Anh chàng Ringwood là đại diện cuối cùng của một gia đình Anh – Ái Nhĩ Lan ở thị trấn Clare, một gia đình đã sống một cuộc sống rất phóng đãng ba thế kỷ vừa qua. Dần dần, tất cả ruộng đất đã bị bán đi, nếu không cũng bị dân trong vùng đốt cháy do không chịu nổi áp bức nữa. Ngày nay, gia đình Ringwood không còn một tấc đất nào. Tuy nhiên, hậu duệ cuối cùng vẫn còn vài trăm đồng bảng tô tức và nếu đất đai sở hữu của tổ tiên đã biến mất, dù sao anh chàng vẫn thừa hưởng được một bản năng khiến anh xem toàn bộ Ái Nhĩ Lan như sở hữu của riêng mình. Do đó, anh lấy làm vui mừng rằng vùng đất này dồi dào ngựa, cáo, cá hồi, thú săn và gái.
Ringwood, khao khát những thú vui này, bỏ thời gian đi xuyên Ái Nhĩ Lan từ Dongeral đến Wexford hết năm này qua năm khác. Không có cuộc săn nào mà không có anh dẫn đầu ít nhất một lần, trên một con ngựa mượn. Không có một chiếc cầu nào mà anh chưa vượt qua vào một buổi sáng tháng năm, không có một phòng quán ăn nào mà anh không ngủ thiếp đi vào một buổi chiều mùa đông trước một đống lửa cháy trong lò sưởi.
Anh có một người bạn thân tên là Bates cũng thuộc loại như anh. Bates cũng có khuôn mặt xương xương rám gió, thái độ kiêu ngạo ti tiện và phong cách tán gái theo kiểu lãnh chúa, dù là ở nông trại hay chuồng bò.
Cả hai không bao giờ viết thư cho nhau, nhưng luôn luôn biết phải tìm người kia ở đâu vào bất cứ lúc nào. Bác soát vé xe lửa khi bắt gặp Ringwood ngồi toa hạng nhất với vé hạng ba luôn cố tình làm ngơ, báo cho anh biết về việc đi lại của ông Bates. Chẳng hạn, bác nói là đã gặp anh chàng Bates… cũng trong những điều kiện như vậy thứ năm tuần trước, khi anh chàng đi đến Killorglin một hai tuần. Cô hầu bàn ở một quán ăn của người đánh cá có thời gian để thông báo cho Bates rằng Ringwood có đi Lough Corrib để câu cá. Cảnh sát, linh mục, nhân viên coi khu săn bắn và cả công nhân sửa đường cũng truyền tin. Thành ra, khi một trong hai người biết tin, liền gói đồ ngay vào túi du lịch cũ, lấy cần câu và súng bắn để đến với bạn.
Thế rồi vào một buổi chiều mùa đông, Ringwood đang đi từ Ballyneary trở về. Ngày hôm đó đặc biệt buồn tẻ. Bỗng nhiên, anh nghe tiếng gọi của một tên lái ngựa chột quen anh đang đi ngược đường trên một chiếc xe độc mã nhẹ. Tên này báo cho anh bạn của chúng ta là hắn đi thẳng từ Galway đến đây, và nơi đó đã gặp ông Bates đang đi đến một làng tên là Knockderry. Tên lái ngựa còn nói thêm là ông Bates có dặn dồ hắn là phải báo tin này cho ông Ringwood nếu tình cừ gặp được anh.
Ringwood suy nghĩ hồi lâu về lời nhắn này và để ý thấy nó rất đặc biệt. Thật vậy, bạn anh không có nói rõ là cuộc săn bắn hay câu cá. Không lẽ anh ta đã làm quen được với một tên giàu sụ nào đó, có nhiều ngựa và sẵn lồng cho họ mượn. Ringwood tự nhủ: “Trong trường họp đó thì hắn đã nêu tên của ông giàu kia rồi. Chắc là hắn đang theo hai chị em: đó ỉà nguyên nhân hắn gọi mình. Mình chắc chắn như vậy!”.
Khi có ý nghĩ này, một nụ cười tinh ranh làm nhăn mũi anh theo kiểu con cáo. Anh lập tức xếp hành lý và đi về hướng Knockderry nơi mà những chuyến đi liên miên để săn thú lông mao, lông vũ hoặc gái chưa bao giơ đưa anh đến.
