Người Đưa Tin

Chương 25 phần 2



Năm phút sau, Gabriel đến chi nhánh cho thuê biệt thự Sibarth. Ra đón anh là một phụ nữ người Anh chính gốc, có mái tóc nâu vàng như vệt nắng và cặp mắt xanh lơ. Gabriel đóng vai Heinrich Kiever, một người Đức ‘lỡ yêu’ hòn đảo thiên đường này và mong ước được ở lại lâu hơn. Người phụ nữ Anh mỉm cười – cô đã nghe rất nhiều câu chuyện như thế và bắt đầu in ra cả danh sách những chỗ còn trống để cho thuê. Gabriel nhìn qua bản danh sách và cau mày. “Tôi đã hi vọng là còn chỗ ở khu này”. Anh gõ vào tấm bản đồ đang trải ra trên bàn. “Chỗ này, phía bắc của hòn đảo”.

“Point Milou à? Vâng, chỗ đó rất hay, nhưng tôi e rằng không có biệt thự trống vào thời điểm này thưa ông. Nhưng chúng ta có chỗ ở đây. Kế bên Point Milou, là Point Mangin”. Cô ta gõ gõ vaò điểm kế bên.

“Có thể nhìn thấy Point Milou từ căn biệt thự ở Point Mangin không?”

“Vâng, khá rõ. Ông có muốn xem hình ảnh của nơi đó không?”

“Vâng, phiền cô”.

Người phụ nữ đưa ra một tập sách thông tin và mở đúng trang cần xem. “Căn biệt thự có 4 phòng ngủ, thưa ông Herr Kiever. Ông có cần căn nhà lớn cỡ này không?”

“Thật ra chúng tôi có thể có thêm bạn đến viếng thăm”.

“Vậy tôi nghĩ căn biệt thự này hợp với ý định của ông rồi. Hơi đắt tiền, 12,000 euro một tuần, và điều kiện là ông phải mướn ít nhất hai tuần”.

Gabriel nhún vai như thể muốn nói tiền đối với anh không phải là vấn đề.

“Không được mang theo trẻ con và tuyệt đối không có thú nuôi. Ông không nuôi chó đúng không ạ?”

“Thề có Chúa, không bao giờ nuôi chó”.

“Xin ông vui lòng đặt cọc, tổng cộng số tiền bây giờ là 2,600 euro và dĩ nhiên là có thể trả trước luôn”.

“Khi nào thì chúng tôi nhận nhà được?”

Cô ta nhìn đồng hồ đeo tay. “Giờ là 10 giờ 15 phút. Nếu ta nhanh chóng làm xong mọi thủ tục thì ông và vợ có thể nhận nhà chậm nhất là 11 giờ 30 phút”.

Gabriel mỉm cười và đưa thẻ tín dụng cho cô nhân viên.

Người phụ nữ Anh đó không biết rằng Gabriel và Gina chuyển vào biệt thự được mười lăm phút thì các vị khách đầu tiên bắt đầu lục tục đến, nhưng thực chất họ đã ổn định trong nhà tự lúc nào rồi. Đồ đạc của họ cũng khá giống những du khách khác trên đảo. Mordecai đem theo cái máy thu kích hoạt giọng nói và một máy ảnh Nikon trang bị ống kính dài. Mikhail đến với một túi điện thoại di động, radio, và bốn khẩu súng ngắn. Một giờ sau, lần đầu tiên họ được quan sát con mồi của mình khi hắn chường mặt trên ban công trong chiếc quần soóc trắng và áo sơ-mi tay dài. Mordecai chụp vài bức hình của hắn. Năm phút sau, al-Nasser bơi một chút và cởi trần leo lên bờ, Mordecai chụp thêm vài bức nữa. Gabriel kiểm tra lại hình ảnh trên máy vi tính, nhưng anh cho rằng những bức ảnh này không đáng để gửi đến cho Đại lộ King Saul phân tích.

Lúc 1 giờ trưa, máy thu tín hiệu kích hoạt giọng nói chuyển từ đỏ sang xanh. Một giọng nói phát ra từ đường dây, tiếp theo là giọng của ai đó trong nhà đang quay số. Sau hai tiếng chuông reng, người nữ tiếp tân ở nhà hàng La Gloriette nhấc máy. Gabriel nhắm mắt lại thất vọng khi giọng nói kế tiếp là ‘phu nhân’ al-Nasser đặt chỗ cho bữa trưa lúc 2h. Anh nhanh chóng xem xét việc bố trí một đội trinh thám trong nhà hàng nhưng xua ngay ý nghĩ ấy sau khi nghe được mô tả về phòng ăn tù túng bên cạnh bờ biển. Tuy nhiên Mordecai vẫn cứ chụp al-Nasser thêm hai tấm nữa, một tấm là lúc hắn ra khỏi xe trong bãi đậu xe và tấm thứ hai là khi hắn nhấp rượu trong bàn ăn. Trong cả hai hình hắn đều mang kính đen và mặc áo sơ mi dài tay. Gabriel gửi hình cho đại lộ King Saul. Một giờ sau, khi al-Nasser và vợ rời nhà hàng, đại lộ King Saul trả lời trên đường dây tình báo rằng kết quả không thể xác định được.

