ có lệnh bắt”, Sellitto nói. “Nhưng cứ thử không có lệnh trước. Ai biết được? Vài công dân có thể thực sự cộng tác. Người ta nói với tôi là, đôi khi điều đó có xảy ra.”
“Nhưng làm sao các cửa hàng biết được ai đã mua chân bê?” Sachs hỏi. Cô không còn lơ đãng như trước. Trong giọng nói của cô đã có chút góc cạnh. Rhyme tự hỏi liệu sự khó chịu của cô có phải là triệu chứng của điều mà chính anh đôi khi cũng tự cảm thấy – gánh nặng của bằng chứng. Vấn đề cốt yếu với các nhà hình sự học không phải là có quá ít bằng chứng mà là quá nhiều.
“Kiểm tra máy quét”, Rhyme nói. “Họ đăng ký giao dịch bán hàng trên máy tính. Để kiểm kê và mua thêm hàng. Banks, nói đi. Tôi thấy hình như có điều gì đó trong đầu cậu? Nói ra đi. Lần này tôi không đẩy cậu đi Siberia nữa đâu.”
“Thôi được, chỉ có các cửa hàng nằm trong cùng một chuỗi mới có máy quét, thưa ngài”, viên thám tử trẻ tuổi nói. “Có hàng trăm cửa hàng riêng lẻ và hàng thịt không có máy quét.”
“Ý hay. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ không đến một cửa hàng nhỏ. Hắn sẽ mua ở những cửa hàng lớn. Phi cá nhân.”
Sellitto gọi điện cho Phòng Truyền thông và nói với Emma những gì họ cần làm.
“Hãy chụp phân cực mẩu giấy bóng kính này xem”, Rhyme nói với Cooper.
Người kỹ thuật viên đặt mẫu nhỏ này vào kính phân cực, sau đó đặt máy ảnh Polaroid vào ống ngắm và chụp ảnh. Đó là một tấm ảnh màu, một chiếc cầu vồng với một vạch sáng màu xuyên qua. Rhyme nghiên cứu tấm ảnh. Hình mẫu đó chẳng nói lên điều gì với họ, nhưng có thể so sánh nó với các mẫu giấy bóng kính khác để xem chúng có cùng một nguồn gốc hay không.
Rhyme nảy ra một ý nghĩ. “Lon gọi vài sỹ quan ESU đến đây. Khẩn trương.”
“Tới đây?” Sellitto hỏi.
“Chúng ta sẽ chuẩn bị một chiến dịch.”
“Anh chắc chứ?” Viên thám tử hỏi.
“Đúng thế! Tôi cần họ ngay.”
“Được rồi.” Anh ta gật đầu với Banks, người gọi điện cho Haumann.
“Còn bây giờ những dấu vết để lại khác thì sao – mấy sợi lông mà Amelia tìm thấy.”
Cooper đào bới chúng bằng cái que thăm sau đó đưa vài sợi lên kính hiển vi đối pha. Công cụ này chiếu hai nguồn ánh sáng vào một đối tượng, luồng ánh sáng thứ hai được chiếu muộn hơn một chút – lệch pha – sao cho mẫu vừa được chiếu sáng, vừa có bóng tối.
“Không phải của người”, Cooper nói. “Tôi có thể nói ngay với anh như vậy. Hơn nữa đây là lông bảo vệ, không phải lông phía dưới.”
Ý anh ta là nó từ bộ lông của động vật.
“Con gì? Chó?”
“Con bê?” Banks đề xuất, một lần nữa đầy sự nhiệt tình và trẻ trung.
“Kiểm tra vảy”, Rhyme ra lệnh. Ý anh là những vảy nhỏ tạo thành lớp vỏ ngoài sợi lông.
Cooper gõ bàn phím máy tính và mấy giây sau hình ảnh những cái que nhỏ đầy vảy hiện ra trên màn hình. “Nhờ anh đấy, Lincoln. Nhớ cơ sở dữ liệu không?”
Ở IRD, Rhyme đã tập hợp một bộ sưu tập khổng lồ những bức vi ảnh các loại lông khác nhau. “Nhớ chứ, Mel. Nhưng lần cuối cùng tôi nhìn thấy chúng là trong cặp hồ sơ cơ mà, làm thế nào mà anh cho chúng vào máy tính được?”
“Tất nhiên là nhờ scan rồi. Nén dưới dạng JPEG.”