Anh thấy đường đi khá dài và, khi đến nơi, anh thấy chỗ đó thật tẻ nhạt. Cũng có những ngọn đồi như khi, thấp và buồn bao quanh ngôi làng, con sông đi qua thung lũng và luôn luôn có cái tháp bị phá vỡ ở trên một gò thấp mà ta có thể lên qua một lối đi giữa cây cối rải rác.
Bản thân ngôi làng này cũng giống như những ngôi làng khác: vai ngôi nhà nghèo nàn, chiếc cối xay gió đổ nát, nửa chục quán rượu bình dân và quán trọ nơi một nhà quý tộc đã quen với các món ăn nông thôn có thể ở.
Xuống chiếc xe thuê, Ringwood ghé vào quán trọ đó. Anh vào trong bếp, gặp bà chủ và hỏi bạn anh, ông Bates, đang ở đâu.
– Tất nhiên là ông ấy ở đây, thưa ngài – Bà chủ trả lời – Nhưng hiện giờ ông ấy đi vắng.
– Nghĩa là thế nào? – Ringwood kêu lên.
– Vali của ông ấy ở đây, và đồ đạc cũng thế. Mấy thứ đồ của ông ấy còn chiếm cả cái phòng lớn nhất của tôi (nhưng tôi còn có một phòng khác cũng đẹp như thế). Ông ấy ở quán trọ này gần như cả tuần nay. Nhưng ngày hôm kia, ông ấy ra ngoài đi dạo một chút, rồi, không biết ngài có tin không, từ đó chúng tôi không gặp lại ông ấy nữa.
– Anh ấy sẽ quay về – Ringwood nói – Bà hãy cho tôi xem một phòng, tôi sẽ ở đây để chờ.
Anh dọn đồ ở lại và chờ bạn cả buổi tối. Nhưng Bates không xuất hiện. Tuy nhiên, những việc loại như vậy không làm ai ngạc nhiên ở Ái Nhĩ Lan, còn nếu như Ringwood nôn nóng, chẳng qua là vì anh nghĩ đến hai chị em mà anh rất muốn làm quen.
Trong hai ngày tiếp theo, anh bỏ thời gian đi khắp các đường mòn trong vùng, hy vọng tìm thấy hai người đẹp hay, cùng lắm một người đẹp khác.
Anh không có ý nào định trước, nhưng anh thích một cô nông dân hơn vì anh không muốn mất thừi gian tán tỉnh.
Chiều ngày thứ nhì, khi trơi bắt đầu tối, anh đang ở cách làng khoảng một nghìn năm trăm mét. Anh gặp một đàn bò dính đầy bùn, do một cô gái chăn. Anh bạn chúng ta nhìn thấy cô gái vội dừng lại ngay. Nụ cười hình thành trên môi anh làm tăng thêm vẻ giống cáo của anh.
Đó là một thiếu nữ chưa tới hai mươi tuổi. Đôi chân trần dính bùn và bị gai làm trầy. Nhưng nàng đẹp đến nỗi khiến dòng máu quý tộc của dòng họ Ringwood bắt đầu sôi sục trong tĩnh mạch của vị đại diện cuối cùng trong dòng họ, bỗng nhiên anh chàng không cưỡng lại nổi ý muốn thèm uống một ly sữa.
Anh chờ một hai phút, rồi thản nhiên đi theo đàn bò. Anh dự định, ngay khi thấy chuồng bò, sẽ xin một ly thức uống giải khát vô tội ấy, điều này cho phép anh bắt chuyện và nhanh chóng kết thúc vụ này.
Người ta thường nói một chuyện may mắn không bao giờ đến một mình, và điều bất hạnh cũng vậy. Trong khi Ringwood đang đi theo cô bé quyến rũ ấy và tự bảo mình rằng nàng chỉ có một trong cả vùng, anh nghe tiếng chân ngựa và quay đầu lại. Một con ngựa màu ngọc trai đang tiến về phía anh, có lẽ là đến từ một đường tắt, vì vài phút trước không hề thấy nó.
Một con ngựa xám thì cũng không quan trọng lắm, nhất là khi ta đang cần gấp một ly sữa. Nhưng vì hai lý do, con ngựa xám này khác so với con khác cùng chủng loại và cùng màu: trước hết đó không phải con ngựa gầy xấu, mà cũng không phải con ngựa đua. Khi đi, nó nhấc chân trước lên một cách kỳ lạ, nó có cái đầu nhỏ xíu và lỗ mũi rộng trông khá tao nhã. Ngoài ra – việc này khiến Ringwood không còn tò mò về chủng loại của con vật – cưỡi con ngựa xám là cô gái, không thể phủ nhận được, đẹp nhất mà anh chưa bao giờ gặp trong cả đơi.
