Tiến thẳng vào trung tâm, Sachs”, giọng Rhyme vang lên trong máy bộ đàm.
Cô nhấn ga chiếc RRV, đèn đỏ nhấp nhoáng khi họ lao vào thành phố theo Xa lộ West Side. Lạnh như băng, cô tăng tốc lên tám mươi[113].
“Được, tuyệt”, Jerry Banks nói.
Đếm ngược. Phố Hai mươi ba, Hai mươi, một cú ngoặt cháy đường gần bến phà chở rác trên Phố Mười bốn. Khi họ lao qua Village, quận bán thịt, một chiếc xe lao từ phố bên cạnh ra chèn đường cô. Thay vì đạp phanh, cô đánh mạnh tay lái vọt qua vỉa hè trung tâm như kỵ sĩ vượt rào, kéo theo câu chửi thề phều phào của Banks và một tiếng còi hơi rền vang của chiếc xe tải trắng vừa kịp hoành tráng quay ngoắt lại.
“Ối chà”, Amelia Sachs thốt lên và quay lại làn đường đi về phía nam. Cô nói với Rhyme: “Anh nói lại đi. Tôi bỏ mất đoạn này.”
Giọng nói yếu ớt của Rhyme vang lên trong tai nghe của cô: “Vào trung tâm là tất cả những gì tôi có thể nói với cô. Cho tới khi chúng tôi tìm ra ý nghĩa của chiếc lá.”
“Chúng tôi đang đến Battery Park City”.
“Còn hai mươi nhăm phút nữa thuỷ triều sẽ lên”, Banks nhắc nhở.
Có thể đội của Dellray sẽ xác định được vị trí chính xác của hắn ta. Họ có thể lôi Ngài 823 vào một con hẻm nào đó với một túi táo. Nick có nói với cô về cách họ thuyết phục bọn tội phạm “hợp tác”. Lấy một túi hoa quả đập vào bụng chúng. Rất đau. Mà không để lại dấu vết. Khi đang ở tuổi trưởng thành, cô không thể nghĩ được rằng cảnh sát có thể làm như vậy. Nhưng giờ thì cô đã thấy được sự khác biệt.
Banks đập vai cô. “Kia. Có mấy cái cầu cảng cũ”
Gỗ thối, bẩn thỉu. Những nơi chốn rùng rợn.
Họ phanh kít, nhảy ra khỏi xe, chạy tới mép nước.
“Anh có đấy không, Rhyme?”
“Nói với tôi nào, Sachs. Cô ở đâu?”
“Một cái cầu cảng phía bắc Battery Park City.”
“Tôi vừa được Lon báo cáo về từ phía đông. Anh ta không tìm thấy gì.”
“Vô vọng lắm”, cô nói. “Có khoảng một tá cầu cảng. Cả một đoạn đường đi bộ nữa… Còn cảng tàu cứu hoả, bến phà và cầu cảng ở Battery Park… Ta cần đến ESU.”
“Ta không có ESU mà, Sachs. Họ không còn ỏ phe ta nữa rồi.”
Hai mươi phút nữa là thuỷ triều lên.
Mắt cô đảo quanh mép nước. Vai cô trĩu nặng vì bất lực. Tay cầm súng, cô lao về phía con sông. Jerry Banks chạy ngay theo sau.
“Cho tôi thứ gì đó về cái lá đi, Mel. Phỏng đoán, gì cũng được. Bịa ra đi.”
Bồn chồn lo lắng, Cooper nhìn từ kính hiển vi lên màn hình máy tính.
Tám nghìn loại lá cây ở Manhattan.
“Nó không có cấu trúc tế bào giống với bất kỳ thứ gì cả.”
“Nó già rồi”, Rhyme nói. “Bao nhiêu tuổi?”
Cooper lại nhìn vào cái lá. “Đã biến thành xác ướp. Tôi có thể đoán khoảng một trăm năm, hoặc ít hơn thế một chút.”
“Những thứ gì có thể tuyệt chủng trong một trăm năm qua?”
“Cây cối không bị tuyệt chủng trong một hệ sinh thái như Manhattan. Chúng luôn tái sinh.”