Jay-peg? Cái quái gì thế nhỉ? Chỉ trong vài năm công nghệ đã vượt qua Rhyme. Thật lạ lùng…
Khi Cooper xem xét các bức ảnh, Lincoln Rhyme lại băn khoăn về điều anh đã băn khoăn cả ngày – câu hỏi cứ hiện lên: Vì sao lại có những dấu vết? Con người thật tuyệt vời nhưng trên hết đó chỉ là – một con thú. Một con thú biết cười, nguy hiểm, thông minh và hoảng sợ nhưng luôn luôn hành động có lý do – một động cơ đẩy con thú đến với dục vọng của nó. Nhà khoa học Lincoln Rhyme không tin vào sự tình cờ, hay sự ngẫu nhiên, hay thiếu chứng cứ. Ngay cả kẻ điên cũng có logic của họ, bất kể nó có rối rắm đến đâu, và anh biết phải có lý do gì đó để Đối tượng 823 nói chuyện với họ bằng cách thức khó hiểu như vậy.
Cooper gọi: “Có rồi. Loài gặm nhấm. Có thể là chuột. Hơn nữa lông bị cạo.”
“Dấu vết kiểu gì vậy?” Banks nói. “Có hàng triệu con chuột trong thành phố. Nó không dẫn tới chỗ nào cả. Hắn định nói gì với chúng ta vậy?”
Sellitto nhắm mắt một khắc và lẩm bẩm điều gì đó trong hơi thở. Sachs không nhận thấy cái gì đó. Cô đang tò mò liếc nhìn Rhyme. Anh ta ngạc nhiên là cô không nhận ra thông điệp của kẻ bắt cóc là gì nhưng anh ta không nói gì. Anh thấy không có lý do gì phải chia sẻ phần kiến thức kinh hoàng đó với bất kỳ ai vào lúc này.
Nạn nhân thứ bảy của James Schneider, hoặc thứ tám, nếu hắn nhớ không nhầm, trong số đó có thiên thần nhỏ bé O’Connor, là vợ của một người nhập cư cần cù, người đã xây một căn nhà giản dị gần Phố Hester, bên khu Lower East Side của thành phố.
Chính nhờ sự dũng cảm của người phụ nữ không may mắn này mà cảnh sát phát hiện ra nhân dạng của tên tội phạm. Hanna Goldschmidt có dòng máu Đức – Do Thái và được kính trọng trong một cộng đồng gần gũi ở đó cô, chồng cô và sáu đứa con nhỏ của họ (một đứa đã mất khi sinh) sinh sống.
Kẻ Tầm Xương chậm rãi lái xe qua những con phố, cẩn thận tuân theo biển hạn chế tốc độ dù hắn biết chắc chắn rằng cảnh sát giao thông New York không chặn ai lại vì một lý do nhỏ như lái xe vượt quá tốc độ.
Hắn dừng lại ở đèn hiệu giao thông và nhìn lên một tấm bảng dán thông cáo của Liên Hợp Quốc khác. Mắt hắn nhìn thấy những khuôn mặt tươi cười, nhạt nhẽo – như những khuôn mặt ghê sợ được vẽ trên tường của khu nhà lớn – rồi nhìn ra xa, thành phố quanh hắn. Đôi khi hắn thấy ngạc nhiên khi nhìn lên và thấy những tòa nhà thật to lớn, những mái đua bằng đá thật cao, kính thật phẳng, những chiếc xe thật đẹp và con người thật tầm thường. Thành phố mà hắn biết tăm tối, thấp tịt, khói mù, bốc mùi mồ hôi và bùn đất. Ngựa có thể giẫm lên người ta, những băng nhóm lưu manh có ở khắp nơi – một số tên chỉ mới mười hay mười một tuổi – có thể đập đầu ta bằng gậy rồi bỏ đi với đồng hồ và ví tiền của ta… đó chính là thành phố của Kẻ Tầm Xương.
Đôi khi hắn thấy mình trong tình trạng này – lái chiếc xe Taurus XL màu bạc thật bảnh của mình trên con đường nhựa êm ái nghe đài WNYC[74] và thấy khó chịu, như tất cả người New York khác, khi hụt đèn xanh, băn khoăn vì cái lý do quái gì mà thành phố không cho ta rẽ phải khi có đèn đỏ.
Hắn nghiêng đầu và nghe mấy tiếng đập vọng ra từ cốp xe. Nhưng tiếng ồn bên ngoài lớn tới nức không ai có thể nghe thấy sự chống cự của Hanna.
Đèn xanh.