Ringwood nhìn nàng. Khi nàng từ từ ra khỏi hoàng hôn, đến lượt nàng cũng ngước mắt lên và nhìn chằm chằm Ringwood. Anh chàng quên ngay cô bé chăn bò. Hay đúng hơn anh đã quên đi tất cả.
Con ngựa đang tiến lại và vẫn tiếp tục quan sát Ringwood, mà anh cũng nhìn nàng. Và đây không còn đơn giản là một cuộc trao đổi cái nhìn mà như vừa là lời cam kết vừa là cuộc hôn nhân.
Một lúc sau, con ngựa đã vượt khỏi anh, bỏ anh lại bên đường đứng sững vì cảm phục. Ringwood không thể động đậy mà củng không thể la lên: anh đã quá xúc động nên không có một cử động nào. Anh chỉ nhìn con ngựa đi xa. Anh thấy con ngựa và cô gái cưỡi ngựa đi vào chiều hoàng hôn mùa đông, quẹo vào một cái cổng bị hư ngay khúc quanh. Trước khi đi vào, cô gái quay đầu lại và huýt sáo: chỉ khi đó Ringwood mới thấy có một con chó đứng lại bên anh đang ngửi chân anh. Lúc đầu, anh tưởng đó là một con chó nhỏ dạng sói nhưng anh nhận ra ngay đó là con chó lai. Anh thấy nó chạy khập khiễng theo cô gái cưỡi ngựa, đuôi cúp, và anh nghĩ cách đây không lâu có lẽ con chó đáng thương đã bị một trận đòn nhừ tử, do còn thấy mấy cái vết trên lưng nó.
Nhưng anh đâu có thời gian quan tâm đến con chó. Khi tỉnh lại, anh đi về hướng cổng. Đến nơi, không còn thấy cô gái nữa, nhưng anh nhận ra con đường bỏ hoang dẫn đến cái tháp bị hư trên dốc đồi.
Ringwood cho rằng cảm xúc cho ngày hôm nay như vậy là đủ và trở về quán trọ. Bates vẫn vắng mặt, như vậy tốt hơn. Ringwood muốn dành cả buổi tối này để chuẩn bị kế hoạch chiến dịch. Anh tự nhủ:
“Con ngựa này không đáng giá hai mươi bảng. Vậy, cô nàng không giàu. Càng tốt! Mà mình nhớ nàng ăn mặc cũng không đẹp lắm. Thậm chí mình không nhớ nàng mặc cái gì nữa… có lẽ là một cái áo choang hay một cái gì tương tự. Mà nàng sống trong cái tháp cũ rích ấy nữa… mình tưởng hoàn toàn đổ nát rồi chứ. Có thể chỉ còn một hai phòng còn ở được ở tầng trệt: lâu đài của sự nghèo đói! Một trong những cô gái thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng không có một xu dính túi. Nàng sống xa người tại một nơi khỉ ho cò gáy bị Chúa bỏ quên. Chắc một năm nàng cũng không gặp được một người đàn ông, hèn gì nàng nhìn mình! Nếu mình được biết chắc nàng ở đó một mình, mình không cần thư giới thiệu đâu. Nhưng làm sao mà biết được, lỡ có một ông bố, ông anh, hay một ai đó! Ôi! Thế nào mình cũng giải quyết được khó khăn thôi!”
Khi bà chủ quán trọ mang ngọn đèn đến, anh hỏi:
– Này, cái người phụ nữ trẻ cưỡi con ngựa xám kỳ quặc ấy là ai vậy?
– Một người phụ nữ trẻ, trên một con ngựa xám à? – Bà chủ quán ngạc nhiên lặp lại.
– Vâng, cô ấy đã qua mặt tôi trên đường dẫn đến đây và đi về con đường đưa đến tháp.
– Ồ! Cầu mong Đức Bà Marie Đồng Trinh phù hộ và bảo vệ Ngài! Ngài đã thấy phu nhân Murrough xinh đẹp. – Bà chủ quán nói.
– Murrough à, tên cô ấy đó hả? Thì ra đó là một cái tên lỗi lạc của miền đông Ái Nhĩ Lan. – Anh nói.
– Đúng, – Bà chủ quán trả lời – bởi vì xưa kia có những ông vua và hoàng hậu mang tên này ở vùng Connaught trườc khi người Saxon đến. Và nghe nói bà ấy có khuôn mặt của một hoàng hậu.