Một tiếng binh vang lên trong đầu Rhyme. Anh gần nhớ ra điều gì đó. Anh vừa thích vừa ghét cảm giác này. Anh có thể tóm lấy ý nghĩ như tóm một con ruồi bay chậm. Hoặc nó có thể biến mất hoàn toàn, làm anh cụt hứng.
Mười sáu phút nữa là thuỷ triều lên.
Ý nghĩ đó là gì nhỉ? Anh nhắm mắt, cố nắm bắt lấy nó…
Cái gì thế nhỉ? Nghĩ đi!
Cầu cảng… những con tàu… bốc dỡ… hàng hoá.
Bốc dỡ hàng hoá.
Mắt anh bật mở. “Mel, đấy có phải cây trồng không?”
“Ôi, quỷ thật. Tôi đi tìm những trang về cây hoang dại, không phải loại cây trồng.” Anh ta gõ máy tính quá lâu.
“Thế nào?”
“Chờ đã, chờ đã. Đây là danh sách mã nhị phân đã được mã hoá.” Anh ta quét nó. “Linh lăng, lúa mạch, củ cải đường, yến mạch, thuốc lá…”
“Thuốc lá! Thử nó xem.”
Cooper bấm chuột và hình ảnh chậm chạp hiện ra trên màn hình.
“Đúng nó!”
“Tháp trung tâm Thương mại Thế giới.” Rhyme tuyên bố. “Mảnh đất phía bắc đã từng được dùng để trồng thuốc lá. Thom, phần nghiên cứu cho cuốn sách của tôi – tôi muốn tấm bản đồ từ những năm 1740. Và cả tấm bản đồ mới mà Bo Haumann đã dùng để tìm những nơi đang dọn dẹp asbestos. Đặt chúng lên bàn, cạnh nhau.”
Người trợ lý tìm thấy tấm bản đồ cũ trong tập hồ sơ của Rhyme. Anh ta dán chúng lên bức tường gần giường. Được vẽ một cách thô thiển, tấm bản đồ cũ đã cho thấy phần phía bắc của thành phố – một cụm phía dưới hòn đảo – là các trang trại. Có ba cầu tàu thương mại trên sông, khi đó còn chưa được gọi là Hudson mà là sông Tây. Rhyme nhìn vào bản đồ thành phố hiện tại. Tất nhiên là khu đất nông nghiệp đã biến mất, các cầu tàu cũng vậy, nhưng bản đồ hiện tại cho thấy một cái cầu tàu bị bỏ hoang ở đúng vị trí một cầu cảng cũ của nhà xuất khẩu thuốc lá.
Rhyme cố gắng vươn người tới trước để đọc tên phố gần đó. Anh đã định quát Thom đưa bản đồ lại gần hơn thì từ phía cầu thang, anh nghe thấy một tiếng la lớn đấy giận dữ dưới nhà và cánh cửa bật tung vào bên trong. Kính vỡ tan.
Thom xuống cầu thang.
“Tôi muốn gặp anh ta.” Có giọng nói nhát gừng tràn ngập hành lang.
“Chỉ là…” Người trợ lý bắt đầu.
“Không. Không phải chờ một phút. Không phải chờ một giờ. Mà là ngay. Mẹ kiếp. Bây giờ.”
“Mel”, Rhyme thì thầm, “giấu chứng cứ ngay, tắt máy.”
“Nhưng…”
“Làm đi!”
Rhyme lắc đầu thật mạnh, giằng rời cái míc trên tai nghe. Nó rơi xuống cạnh chiếc giường Clinitron. Tiếng bước chân nện ầm ầm trên cầu thang.
Thom là tất cả những gì có thể để câu giờ nhưng những người khách là ba nhân viên FBI, hai người trong số họ cầm súng. Họ từ từ đẩy anh ta giật lùi để lên cầu thang.
Chúa phù hộ cho anh ta, chỉ trong năm giây, Cooper đã tháo tung cái kính hiển vi điện tử và đang bình thản tháo dỡ linh kiện với một sự quan tâm quá mức khi FBI lên hết cầu thang và lao vào phòng Rhyme. Những cái túi đựng vật chứng đã được nhét xuống gầm bàn và phủ lên bằng tạp chí Địa lý Quốc gia.