Tất nhiên đó là một sự kiện đặc biệt ngay cả trong thời kỳ đã thoát khỏi những thành kiến, phụ nữ được phiêu lưu trên phố vào buổi tối, không có quý ông đi kèm; và ngày nay thì điều này còn đặc biệt hơn nữa. Nhưng vào cái đêm không may mắn ấy, Hanna không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt buộc phải rời nơi ở của mình trong chốc lát. Đứa con út của cô bị sốt và chồng cô đang thành tâm cầu nguyện trong nhà thờ gần đó, cô lao vào bóng đêm đi mua thuốc đắp cho cái trán nóng như lửa của đứa con. Khi đóng cửa, cô nó với con gái cả của mình.
“Đóng cửa thật chặt con nhé. Mẹ sẽ về sớm.”
Nhưng, Chúa ơi, lời nói của cô không thành hiện thực. Ngay sau đó cô gặp James Schneider.
Kẻ Tầm Xương nhìn quanh những con phố tồi tàn ở đây. Khu vực này – gần nơi hắn chôn nạn nhân đầu tiên – là Hell’s Kitchen, khu West Side của thành phố, nơi từng là pháo đài của các băng nhóm Ireland, ngày nay là nơi sinh sống của những chuyên gia trẻ tuổi, các công ty quảng cáo, studio chụp ảnh và những nhà hàng kiểu cách.
Hắn ngửi thấy mùi phân bón và không ngạc nhiên khi bống dưng nhìn thấy một con ngựa lồng lên trước mặt.
Sau đó hắn nhận thấy con vật đó không phải là ma quỷ từ những năm 1800 mà là con ngựa được thắng vào một chiếc xe ngựa hai bánh chạy trong Công viên Trung tâm với mức phí của thế kỷ XX. Chuồng ngựa của họ đặt ở đây.
Hắn cười với chính mình. Mặc dù đó là một âm thanh ghê rợn.
Người ta chỉ có thể suy đoán về những gì đã xảy ra, vì chẳng có một nhân chứng nào. Nhưng chúng ta có thể hình dung quá rõ ràng sự khủng khiếp. Tên tội phạm lôi người phụ nữ đang cố chống cự vào con đường nhỏ, đâm cô, ý định dã man của hắn ta là chưa giết ngay cô ta mà chỉ khuất phục cô, đó là thói quen của hắn. Nhưng với sức mạnh trong tâm hồn của người đàn bà lương thiện Goldschmidt, ý nghĩ mình chắc chắn sẽ phải trở về với những đứa con còn non nớt của cô đã làm con quái thú thật ngạc nhiên khi cô liên tục tấn công hắn; cô đấm liên tục vào mặt hắn, rứt tóc trên đầu hắn.
Ngay lập tức cô thoát được và từ miệng cô vang lên tiếng thét khủng khiếp. Schneider hèn nhát đánh cô thêm một, hai cú nữa rồi bỏ chạy.
Người phụ nữa dũng cảm lê bước tới vỉa hè rồi ngã xuống, và ở đó cô đã chết trên tay một viên cảnh sát được hàng xóm gọi đến.
Câu chuyện trên xuất hiện trong một cuốn sách lúc này đang nằm trong túi quần Kẻ Tầm Xương, Crime in Old New York[75]. Hắn không thể giải thích được sự hấp dẫn kinh khủng của cuốn sách mỏng này đối với hắn. Nếu phải miêu tả mối quan hệ của hắn với cuốn sách, hắn có thể nói hắn nghiện nó. Bảy mươi lăm tuổi và vẫn còn trong tình trạng rất tốt, một hòn ngọc của nghề đóng sách. Đó là bùa hộ mệnh và vật ban phước lành cho hắn. Hắn tìm thấy nó trong một nhánh nhỏ của thư viện công cộng và hắn đã thực hiện một trong những vụ ăn cắp hiếm hoi trong đời mình bằng cách tuồn nó vào túi áo mưa và chuồn ra khỏi tòa nhà.
Hắn đọc trong chương nói về Schneider hàng trăm lần và gần như đã thuộc lòng.
Lái xe thật từ từ. Họ đã gần đến nơi.
Khi người chồng tội nghiệp của Hanna khóc nức nở bên cơ thể không còn sức sống của cô, anh ta nhìn vào mặt cô: lần cuối trước khi người ta đưa cô đến nhà tang lễ (vì theo niềm tin của người Do Thái, người chết cần được chôn cất càng nhanh càng tốt). Và anh ta nhận thấy trên gò má trắng như sứ của cô có vết thâm tím mang hình một biểu tượng lạ lùng. Đấy là một biểu tượng hình tròn trông như trăng lưỡi liềm và một dấu vết trông giống như chòm sao lơ lửng phía trên.
