Nữ Bá Tước Đờ Caliôxtrô

CHƯƠNG 5: MỘT NHÁNH CỦA CÂY ĐÈN



Những truyện mà nhân vật của chúng bị sa vào những cuộc phiêu lưu kỳ cục nhất, rồi đến khi kết thúc anh ta mới vỡ lẽ ra rằng mình chỉ là một thứ đồ chơi của một giấc mơ. Raun chính là một người như vậy. Khi chàng tìm lại chiếc xe đạp của mình ở sườn dốc bên bờ đường mà chàng đã giấu ở đó ngày hôm trước thì chàng đột nhiên tự hỏi không hiểu có phải là mình vừa trải qua một loạt giấc mơ, lần lượt từ những giấc mơ thú vị đến những giấc mơ sinh động, đáng sợ và cuối cùng là những giấc mơ đầy thất vọng hay không?
Nhưng cái giả thiết ấy không hề làm Raun thất vọng. Sự thật được chứng minh bởi bức ảnh chàng đang có trong tay, và hơn thế nữa bởi cái kỷ niệm say sưa về nụ hôn mà chàng ăn cắp được trên làn môi của nàng Giôdephin Banxamô. Đó là một điều chắc chắn mà chàng không thể từ bỏ được.
Đến lúc này chàng mới nhận ra với vẻ hối hận thoảng qua rằng lần đầu tiên chàng mới nghĩ một cách rõ ràng đến Clarix Đêtigơ và đến những giây phút ngọt ngào của buổi sáng hôm trước. Nhưng ở cái tuổi của Raun, những điều vô tâm và mâu thuẫn tình cảm này rất dễ dàn xếp; dường như chàng đã tách mình ra làm hai con người, trong đó một con người vẫn tiếp tục yêu một cách vô ý thức trong cái phần của tương lai vẫn chưa được nghĩ tới, còn một con người khác thì điên cuồng phó mặc cho một nỗi đam mê mới. Hình ảnh của Clarix hiện ra lờ mờ và đau khổ như một bức ảnh treo đằng sau bàn thờ của một nhà thờ nhỏ có những cây đèn lung linh mà thỉnh thoảng chàng vẫn tới cầu nguyện. Nhưng còn nữ bá tước đờ Caliôxtrô thì đột nhiên trở thành một thần tượng duy nhất mà chàng ngưỡng mộ, một thần tượng bạo ngược và ghen ghét sẽ không cho phép người ta lấy cắp của mình một ý nghĩ nhỏ nhất hay một điều bí mật nhỏ nhất nào.
Raun Đăngđrêxi chưa bao giờ yêu ai. Thực tế là chàng thiếu thời gian hơn là thiếu dịp may. Chàng là một người đầy tham vọng, nhưng vì không biết làm thế nào và hướng vào đâu để thực hiện những ước mơ vinh quang, giàu sang và quyền lực, nên chàng đã tiêu phí sức lực vào bất cứ việc gì mong rằng sẽ được số mệnh đáp ứng. Là một chàng trai thông minh, có tinh thần, có ý chí, khéo tay, có sức khỏe, dẻo dai, mềm mỏng, chàng đã sử dụng tất cả mọi tài năng của mình cho đến giới hạn cuối cùng, nhưng bản thân chàng cũng ngạc nhiên thấy rằng cái giới hạn này luôn luôn lùi bước trước sức mạnh của những nỗ lực của chàng.
Chàng đã phải sống như vậy mà không hề có một nguồn cung cấp nào. Mồ côi cha mẹ từ mấy năm nay, một mình tự lập, không bạn bè, không họ hàng, không nghề nghiệp, vậy mà chàng vẫn sống. Nhưng sống thế nào? Đó là một điều chàng cũng không xem xét đến nơi đến chốn. Chàng đã sống theo khả năng cho phép. Tùy theo hoàn cảnh mà chàng giải quyết các nhu cầu của mình.
– Vận may sẽ thuộc về ta, – chàng vẫn tự nhủ. – Cứ tiếp tục sống đi. Cái gì tới sẽ tới, và ta tin rằng điều phải tới sẽ là một điều tuyệt diệu.
Và chính lúc đó chàng lại gặp phải Giôdephin Banxamô trên đường đời của mình. Ngay tức khắc chàng cảm thấy rằng muốn chinh phục được nàng thì chàng phải vận dụng mọi thành quả mà chàng đã mất bao nhiêu năng lực mới tích luỹ được.