“À, Dellray”, Rhyme hỏi, “Tìm được đối tượng rồi chứ?”
“Sao anh không nói với chúng tôi?”
“Nói với các anh cái gì?”
“Rằng dấu tay ấy là đồ giả.”
“Có ai hỏi tôi đâu?”
“Đồ giả?” Cooper ngạc nhiên hỏi.
“Thực ra thì đó là dấu tay thật”. Rhyme nói như thể đó là điều rõ ràng. “Nhưng không phải của đối tượng. Anh chàng của chúng ta cần một chiếc taxi để đi câu. Và thế là hắn ta gặp – tên hắn ta là gì nhỉ?”
“Victor Pietrs”, Dellay lẩm bẩm và kể lại câu chuyện về người lái taxi.
“Rất hay”, Rhyme nói với một chút ngưỡng mộ thực sự.
“Nhặt một anh chàng Serbia có tiền án và vấn đề về tâm thần. Tôi không hiểu hắn phải mất bao lâu để tìm ứng viên này. Tuy nhiên, 823 giết ngài Pietrs tội nghiệp và ăn trộm taxi của anh ta. Cắt một ngón tay. Hắn giữ nó và nghĩ nếu chúng ta tới quá gần, hắn sẽ để lại hiện trường một dấu tay rõ đẹp để lừa chúng ta. Tôi đoán việc này đã phát huy tác dụng.”
Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Còn mười bốn phút.
“Sao anh biết?” Dellray nhìn những tấm bản đồ trên nhà Rhyme, nhưng ơn Chúa, anh ta không quan tâm đến chúng.
“Dấu tay đã khô và nhăn nheo. Tôi đoán thi thể cũng tệ hại. Anh tìm thấy nó trong tầng hầm phải không? Tôi đoán đúng chứ? Nơi anh chàng của chúng ta thích giấu nạn nhân.”
Dellray lờ anh đi và đánh hơi quanh phòng y như một con chó săn khổng lồ. “Anh giấu chứng cứ của chúng tôi ở đâu?”
“Chứng cứ? Tôi không biết anh nói gì. Nói đi, anh có phá cửa nhà tôi không? Lần trước anh vào mà không gõ cửa. Lần này thì anh phá cửa.”
“Này Lincoln, tôi đã có ý định xin lỗi anh rồi đấy…”
“Anh thật rộng lượng, Fred.”
“Nhưng giờ thì tôi sắp tóm cổ anh.”
Rhyme nhìn chiếc tai nghe có ống nói đang lủng lẳng trên nền nhà. Anh hình dung giọng Sachs thỏ thẻ trên tai nghe.
“Trả chứng cứ cho tôi, Rhyme. Anh không biết là anh đang gặp rắc rối thế nào đâu.”
“Thom”, Rhyme chậm rãi nói, “đặc vụ Dellray làm tôi giật mình đánh rơi cái tai nghe máy Walkman. Cậu giúp tôi treo nó vào thành giường, được chứ?”.
Người trợ lý đoán ý rất nhanh. Anh ta để chiếc mic cạnh đầu Rhyme, khỏi tầm mắt Dellray.
“Cảm ơn”, Rhyme nói với Thom. Rồi nói thêm. “Cậu biết đấy tôi vẫn chưa được tắm. Tôi nghĩ đến lúc rồi, cậu thấy thế nào?”
“Tôi đang băn khoăn không biết lúc nào thì anh yêu cầu”. Thom nói, như một diễn viên bẩm sinh.
“Rhyme, nói đi. Lạy Chúa, anh đang ở đâu?”
Thế rồi cô nghe thấy một giọng nói trong tai nghe. Giọng của Thom. Rỗng tuếch, khoa trương. Có gì đó không ổn.
“Tôi vừa mua miếng bọt biển mới đấy”, Thom nói.
“Trông cũng được đấy”, Rhyme trả lời.
“Rhyme?” Sachs cáu kỉnh. “Chuyện quái gì thế?”