Cảnh sát nói rằng đó là dấu hằn do chiếc nhẫn của tên đồ tể tàn ác để lại khi hắn đánh nạn nhân tội nghiệp. Các thám tử đã nhờ đến sự giúp đỡ của một nghệ sĩ và anh ta đã phác thảo một hình ảnh bản gốc (Bạn đọc hãy tham chiếu hình XXII). Người ta đã thẩm vấn một số thợ kim hoàn trong thành phố, thu thập tên tuổi và địa chỉ một số người đã mua chiếc nhẫn như thế trong khoảng thời gian đó. Hai trong số những quý ông đã mua chiếc nhẫn hoàn toàn nằm ngoài sự nghi ngờ, vì một người là mục sư nhà thờ và người kia là giáo sư nổi tiếng trong một trường đại học danh tiếng. Còn người thứ ba là một người đàn ông mà từ lâu cảnh sát đã nghi ngờ vì có những hoạt động bất chính. Đó chính là James Schneider.
Quý ông này đã từng có ảnh hưởng trong một số tổ chức từ thiện của Manhattan: đáng kể nhất là Hội Trợ giúp bệnh nhân lao phổi và Hội Phúc lợi xã hội cho người hưởng tiền trợ cấp. Ông ta rơi vào tầm ngắm của cảnh sát khi một vài người lớn tuổi trong các nhóm nói trên biến mất không lâu sau khi Schneider đến thăm họ. Ông ta chưa bao giờ bị kết tội tấn công, nhưng sau những lần điều tra, ông ta biến mất khỏi tầm ngắm.
Sau khi Hanna Goldschmidt bị giết một cách tàn bạo, có một cuộc truy tìm thầm lặng những bóng ma mơ hồ trong thành phố nhưng vẫn không tìm ra được nơi ở của Schneider. Cảnh sát cho dán thông báo khắp khu vực trung tâm và khu vực bờ sông, đưa ra mô tả hình dạng của tên tội phạm nhưng hắn không hề e sợ; một thảm kịch thực sự, chắc chắn như vậy, dưới ánh sáng của vụ thảm sát tàn khốc đã xảy đến với thành phố đang nằm trong bàn tay ghê tởm của hắn.
Đường phố trống trải. Kẻ Tầm Xương lái xe vào con phố nhỏ. Hắn mở cánh cửa kho và lái xe theo đoạn đường dốc bằng gỗ vào một đường hầm dài.
Sau khi chắc chắn nơi này không có ai, hắn đi ra sau xe. Hắn mở cốp và lôi Hanna ra. Cô ta đầy thịt, béo, như một cái bao vải mềm oặt. Hắn lại càng giận dữ và lôi cô ta xềnh xệch xuống một đường hầm rộng khác. Xe cộ từ phía đường cao tốc West Side chạy trên đầu họ. Hắn nghe tiếng cô ta khò khè và đã định giơ tay tháo miếng băng dán miệng thì hắn cảm thấy cô ta giật mình và hoàn toàn mềm nhũn. Thở hổn hển vì phải cố gắng kéo cô ta, hắn đặt cô ta xuống nền đường hầm và nới lỏng miếng băng dính dán trên miệng cô ta. Không khí yếu ớt nhỏ giọt vào trong. Cô ta có bị ngất không? Hắn lắng nghe tim cô ta. Hình như nó vẫn đập tốt.
Hắn cắt sợi dây phơi trói mắt cá chân cô ta, nghiêng về phía trước và thầm thì: “Hanna, kommen Sie mit mir mit[76]”, Hanna, Goldschmidt…”
“Nein”, cô ta lẩm bẩm, giọng cô ta nhỏ dần rồi im bặt.
Hắn cúi gần hơn, tát nhẹ vào mặt cô ta. “Hanna, cô phải đi cùng tôi.”
Và cô ta hét lên: “Mein name ist micht Hanna[77].” Rồi đánh trúng hàm hắn.
Một chùm ánh sáng vàng lóe lên trong đầu hắn và hắn nhảy sang bên cạnh tới hai, ba feet, cố giữ thăng bằng. Hanna bật dậy, chạy mò mẫm dọc theo hành lang tăm tối. Nhưng hắn chạy rất nhanh theo cô. Hắn bắt được cô khi cô chạy chưa được mười thước[78]. Cô ngã rất mạnh, hắn ngã theo, hổn hển vì đứt hơi.