– Những ai nói vậy là đúng đó, Ringwood đồng ý và nói thêm: bà hãy mang cho tôi whisky và nước để tôi hoàn toàn được thoải mái.
Trong giây lát, anh xém hỏi xem cô Murrough có một ai đó tương tự như một ông bố hoặc một ông anh sống cùng cô ở trong tháp không; nhưng anh có một nguyên tắc là, đối với những vụ như vậy, nói càng ít càng tốt. Nên anh ra đống lửa ngồi và tưởng nhớ lại nhan sắc của cô gái, sắc mặt cô khi nhìn anh. Anh quyết định rằng cái cớ nhỏ nhất cũng đáng để anh đến tháp.
Ringwood không bao giờ thiếu cớ; chiều hôm sau, anh ăn diện thật bảnh và đi về hướng đường cũ. Anh đi qua cổng và đi theo con đường có hàng cây thõng xuống che mát. Dây thường xuân gần như hoàn toàn phủ hết cây tạo thành vùng tranh sáng tranh tôi bao trùm. Ringwood cố gắng nhìn thấy tháp, nhưng phía trườc con đường có khúc quanh và ngôi nhà bị che khuất.
Khi anh đi hết con đường, anh thấy cô gái đang đứng yên dường như chơ anh.
– Xin chào cô Murrough – Anh nói khi đến đủ tầm nghe của cô – Hy vọng tôi không quây rầy cô? Hình như tôi đã được vinh dự gặp một người bà con của cô cách đây không đầy một tháng ở Cork.
Lúc đó, anh đã đến đủ gần để nhìn thấy lại ánh mắt cô và anh ngưng nói. Bỗng nhiên, anh cảm thấy từ ngữ anh đang nói đều vô nghĩa.
– Tôi biết là anh sẽ đến. – Cô gái nói.
– Chúa ơi, tôi phải đến đây – Anh trả lời – Cô hãy nói… cô ở đây một mình à?
– Chỉ có một mình. – Cô trả lời và đưa tay ra như để dẫn dắt anh.
Ringwood mừng thầm vì vận may của mình và định nắm lấy bàn tay ấy. Nhưng khi đó, con chó lai nhảy phốc lên giữa hai người và suýt làm anh té.
– Nằm xuống! – Cô giơ tay lên và mắng – Về chuồng đi!
Con chó ngồi xuống, rên rỉ và bắt đầu bò phía sau cô.
– Cần phải dè chừng con chó này. – Cô nói.
– Nó dễ thương đấy chứ, – Ringwood trả lời – con chó có vẻ thông minh lắm. Tôi rất thích chó lai, chúng rất khôn. Sao? Mày muốn nói gì với ta à?
Ringwood co thói quen khen chó của các phu nhân và ngoài ra, con chó này rên rỉ và khóc lóc một cách khác thường.
– Yên đi! – Cô đưa tay lên ra lệnh và con chó im ngay – Nó là con chó lai bẩn thỉu – Cô tiếp tục nói với Ringwood – Có phải anh đến đây để ca ngợi với tôi về một con chó không nòi không giống không?
Một lần nữa, cô nhìn thẳng vào mắt Ringwood. Anh quên đi con chó tội nghiệp; cô đưa tay cho anh. Lần này, anh nắm lấy tay cô, và cả hai đi về hướng tháp.
Ringwood như đang ở cõi cực lạc. “May quá! Anh nghĩ thầm. Giờ này, có thể mình đang mất thời gian tán tỉnh cô nông dân trong một chuồng bò ẩm ướt và hôi thối, mà chắc chắn mười ăn một là cô ấy sẽ khóc và chạy đến kể hết chuyện cho mẹ! Còn đây, hoàn toàn khác hẳn!”.
Cô gái đã đẩy một cánh cửa nặng. Cô ra lệnh con chó đi ngủ và, qua một đại sảnh lát đá, cô dẫn anh bạn của chúng ta đến một căn phòng nhỏ hình vòm hoàn toàn không giống một chuồng bò, nhưng hơi có mùi mốc và ẩm, như thường có trong các ngôi nhà cũ. Những khúc củi lớn đang cháy trong lò sưởi, trước có một chiếc ghế đi-văng thấp và rộng. Phần còn lại căn phòng được trang trí theo kiểu cổ xưa thật đơn giản. “Có vẻ khá trung cổ, Ringwood nghĩ thầm. Một nơi lý tưởng cho tình yêu!”.