“Mười bảy đô la đấy. Phải tốt chứ. Tôi sẽ lật anh lại đấy?
Những giọng nói khác vang lên trong tai nghe, nhưng cô không phân biệt được.
Sachs và Banks đang chạy theo mép nước, nhìn xuống những chiếc cầu cảng vươn ra dòng nước màu nâu xám của sông Hudson. Cô ra hiệu để Banks dừng lại, gập người cho đỡ cơn chuột rút dưới mỏ ác, nhỏ nước bọt xuống sông. Cố gắng lấy lại hơi thở.
Cô nghe tiếng nói qua tai nghe: “… không lâu đâu. Các vị thứ lỗi cho chúng tôi.”
“…chúng tôi sẽ đợi, anh không phản đối chứ?”
“Tôi phản đối”, Rhyme nói. “Tôi muốn được riêng tư một chút?”
“Rhyme, anh có nghe tôi nói không?” Sachs tuyệt vọng gọi. Anh ta làm cái trò quái quỷ gì vậy nhỉ?
“Không. Không có riêng tư gì cho bọn trộm vật chứng.”
Dellray! Anh ta đang ở trong phòng Rhyme. Thế thì xong rồi. Xong đời nạn nhân.
“Tôi muốn lấy lại vật chứng”, viên đặc vụ cáu kỉnh nói.
“Thế à, thứ mà anh có được chỉ là toàn cảnh một người đàn ông tắm bằng bọt biển thôi, Dellray.”
Banks định nói, nhưng cô vẫy tay bảo anh ta im lặng.
Mấy người nói vài câu cô không hiểu.
Tiếng quát tháo giận dữ của viên đặc vụ.
Sau đó là giọng nói bình thản của Rhyme: “… Anh biết không Dellray, trước kia tôi hay đi bơi lắm. Ngày nào cũng bơi.”
“Ta còn chưa đến mười phút”, Sachs thì thầm. Sóng vẫn bình thản vỗ bờ. Hai con tàu lặng lẽ lướt qua.
Dellray lầm bẩm gì đó.
“Tôi thường bơi ở sông Hudson. Sông lúc đó sạch hơn bây giờ nhiều. Ý tôi là nước rất sạch.”
Đường truyền có vấn đề. Anh nói lảng đi.
“…cầu cảng cũ. Cái cầu cảng mà tôi thích không còn nữa. Chỗ đó trước đây từng là nhà của Hudson Dusters. Băng đảng đó, anh có nghe nói về bọn chúng không? Từ những năm 1890. Phía bắc của Battery Park City bây giờ. Trông anh có vẻ buồn chán. Mệt mỏi vì phải nhìn mông thằng tàn tật rồi ư? Chưa à? Hợp với anh à? Cái cầu nằm giữa North Moore và Chambers. Tôi sẽ nhảy xuống nước, bơi quanh cầu cảng…”
“North Moore và Chambers!” Sachs la lớn. Quay ngoắt lại. Họ bỏ qua nó vì họ đã đi quá sâu xuống phía nam. Nó cách chỗ hiện tại của họ khoảng một phần tư dặm. Cô có thể nhìn thấy những cọc gỗ màu nâu lở loét, một miệng cống lớn ngập nước thuỷ triều. Còn được bao lâu nữa? Chẳng còn mấy. Họ chẳng còn cách gì cứu được ông ta.
Cô giật tai nghe và chạy nhanh ra xe, Banks chạy theo sau.
“Cậu biết bơi không?” Cô hỏi.
“Tôi ấy hả? Chỉ một, hai vòng trong bể bơi câu lạc bộ thôi.”
Họ không làm được rồi.
Sachs dừng bất ngờ, vòng nhanh xe lại, nhìn con phố vắng vẻ.
Nước dâng gần đến mũi ông.
Một con sóng nhỏ vỗ vào mặt William Everett đúng lúc ông hít vào, dòng chất lỏng mặn chát cháy vào cổ họng ông. Ông ho sặc sụa, phát ra âm thanh trầm đục, ghê rợn. Vặn vẹo. Nước tràn vào phổi. Ông tuột tay khỏi cây cột của cầu cảng chìm xuống nước, co cứng người rồi lại cố ngoi lên lần nữa, rồi lại chìm xuống.