Lúc 3 giờ rưỡi, chúng rời nhà hàng La Gloriette và chạy về làng Saint-Jean, tới đó al-Nasser để vợ hắn xuống tiệm uốn tóc. Từ đây hắn chạy thẳng đến Gustavia và lúc 3 giờ 50 phút hắn lên xuồng để ra chiếc du thuyền Alexandra. Yossi thu lại hình ảnh hắn lên thuyền, cùng với cái ôm thắm thiết hắn nhận được từ Zizi al-Bakari. Sau đó chúng đi lên văn phòng phía trên để họp kín. Sarah không có mặt trên tàu để thấy al-Nasser đến, vì thời điểm đó cô và phần lớn bọn tay chân của Zizi đang lặn có ống thở ở vùng Ile Fourche, một khu đảo nhỏ hoang vắng cách Saint-Bart khoảng một dặm.

Cuộc gặp kéo dài chừng một tiếng. Yossi ghi hình al-Nasser lúc hắn rời văn phòng Zizi và cả biểu hiện quyết tâm trên mặt hắn lúc xuống xuồng quay trở lại Gustavia. Mikhail bám theo hắn về tới làng Saint-Jean lúc 6 giờ tối, al-Nasser đón vợ từ tiệm uốn tóc. Lúc 6 giờ rưỡi hắn lại lao vào cữ bơi chiều một lần nữa. Mikhail ngồi ủ rũ bên Gabriel trong căn biệt thự ở phía bên kia vịnh.

“Chúng ta chơi trò đuổi bắt với hắn cả ngày”, Mikhail nói, “Mà chúng ta đạt được gì? Mấy tấm hình vô dụng. Alain al-Nasser rõ ràng chính là bin Shafiq rồi. Chúng ta bắt hắn đi và kết thúc vụ việc cho gọn”.

Gabriel nhìn Mikhail bằng con mắt của một kẻ dạn dày kinh nghiệm. “Một ngày nào đó khi cậu già hơn và khôn hơn một chút, tôi sẽ kể cho cậu nghe về cái đêm một nhóm tình báo nghĩ rằng giải thưởng cho việc bắt được bọn tội phạm đã nằm trong tay. Nhưng không ngờ họ lại giết lầm một anh bồi bàn vô tội”.

“Tôi biết câu chuyện đó rồi Gabriel. Chuyện xảy ra ở Lillehammer. Phòng tình báo vẫn gọi chuyện đó là Leyl-ha-Mar, tức là ‘đêm của sự cay đắng’, nhưng nó xảy ra cũng lâu rồi mà”.

“Đó vẫn là sai lầm ngớ ngẩn nhất trong lịch sử của Văn phòng. Họ giết nhầm người và bị bắt vì chuyện đó. Họ phá hết các quy tắc. Họ hành động hấp tấp và họ để cảm xúc lấn át lí trí. Chúng ta đã đi quá xa nên không thể có thêm một ‘đêm của sự cay đắng’ nào nữa. Thứ nhất, ta phải có bằng chứng – bằng chứng không thể bác bỏ được – rằng Alain al-Nasser là Ahmed bin Shafiq. Chỉ khi đó chúng ta mới bắt đầu nói đến chuyện thủ tiêu hắn. Và chúng ta chỉ bóp cò súng sau khi đã đưa Sarah trở về và cả đội biến khỏi hòn đảo này một cách an toàn”.

“Làm thế nào ta tìm được chứng cứ?”

“Mấy tấm hình chưa đủ nên ta cần thêm giọng nói của hắn nữa”. Gabriel trả lời.

“Hắn không nói gì cả”.

“Tất cả mọi người đều phải nói chuyện chứ. Chúng ta phải làm cho hắn nói chuyện trong khi theo dõi hắn”.

Ngay lúc đó đèn của máy thu âm điện thoại chuyển sang màu xanh và tiếng quay số vang rền. Cuộc gọi của phu nhân al-Nasser chỉ dài có ba mươi giây. Gabriel nghe lại cuộc thoại chỉ để chắc rằng anh đã ghi chú đúng các chi tiết.