Hắn nằm nghiêng khoảng một phút, bị cơn đau chiếm lĩnh, cố gắng thở, tóm áo cô ta vì cô ta giãy giụa. Nằm ngửa, tay vẫn bị còng, cô ta cố gắng sức sử dụng vũ khĩ duy nhất mình có – hai chân, cô ta nhấc chân đạp rất mạnh vào tay hắn. Một cơn đau nhói xuyên suốt người hắn và làm găng tay hắn tuột ra. Cô ta lại nhấc chân lên, hắn thoát được gọt giày của cô ta chỉ vì cô ta nhắm trượt; cú đạp xuống đất mạnh đến nỗi nếu trúng chắc chắn hắn sẽ gãy xương.
“So nicht![79]” Hắn gầm gừ điên dại, hai bàn tay trần túm lấy cổ họng cô ta, bóp mạnh cho tới khi cô ta quằn quại van xin, rồi không còn quằn quại van xin được nữa. Cô ta giật giật vài cái rồi bất động.
Khi hắn nghe tim cô ta thì tiếng đập đã rất yếu. Lần này là thật. Hắn nhặt chiếc găng tay, đeo vào và kéo cô qua đường hầm để chỗ cái cột trụ. Trói lại chân và dán miếng băng dính mới lên miệng cô. Khi cô tỉnh lại, bàn tay hắn lang thang trên cơ thể cô. Đầu tiên cô kinh ngạc sau đó co rúm lại khi hắn chăm chút phần thịt sau tai cô. Khuỷu tay cô, quai hàm cô. Trên người cô không có nhiều chỗ làm hắn thích động chạm. Cô ta như cái bị thịt… điều này làm hắn thấy ghê tởm.
Nhưng phía dưới lớp da… Hắn nắm chân cô thật chặt. Đôi mắt cô mở to nhìn hắn lần tìm trong túi lấy ra một lưỡi dao. Không một chút chần chừ, hắn luồn con dao xuyên qua da cô sâu, tới tận đoạn xương màu vàng trắng. Cô thét lên qua lớp băng dính, một tiếng khóc điên dại, đá thật mạnh nhưng chân đã bị trói chặt. Thích không, Hanna? Cô gái sụt sùi, rên la ầm ĩ. Vì thế hắn phải nghiêng tai xuống tận chân cô để nghe tiếng động ngọt ngào của mũi dao đưa đi đưa lại trên đoạn xường. Kí… t…
Rồi hắn cầm tay cô.
Ánh mắt họ chạm nhau trong giây lát cô thảm hại lắc đầu, âm thầm van xin. Ánh mắt hắn rơi xuống cánh tay mập mạp của cô, và nhát cắt tiếp theo cũng thật sâu.. Cả người cô cứng lại vì đau. Thêm một tiếng thét man dại, câm lặng nữa. Một lần nữa hắn cúi đầu như một nhạc sĩ, lắng nghe tiếng lưỡi dao cạo trên xương cánh tay. Tới, lui. Kít, kít… Một lúc sau hắn nhận ra cô đã bất tỉnh.
Cuối cùng hắn cũng dứt được mình ra và đi về phía chiếc xe. Hắn đặt những manh mối tiếp theo, sau đó lấy từ cốp xe một cây chổi và cẩn thận quét hết dấu chân của họ. Hắn lái xe lên đoạn đường dốc, đỗ lại, vẫn để động cơ chạy và đi xuống lần nữa, cận thận quét sạch dấu bánh xe.
Hắn dừng lại và nhìn xuống đường hầm. Nhìn cô ta, chỉ nhìn không thôi. Bất ngờ, một nụ cười thoáng hiện trên môi Kẻ Tầm Xương. Hắn ngạc nhiên nhận thấy những người khách đầu tiên đã xuất hiện. Một tá những cặp mắt nhỏ tí xíu đỏ ngầu, hai tá, rồi ba tá… Có vẻ chúng đang nhìn cơ thể đầy máu của Hanna với một chút tò mò… và có thể cả đói nữa. Mặc dù mới chỉ là hình dung của hắn; Chúa biết, những hình ảnh đó cũng đủ rõ ràng.
[72] Ming Wa: Một nhà hàng Trung Quốc ở Alhambra.
[73] Rocky Raccoon: Chồn Đá, một bài hát nổi tiếng của The Beatles.
[74] WNYC: Đài phát thanh và Truyền hình Công cộng Thành phố New York.
[75] Crime in Old New York: Tội phạm ở New York.
[76] Kommen Sie mit mir mit: Đi với tôi (tiếng Đức).
[77] Mein Name ist micht Hanna: Tao không phải Hanna (tiếng Đức).
[78] Thước (yard): Thước Anh, tương đương với 0,914m.
[79] So nicht: Thôi đi (tiếng Đức).