Không, lạy Chúa… làm ơn đừng để con…
Ông lắc cái còng tay thật mạnh, cố gắng thoát ra. Chỉ có thể là phép màu thì những bắp thịt đáng thương của ông mới có thể uốn cong con ốc khổng lồ mà ông bị còng vào.
Ông xì nước trong mũi ra, đầu gục gặc trong cơn hoảng loạn. Trong một khắc, phổi ông được thông thoáng trở lại. Cơ cổ cháy bỏng – đau như ngón tay gãy của ông – vì ông phải ngửa đầu ra sau để tìm lớp không khí mỏng manh ngay bên trên mặt.
Ông được nghỉ một lát.
Rồi một con sóng nữa, cao hơn…
Và thế là hết.
Ông không thể chiến đấu được nữa. Đầu hàng. Về với Evelyn, nói lời tạm biệt…
William Everett buông xuôi. Ông bập bềnh dưới mặt nước rác rưởi, đầy đồ thải và cọng rong biển.
Rồi kinh hoàng tỉnh lại. Không, không…
Hắn đang ở đây. Tên bắt cóc. Hắn quay lại.
Everett nhao lên mặt nước, hít thêm nước vào phổi, tuyệt vọng tìm cách thoát ra. Người đàn ông chiếu ánh sáng chói vào mắt Everett và chìa con dao về phía ông.
Không, không…
Dìm ông chưa đủ, hắn còn muốn đâm ông chết. Không nghĩ ngợi gì, Everett lao về phía hắn. Nhưng tên bắt cóc biến xuống nước… và sau đó, soạt một tiếng, tay Everett được tự do.
Ông già quên phắt những lời từ biệt thầm lặng, lao như điên lên mặt nước, gấp gáp hít không khí, giật tung mảnh băng đang dán miệng. Hổn hển, nhổ nước. Đầu ông đập mạnh vào nền cầu cảng gỗ sồi ở phía trên, nhưng ông cười lớn. “Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa…”
Sau đó, xuất hiện một khuôn mặt khác… Cũng trùm đầu, trong tay là một ngọn đèn sáng chói và Everett chỉ kịp nhận ra huy hiệu của NYPD trên bộ quần áo ướt sũng của người đàn ông. Họ không cầm dao mà là kìm sắt cắt. Một người nhét miếng cao su đắng ngắt vào miệng Everett và ông hít vào một hơi oxy mát rượi đến kinh ngạc.
Người thợ lặn vòng tay ông quanh anh ta, họ cùng nhau bơi đến rìa cầu cảng.
“Hít thật sâu nào, một phút nữa là ta thoát khỏi đây.”
Ông hít căng hai lá phổi chật hẹp, nhắm mắt, cùng người thợ lặn ngụp sâu xuống làn nước được chiếc đèn vàng của người đàn ông chiếu sáng một cách ma quái. Chuyến đi ngắn nhưng thật khổ sở, ngụp thẳng xuống ngoi lên trên qua lớp nước mờ đục, vẩn bụi. Có lúc ông trượt khỏi tay người thợ lặn, họ tách rời nhau trong một khắc. Nhưng với một cú quạt nước, William Everett quay lại. Sau buổi tối hôm đó, bơi một mình trên dòng nước bập bềnh của sông Hudson chỉ còn là chuyện nhỏ.
Cô không có ý định bắt taxi. Xe bus của sân bay cũng quá tối.
Nhưng Pammy đã quá mệt mỏi vì thiếu ngủ – cả hai người đã thức suốt từ năm giờ sáng – và cô cảm thấy bồn chồn. Con bé phải được đi ngủ ngay, nó đã rúc vào chăn với chai Hawaii Punch của nó. Ngoài ra, chính Carole cũng không thể đợi tới khi họ đến Manhattan – cô chỉ là một cô gái gầy gò vùng Trung Tây, người chưa bao giờ rời Ohio trong bốn mươi mốt năm, và cô đang ao ước được nhìn thấy Quả Táo Lớn.