“Nhà hàng Le Poivre xin nghe”.

“Chúng tôi muốn đặt bàn cho hai người lúc 9 giờ”.

“Chúng tôi đã có người đặt bàn vào giờ đó rồi thưa bà. Chúng tôi có thể sắp xếp cho quý khách vào 8 giờ hoặc 8 giờ 30 phút”.

“8h thì quá sớm. Thôi vậy chúng tôi đặt bàn 9 giờ 30 phút”.

“Xin bà cho biết quý danh ạ”.

“Al-Nasser”.

Gabriel nhấn nút ‘ngừng’ và nhìn Mikhail – Kiên nhẫn đi cậu trai. Phần thưởng chỉ đến với những người biết bền chí.

Nhà hàng Le Poivre là một trong những viên ngọc chưa được khám phá của hòn đảo này. Nó nằm ở rìa của một trung tâm mua sắm nhỏ nhắn ở Saint-Jean, ngay giao lộ giữa con đường chính dọc bờ biển và một con đường hẹp dẫn lên cao, nơi có thể nhìn thấy cả bãi biển. Nhà hàng không có quang cảnh mở với bãi đậu xe chen chúc và không khí chật hẹp bên trong. Phòng ăn chỉ cỡ một cái sân nhỏ trung bình ở vùng ngoại ô. Phục vụ cũng rất bình thường, nhưng thức ăn – khi cuối cùng nó cũng được bưng ra – thì tuyệt nhất trên đảo. Cũng nhờ vị trí tầm thường của mình mà nhà hàng Le Poivre được nhiều người nổi tiếng ưa ghé qua. Vì họ luôn có cảm giác bị quấy nhiễu bởi báo chí và công chúng, nên việc hiếm khi bị bắt gặp ở nhà hàng này khiến họ cảm thấy thoải mái. Hơn thế, nơi này cũng chưa bao giờ xảy ra những chuyện bất bình thường. Đó là lí do tại sao đến ngày hôm nay, người ta vẫn luôn nhắc về rắc rối bất ngờ đã xảy ra với ông bà al-Nasser.

Nhân viên ở nhà hàng nhớ rõ câu chuyện này, cũng như người dân địa phương đang uống rượu cạnh quầy bar vào lúc đó. Vào buổi chiều, trong khoảng thời gian bận rộn giữa buổi ăn trưa và buổi ăn tối, nhân viên thường đếm lại số ly rượu nho hoa hồng, số tách cà phê espresso hoặc số điếu thuốc lá đã bán ra. Bà Al-Nasser đặt bàn lúc 9 giờ 30 phút, nhưng họ lại đến sớm hơn. Odette, cô chủ nhà hàng trực vào tối hôm đó, nhớ rằng chuyện xảy ra lúc 9 giờ 15 phút nhưng Étienne, người pha chế rượu, sẵn sàng nói một cách chắn chắn rằng lúc đó là 9 giờ 20 phút. Vẫn chưa có bàn trống vào thời điểm đó, vì thế họ phải ngồi đợi trên quầy bar. Dĩ nhiên chính Étienne là người phục vụ rượu rồi. Phu nhân al-Nasser với một ly sâm-panh. Nước ép dứa cho quý ông. “Tôi có thể giúp gì thêm cho ông bà nữa ạ?”. Étienne hỏi nhưng quý ông mỉm cười lịch sự và trả lời bằng giọng chỉ hơn lời thầm thì một chút. “Nước ép trái cây là đủ”.

Sau 9 giờ 30 phút mới có bàn cho họ. Thêm một lần nữa có sự tranh cãi về thời gian. Denise, người nữ phục vụ, nhớ lại rằng lúc đó là 9 giờ 40 phút, nhưng Odette, người quản lí phiếu đặt chỗ và tính giờ, thì thề rằng lúc đó chỉ khoảng 9 giờ 35 phút thôi. Hết rắc rối về chuyện giờ giấc thì lại đến việc ông bà al-Nasser không hài lòng với cái bàn mới của mình. Bà al-Nasser phàn nàn nó quá gần toa-lét, nhưng có người cho rằng ông al-Nasser không thích cái bàn vì một lí do khác, dù chẳng ai biết được lý do đó là gì?