Nàng ngồi vào ghế đi-văng và ra hiệu cho anh ngồi cạnh nàng. Không ai nói một lời nào hết. Hoàn toàn không có tiếng động, chỉ có gió thổi và con chó đang rên rỉ cào vào cửa phòng.
Cuối cùng nàng nói:
– Anh là một trong những bọn xâm lăng saxon. – Nàng nói nghiêm trang.
– Em đừng giận – Ringwood đáp lại – Tổ tiên anh đến Ái Nhĩ Lan năm 1656. Dĩ nhiên, về mặt Liên Minh Dân Tộc Ga-en… nhưng dù sao, – Anh lấy giọng Ái Nhĩ Lan đặc để trả lời – chẳng lẽ chúng mình lại nói chuyện chính trị sao? Hai chúng ta như thế này, ngồi trước đống lửa ấm cúng, mà lại đi nói chuyện chính trị à?
– Có lẽ anh thích nói chuyện tình yêu hơn, bởi vì anh thuộc loại đàn ông coi thường các thiếu nữ đáng thương của xứ Erin xanh tươi. – Nàng cười và nói.
– Em lầm hoàn toàn rồi. Trái lại, anh thuộc loại đàn ông sống cô đơn và buồn tẻ trong khi chờ đợi mối tình thật sự mà thường lại không gặp được.
– Vâng, nhưng hôm qua, anh rất quan tâm nhìn một cô nông dân trẻ đang đưa đàn gia súc về chuồng.
– Đúng, tôi nhìn cô ấy, nhưng khi anh thấy em, là anh quên cô ấy ngay tức khắc.
– Ý muốn của tôi như thế – Nàng nói và đưa hai tay về phía anh – Anh có muốn ở lại đây với tôi không?
– Ồ! Muốn chứ. – Anh chàng vui sướng thốt lên.
– Ở luôn?
– Ở luôn – Ringwood khẳng định – Ở luôn và mãi mãi. – Anh nói thêm, vì cảm thấy thà nói hơi quá một tí còn hơn là tỏ ra bất nhã đối với phụ nữ.
Nhưng trong khi anh nói, nàng nhìn chằm chằm vào anh và nàng có vẻ tin tưởng anh đến nỗi chính anh cũng bắt đầu tin những gì anh nói.
– Ôi! – Anh la lên – Anh bị em bỏ bùa mê mất!
Anh ôm nàng. Anh đề môi mình vào môi nàng và ngây ngất đi tức khắc. Thường, anh tự hào là giữ được bình tĩnh trong những lúc như thế này nhưng lần nay, sự say sưa quá mạnh đối với anh. Dường như trí óc anh tan vào một sự dịu dàng khoái lạc và vào một đống lửa nóng bỏng. Cuối cùng khi ngọn lửa không còn giày vò anh nữa, anh nghe nàng nói: “Mãi mãi! Mãi mãi!”. Rồi anh ngất đi và chìm vào giấc ngủ.
Có lẽ anh ngủ được rất lâu. Dường như anh bị đánh thức bởi tiếng cửa mở rồi đóng lại. Trong giây lát, anh không biết mình đang ở đâu.
Nay căn phòng đã tối hoàn toàn và, trong lò sưởi, chỉ còn vài cục than hồng đang cháy. Anh nháy mắt, lắc đầu, cố nhớ lại việc. Bỗng nhiên anh nghe Bates nói chuyện với anh. Bates lẩm bẩm như còn đang ngái ngủ.
– Rồi mày cũng đến đây! – Bates nói – Tao đã cố gắng hết sức để cản mày.
– Xin chào! – Ringwood thốt lên, tưởng mình đã thiu thiu ngủ bên cạnh đống lửa ở quán trọ – Mày đó hả Bates? Ôi tao ngủ say quá. Tao cảm thấy hơi khó chịu. Trơi ơi! Thì ra đó chỉ là một giấc mơ. Mày làm sáng lên một chút đi. Có lẽ đã trễ rồi. Tao đói muốn chết! Để tao kêu người dọn cho chúng ta ăn.
– Ôi lạy Chúa, mày nằm yên đi! – Bates nói với giọng khác lạ – Tao van mày, mày đừng có kêu lên. Nếu không cô ấy sẽ đến đánh cả hai ta!
– Mày nói gì vậy? – Ringwood nói – Đánh chúng ta à? Mày điên rồi sao!
Khi ấy, một khúc củi sụp vào đống lửa, làm lóe lên một ngọn lửa nhỏ. Khi nhìn thấy đôi chân gầy và phủ đầy lông của mình, Ringwood hiểu ra tất cả.
John Collier