Carole lấy hành lý của cô và họ đi về phía cửa ra. Cô kiểm tra để chắc chắn mình không quên gì khi đi khỏi nhà Kate và Eddie buổi chiều hôm đó.
Pammy, gấu Pooh, ví, chăn, va li, ba lô màu vàng.
Đủ hết.
Bạn bè đã cảnh báo cô về thành phố. Eddie nói: “Họ sẽ xô đẩy cậu. Bọn trộm ví, móc túi…”
“Đừng chơi bài ngoài phố”, Kate nói thêm, như mẹ dặn con.
“Trong phòng khách nhà tớ mà tớ còn không chơi bài”, Carole cười, nhắc bạn mình. “Thế thì sao tớ lại chơi bài trên đường phố của Manhattan?”
Nhưng cô trân trọng sự quan tâm của họ. Gì thì gì, cô cũng đã tới nơi, một người đàn bà goá và một đứa con ba tuổi, đến thành phố lộn xộn nhất Trái Đất để tham dự hội nghị Liên Hiệp Quốc – chưa bao giờ cô nhìn thấy nhiều người nước ngoài, quỷ thật, nhiều người ở một chỗ cùng lúc như ở đây.
Carole tìm được điện thoại công cộng và gọi cho khách sạn để kiểm tra đăng ký của mình. Nhân viên trực đêm nói phòng đó đã sẵn sàng và đang chờ họ. Anh ta sẽ gặp cô sau khoảng bốn mươi nhăm phút nữa.
Họ đi qua cánh cửa tự động, không khí mùa hè làm họ sốc đến ngột thở. Carole dừng lại, nhìn quanh. Một tay nắm chặt tay Pammy, tay kia chiếc va li cũ kỹ. Cái ba lô màu vàng nặng trịch đè trĩu trên vai cô.
Họ xếp hàng cùng những hành khách khác để chờ taxi trên bến đỗ.
Carole liếc nhìn tấm bảng quảng cáo bên kia đường cao tốc, nó viết Chào mừng các đoàn đại biểu Liên Hiệp Quốc!. Tấm bảng được trang trí tệ hại, nhưng cô vẫn nhìn nó một lúc lâu; một người trên đó giống Ronnie.
Một thời gian, sau khi anh mất, khoảng hai năm trước, hầu như mọi thứ đều gợi cho cô nhớ tới người chồng đẹp trai có kiểu tóc húi cua của mình. Cô lái xe qua McDonald và nhớ anh thích Big Macs. Những diễn viên trong phim chẳng giống anh chút nào, nhưng họ có thể có cách nghiêng đầu giống anh. Đọc tờ rơi quảng cáo máy cắt cỏ, cô nhớ anh thích cắt cỏ cho mảnh sân nhỏ xíu cuả họ ở Arlington Heights.
Nước mắt lại trào ra. Và cô quay lại dùng Prozac[114] hay imipramine[115]. Nằm cả tuần trên giường. Miễn cưỡng chấp nhận đề nghị của Kate, đến nhà của cô ấy và Eddie một đêm. Hay một tuần. Hay một tháng.
Nhưng cô không khóc nữa. Cô đến đây để bắt đầu cuộc đời mới. Sự đau khổ giờ đã ở lại phía sau.
Lắc mái tóc màu vàng sẫm khỏi bờ vai đẫm mồ hôi, Carole đẩy Pammy và đá túi hành lý lên phía trước khi hàng người nhúc nhích. Cô nhìn quanh, cố tìm một chút gì đó của Manhattan. Nhưng cô chẳng nhìn được gì ngoài xe cộ chạy trên đường, những cái đuôi mây bay và một biển người, taxi, ô tô. Hơi nước bốc lên từ lỗ cống như những con ma ghê rợn, trời đêm lẫn lộn đen, vàng và mù sương.
Được rồi, thế nào mình cũng nhìn thấy thành phố ngay thôi. Cô hy vọng Pammy đã đủ lớn để có những ký ức đầu tiên về cảnh tượng thành phố.
“Con có thích chuyến phiêu lưu của chúng ta không, con yêu?”
“Phiêu lưu. Con thích phiêu lưu. Con muốn uống Waiin Punch. Mẹ làm ơn cho con một ít được không?”