Gần 10 giờ mới có một cái bàn khác trống chỗ. Cái bàn này lại sát bên một đường ray xe lửa nhìn ra ngoài đường. Ông al-Nasser ngồi ở cái ghế đối diện quầy bar, nhưng Étienne nhớ rằng ánh mắt của ông ấy cứ dán chặt vào dòng xe cộ đang lưu thông trên con đường trên bờ biển. Denise trao cho họ thực đơn bữa ăn tối và nhận phần gọi món của họ. Quý bà gọi một chai rượu vang – theo Denise thì đó là loại Côtes du Rhône, theo Étienne thì đó là loại Bordeaux. Nhưng không có ai tranh cãi về màu rượu hết. Hẳn nhiên là màu đỏ rồi, và cũng dĩ nhiên, phần lớn rượu sẽ văng tung tóe lên bộ quần áo vùng nhiệt đới màu trắng của quý bà.

Chất xúc tác cho những rắc rối đến với nhà hàng Le Poivre vào lúc 10 giờ 15 phút. Một gã với vóc người nhỏ thó và không có đặc điểm gì gây được ấn tượng ngật ngưỡng bước vào nhà hàng. Étienne cho rằng cùng lắm gã ta chỉ cao cỡ 1,65 mét và nặng 70kg thôi. Gã mặc chiếc quần soóc kaki lôi thôi có vẻ như ít khi được giặt, trên người là chiếc áo thun xám rộng quá khổ mà vạt áo trái bị rách, thêm đôi săng-đan khóa dán và chiếc mũ đánh gôn tả tơi. Thật lạ là không ai có thể nhớ lại một cách chính xác khuôn mặt của gã. Étienne nhớ rằng gã đeo cặp mắt kính lỗi thời. Odette mường tượng ra bộ râu quai nón không được tỉa tót mà cũng chẳng hợp với diện mạo. Denise chỉ nhớ cách gã bước đi. Dáng khá linh hoạt đấy, theo Denise thì là như vậy. Dáng đi ấy có thể là của một người đàn ông chạy rất nhanh, hoặc là của một người giỏi môn bóng đá.

Đêm đó, không ai trong nhà hàng biết tên gã là gì. Vì vậy sau này người ta gọi gã một cách đơn giản là ‘Claude’. Gã từ Gustavia đến Saint-Jean bằng xe mô tô và đã uống Heineken cả buổi tối ở vài quán nào đó trước khi đến Le Poivre. Lúc 10 giờ 15 phút, gã vào nhà hàng tìm bàn để ngồi, hơi thở nồng nặc mùi bia và thuốc lá. Cơ thể gã cũng tỏa ra thứ mùi hỗn hợp ấy. Khi Odette giải thích rằng không còn bàn nào trống cả.“Và rằng tôi cũng không muốn xếp chỗ cho gã nếu vẫn còn bàn trống”. Odette nói thêm, và kể rằng lúc ấy gã kia lầm bầm rồi hỏi mượn chìa khóa toa-lét. Odette nhã nhặn trả lời rằng toa-lét chỉ dành cho khách của nhà hàng. Thế là gã đưa mắt nhìn Étienne và bảo “Heineken”. Étienne đặt chai bia lên quầy bar, nhún vai với Odette và đưa chìa khóa cho gã.

Gã ở trong toa-lét bao nhiêu lâu cũng là một trong những vấn đề đáng bàn cãi. Người ta phỏng đoán khoảng độ từ 2 phút đến 5 phút thôi, và giả thuyết đó chính xác đến ngạc nhiên nếu so với những gì gã làm trong đó. Đôi vợ chồng tội nghiệp ngồi ngay ở cái bàn ông bà al-Nasser đã từ chối ngồi sau này mô tả rằng gã ‘tè’ liên tù tì bất tận. Sau đó là tiếng giật nước nhiều lần và tiếng nước chảy trong bồn cầu ào ào. Cuối cùng gã cũng mở cửa toa-let bước ra, thản nhiên kéo dây quần lên và mỉm cười như vừa trút được gánh nặng khủng khiếp. Gã bắt đầu đi ngược về phía quầy bar, chăm chú nhìn vào chai Heineken trên quầy. Và rồi rắc rối xảy ra.

Denise chỉ vừa mới rót rượu vào ly cho bà al-Nasser thêm một lần nữa. Quý bà nâng ly định uống thì chợt hạ ly xuống vì kinh tởm khi thấy cảnh Claude bước ra khỏi toa-lét với đôi tay vẫn đang còn ‘vướng bận’ chỗ đũng quần kaki của mình. Bà đặt ly rượu lên bàn, thả tay ra để ngả người về phía trước và kể cho quý ông al-Nasser về cảnh tượng mình vừa mục kích. Khi Claude loạng choạng bước ngang qua, tay gã đụng vào ly rượu trên bàn làm đổ hết rượu vào mình bà al-Nasser.

