Người đọc

Chương 06



Đến năm thứ tư trong quan hệ nhiều chữ ít lời của chúng tôi thì một bức thư đến: “Truyện vừa gửi hay quá, cậu bé ạ. Cám ơn. Hanna.”

Giấy kẻ dòng, xé ra từ một quyển vở và xén cạnh. Câu chào viết tận trên cùng, trải ra ba dòng. Chữ viết bằng mực bút bi xanh chảy lem nhem. Hanna ấn bút rất mạnh trong khi viết, chữ hằn cả ra mặt sau. Cả dòng địa chỉ cũng mang dấu ấn mạnh của cô, hằn rõ từng chữ lên đầu và cuối trang giấy gấp đôi.

Thoạt tiên vừa xem, người ta có thể tưởng đó là chữ trẻ con. Song trẻ con viết cứng và thô, còn đây thì quá mạnh tay. Có thể nhìn thấy trở lực mà Hanna phải vượt qua để nối các nét thành chữ cái mà chữ cái thành từ. Tay trẻ con đưa xiên vẹo ra hướng nọ hướng kia và được hàng chữ níu lại, còn tay Hanna không muốn đưa vào đâu cả, phải bị ép đi tiếp. Những nét tạo ra chữ cái được liên tục viết lại từ đầu, ở đầu nét, cuối nét, trước vòng cung và móc. Mỗi chữ cái là một cuộc chiến mới, mang một độ nghiêng khác nhau, nhiều khi sai về độ cao và bề rộng.

Tôi đọc bức thư, lòng rộn ràng vui sướng và hân hoan. “Hanna viết, Hanna viết!” Trong những năm ấy, bất kể tìm được gì về đề tài mù chữ thì tôi đều đọc cả. Tôi biết sự bất lực của người mù chữ trong những việc cần thiết hằng ngày, khi tìm đường và địa chỉ hay chọn món ăn ở nhà hàng, tôi biết họ sợ hãi ra sao khi làm theo các khuôn mẫu có sẵn và các thói quen đã định hình, biết đến nỗ lực cần thiết để che giấu thiểu năng đọc viết, sự nỗ lực mà đáng lẽ dành cho cuộc sống. Mù chữ là chưa trưởng thành. Khi Hanna có được dũng khí để học đọc và viết thì cô đã bước từ trẻ con lên người lớn, một bước khai sáng.

Tôi ngắm hàng chữ của Hanna, nhìn thấy bao nhiêu sức lực và tranh đấu mà cô phải trả. Tôi tự hào về Hanna. Đồng thời tôi buồn cho cô, buồn cho cuộc đời muộn màng và hụt hẫng của cô. Buồn cho sự muộn màng và hụt hẫng của cuộc đời nói chung. Tôi nghĩ, khi thời điểm lý tưởng đã lỡ, khi ta chối bỏ quá lâu thì cuộc đời đã quá muộn, ngay cả khi nó được vận hành mạnh mẽ và cuối cùng cũng được tưng bừng đón chào. Hay là không có chuyện quá muộn, chỉ có muộn, và muộn vẫn còn hơn là không bao giờ? Tôi không biết nữa.

Sau thư đầu tiên là đều đặn các thư kế tiếp. Luôn chỉ là vài dòng, một câu cảm ơn, mong được nghe thêm của tác giả ấy hoặc không muốn nữa, nhận xét về một tác giả, một bài thơ hoặc nhân vật trong tiểu thuyết, kể lại những quan sát trong tù. “Cây đầu xuân trong sân nở hoa rồi” hay “Em thích hè này có nhiều dông” hay “Qua cửa sổ em nhìn thấy chim chóc tụ thành đàn để bay về phương Nam” – lắm lúc nhờ tin báo của Hanna mà tôi mới để ý đến cây đầu xuân, những cơn dông và lũ chim. Những nhận xét của cô về văn học nhiều lúc cũng chính xác đến ngạc nhiên. “Schnitzler sủa”, “Stefan Zweig chó chết”, “Keller thiếu đàn bà”, “Thơ của Goethe như các bức tranh nhỏ đóng trong khung đẹp” hay “Chắc là Lenz đánh máy chữ”. Vì không biết gì rõ rệt về các tác giả nên khi không biết thì cô cho rằng họ còn sống. Tôi sửng sốt khi nhận thấy rất nhiều khi văn học ngày xưa đọc được như thể của hôm nay, và ai không biết gì về lịch sử thì lại càng dễ cho rằng những khung cảnh ngày xưa chỉ là khung cảnh ở các nước xa xôi.

Tôi không bao giờ viết thư cho Hanna. Nhưng tôi vẫn đọc truyện tiếp cho cô. Lúc tôi sang Mỹ một năm, tôi gửi cassette từ đó. Khi nào đi nghỉ hay bận việc, có thể rất lâu mới xong băng mới; tôi không đặt ra một nhịp điệu cố định, mà gửi cassette khi thì mỗi tuần, khi thì mười bốn ngày hoặc cũng có thể là ba, bốn tuần một lần. Tôi không quan tâm đến việc Hanna giờ đây đã học chữ và có thể không cần các băng ghi âm của tôi nữa. Cô vẫn có thể đọc thêm. Đọc truyện là hình thức để tôi nói chuyện với cô.

Tôi giữ lại tất cả thư của cô. Dạng chữ biến đổi. Đầu tiên cô ép các chữ cái theo cùng một hướng nghiêng, độ cao và bề rộng. Xong việc đó rồi, cô viết nhẹ nhàng và chắc chắn hơn. Hanna chưa bao giờ viết trôi chảy. Nhưng chữ cô đạt được một chút vẻ đẹp nghiêm chỉnh riêng biệt của người lớn tuổi ít viết lách trong đời.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.