Làm ơn… Từ này mới đây. Cô bé lên ba bắt đầu học cách bắt mạch cha mẹ. Carole cười: “Mẹ sẽ mua cho con ngay thôi.”
Cuối cùng thì họ cũng có xe. Cốp xe bật mở và Carole quăng hành lý vào trong, dập nắp. Họ trèo vào ghế sau và đóng cửa.
Pammy, gấu Pooh, ví…
Người lái hỏi: “Ta đi đâu?” Carole cho anh ta địa chỉ khách sạn Midtown Residence, cô phải hét qua tấm kính ngăn Plexi.
Chiếc xe nhập dòng xe cộ. Carole dựa lưng và để Pammy ngồi trong lòng mình.
“Ta có đi qua trụ sở Liên Hiệp Quốc không?” Cô hỏi.
Nhưng người đàn ông đang tập trung để chuyển làn đường và không nghe thấy cô.
“Tôi đến tham dự hội nghị”, cô giải thích. “Hội nghị Liên Hiệp Quốc.”
Vẫn không thấy trả lời.
Cô tự hỏi có phải anh ta không thạo tiếng Anh hay không. Kate cảnh báo cô rằng tất cả tài xế ở New York đều là người nước ngoài. (“Lấy mất việc làm của người Mỹ”, Eddie gầm gừ. “Nhưng đừng để tôi nói đến chuyện này.”). Cô không nhìn rõ người lái xe qua tấm kính ngăn xước xát.
Có thể anh ta chỉ không thích nói chuyện.
Họ quành vào một con đường cao tốc khác – và bất thình lình, nó kia rồi, ngay trước mặt cô, đường chân trời góc cạnh của thành phố. Chói loà. Như những đồ pha lê mà Kate và Eddie sưu tập. Một cụm khổng lồ những khối nhà màu xanh dương, màu vàng, màu bạc nằm giữa hòn đảo và một cụm khác bên trái. Nó to hơn tất cả những gì mà Carole đã từng nhìn thấy trong đời; trong một khoảnh khắc, hòn đảo trông như một con tàu khổng lồ.
“Nhìn kìa, Pammy, chúng ta đến đó đấy, trông thật đẹp, phải không con?”
Một khắc sau, quang cảnh biến mất khi chiếc xe ra khỏi đường cao tốc và quành thật nhanh xuống phía cuối đoạn đường dốc. Sau đó xe chạy trên những con phố nóng bức, trống trải, bị bao bọc bới nhưng toà nhà xây bằng gạch.
Carole nghiêng người ra trước. “Có đúng đường này đi về thành phố không?”
Lại không trả lời.
Cô đập mạnh vào lớp kính ngăn Plexi. “Anh có đi đúng đường không đấy? Trả lời tôi. Trả lời tôi đi!”
“Mẹ ơi, có chuyện gì thế?” Pammy nói và bắt đầu khóc.
“Anh đi đâu thế?” Carole quát.
Nhưng người đàn ông cứ vẫn lái xe – bình thản, đèn đỏ nào cũng dừng, không bao giờ vượt quá giới hạn tốc độ cho phép. Và khi hắn rẽ vào một bãi đỗ xe trống trải phía sau một nhà máy tối tân, bỏ hoang, hắn vẫn bật đèn xi nhan đúng luật.
Ôi không… không!
Hắn đeo chiếc mặt nạ trượt truyết rồi ra khỏi xe. Đi lại phía sau, hắn đưa tay mở cửa. Nhưng rồi hắn ngần ngại trong giây lát, cánh tay thõng xuống. Hắn cúi xuống, mặt đối diện cửa xe và gõ vào cửa kính.
Một lần, hai lần, ba lần. Như gọi bọn thằn lằn trong gian nuôi bò sát ở vườn bách thú. Hắn nhìn người mẹ và cô con gái một lúc lâu trước khi mở cửa.
Chú thích
[113] Tốc độ tám mươi: Hơn một trăm năm mươi km một giờ.
[114] Prozac: Một loại thuốc giảm đau.
[115] Imipramine: Một loại thuốc an thần.