Những gì xảy ra sau đó được miêu tả rất khác nhau tùy theo ai là người kể lại câu chuyện. Tất cả đều đồng ý là Claude đã tỏ ra cố gắng xin lỗi một cách chân thành, và tất cả đều đồng ý rằng ông al-Nasser đã chọn cách ‘làm lớn chuyện’. Lời lẽ nặng nề được hai bên dành cho nhau và tiếp theo là những lời đe dọa sẽ giải quyết bằng bạo lực. Sự việc lẽ ra đã có thể được giải quyết êm thấm nếu như Claude không đề nghị được trả tiền giặt ủi cho bộ cánh vấy bẩn quý bà đang khoác trên người. Khi lời đề nghị ‘chuộc tội’ bị từ chối thẳng thừng, gã với tay lấy cái bóp tiền trong túi quần kaki ra và móc vài đồng euro nhàu nát thảy vào mặt quý ông al-Nasser. Denise cố gắng tránh ra chỗ khác ngay khi quý ông al-Nasser túm cổ Claude kéo ra phía cửa lớn. Quý ông giữ gã ở đó một hồi, sỉ vả lớn tiếng vào mặt gã rồi xô gã xuống mấy bậc tam cấp.

Có tiếng vỗ tay lạch bạch từ những người khách trong nhà hàng và cả tiếng xuýt xoa quan tâm đến tình trạng thảm hại của bộ quần áo bà al-Nasser đang mang trên người. Chỉ có Étienne là quan tâm đến bóng người ngã sõng xoài trên lề đường. Anh giúp gã đứng dậy và cẩn thận dõi theo gã đến khi gã nhảy lên chiếc mô tô và lảo đảo chạy xuống con đường bờ biển. Đến ngày hôm nay Étienne vẫn nghi ngờ tính xác thực của sự việc xảy ra tối hôm ấy. Là đai đen karate, anh thấy dáng đi của gã say rượu giống dáng đi của một người cũng học võ karate. Nếu gã đàn ông nhỏ thó đeo kính và nón đánh gôn đó đánh trả lại, Étienne nói một cách quả quyết với tất cả kinh nghiệm của người học võ, rằng gã ta có thể bẻ tay quý ông al-Nasser gãy lìa và đem ra dọn thành món ăn tối cùng với rượu Bordeaux cho quý ông.

“Không phải là Bordeaux”, Denise sẽ nói với bạn như thế. “Là Côtes du Rhône cơ”.

“Côtes du Rhône hay Bordeaux không quan trọng. Tôi sẽ kể cho bạn nghe một điều nữa, là khi gã đê tiện thấp bé ấy phóng xe đi, gã cười toe toét đến tận mang tai. Như thể gã vừa trúng số độc đắc vậy”.

Eli Lavon quan sát màn diễn xuất của Gabriel từ bãi đậu xe, và vì thế cũng chính Lavon là người kể lại toàn bộ câu chuyện cho cả đội nghe ở biệt thự của họ tối hôm đó. Gabriel chậm chạp lê từng bước trên sàn nhà lát gạch, vừa chăm sóc vết thương vừa giữ một bọc nước đá nơi khuỷu tay sưng tấy của mình. Tâm trí anh đang tập trung vào cảnh tượng xảy ra cách ngôi biệt thự này nửa vòng trái đất. Ở Tel Aviv, một nhóm chuyên gia về khoa học phân tích nhận dạng giọng nói đang quyết định xem người đàn ông mang tên Alain al-Nasser sẽ sống hay phải chết. Gabriel đã biết câu trả lời. Anh biết ngay từ giây phút con mồi của anh đứng dậy khỏi bàn và tham gia vào cuộc xung đột chết người ấy. Và anh đã thấy chứng cớ chỉ sau vài giây, khi anh thành công trong việc lật ống tay áo phải của con mồi và thấy vết sẹo xấu xí vì đạn bắn trên cẳng tay của hắn. Lúc 11 giờ 30 phút, biệt thự bên kia vịnh tắt đèn. Gabriel bước ra sân thượng. Phía biệt thự bên kia Ahmed bin Shafiq cũng thế. Mikhail có cảm tưởng hai người đàn ông đó đang nhìn nhau chằm chằm qua khoảng tối sẫm giữa hai ngôi biệt thự. Lúc 11 giờ 35 phút điện thoại vệ tinh rung khe khẽ. Yaakov bắt máy, anh lắng nghe trong im lặng rồi gác máy gọi Gabriel…

———————

. 1 inch = 2.54cm

. 1 Loại gồm hai miếng bằng sợi nilông, một nhám một trơn, khi ép lại sẽ dính chặt nhau.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.