Và theo chàng, Giôdephin Banxamô chẳng có tí gì giống với “con mụ quỷ quyệt” mà Bômanhăng đã muốn vẽ lên trước trí tưởng tượng của các chiến hữu của ông ta. Tất cả cái quang cảnh đẫm máu ấy, tất cả những chuyện về tội ác và thói xảo trá ấy cùng tất cả những trò phù phép đồng bóng, đều biến mất như một con ác mộng trước cái tấm ảnh duyên dáng trong đó hiện lên đôi mắt trong sáng cùng làn môi thanh tú của người đàn bà.
“Tôi sẽ tìm thấy nàng, – chàng vừa thề thốt vừa hôn tới tấp lên bức hình, – và nàng sẽ phải yêu tôi như tôi đang yêu nàng đây, và nàng sẽ thuộc về tôi như một người tình ngoan ngoãn nhất và cũng đáng yêu nhất.
Tôi hiểu rõ cuộc sống bí ẩn của nàng như hiểu rõ một cuốn sách. Tôi hiểu cái khả năng bói toán của nàng, hiểu những trò phù phép của nàng, hiểu cái tuổi trẻ khó tin của nàng, tất cả những cái đã làm cho mọi người hoang mang và kinh ngạc, cũng như những mánh khóe lọc lõi khác mà cả hai ta cùng đem ra giễu cợt. Nàng sẽ thuộc về ta, Giôdephin Banxamô ạ”.
Tạm thời chính bản thân Raun cũng cảm thấy lời thề của mình có vẻ táo tợn. Nói cho cùng chàng vẫn thấy e ngại Giôdephin Banxamô, chàng vẫn có một chút bực mình đối với nàng, cũng giống như một đứa trẻ muốn được quyền bình đẳng nhưng lại phải khuất phục một kẻ mạnh hơn nó.
Hai ngày liền chàng giam mình trong căn phòng nhỏ của chàng ở dưới tầng trệt của quán trọ, căn phòng này có cửa sổ trông ra một vườn táo. Đó là những ngày chàng dành cho suy ngẫm và chờ đợi, và tiếp đó là một buổi chiều dạo chơi ngoài đồng, nghĩa là ở chính cái nơi mà có thể chàng sẽ gặp Giôdephin Banxamô.
Sự thực là chàng giả định một cách đúng đắn rằng, sau một trận thử thách kinh khủng như vậy, người đàn bà chưa thể về nhà trọ của mình ở Pari được. Vừa thoát chết, nàng cần phải để cho những kẻ lập mưu giết nàng tin rằng nàng đã chết. Mặt khác, để trả thù bọn chúng và cũng để giành trước cái mục tiêu mà bọn chúng đang tìm kiếm, thì nàng không thể từ bỏ chiến trường được.
Đến tối ngày thứ ba, chàng thấy trên bàn phòng trọ của mình có một bó hoa. Chàng hỏi ông chủ quán trọ nhưng họ không nhìn thấy ai ra vào.
– Đúng là nàng, – chàng nghĩ và hôn lên những bông hoa mà nàng vừa mới hái.
Bốn ngày liền chàng ngồi canh ở cuốỉ vườn, đằng sau trạm xe ngựa. Mỗi khi nghe thấy tiếng chân bước là tim chàng lại đập rộn lên. Mỗi lần bị thất vọng là chàng lại cảm thấy đau khổ thực sự.
Nhưng sang đến ngày thứ tư, vào quãng năm giờ chiều, chàng nghe thấy tiếng váy sột soạt phía hàng cây sau vườn. Một chiếc váy hiện ra. Raun vội đứng lên để chạy theo nhưng chàng vội đứng ngay lại và cố kìm nỗi tức giận.
Chàng vừa nhận ra là Clarix Đêtigơ.
Nàng đến với một bó hoa trong tay giống y như bó hoa hôm trước. Nàng nhẹ nhàng bước tới bên phòng chàng đưa tay qua cửa sổ và đặt bó hoa vào trong phòng.
Khi nàng quay lại, Raun nhìn rõ mặt nàng và sửng sốt vì thấy mặt nàng tái nhợt. Đôi má nàng không còn vẻ tươi mát nữa và đôi mắt thâm quầng của nàng cho thấy là nàng đã phải chịu đau khổ và mất ngủ như thế nào.
“Em sẽ phải đau khổ nhiều vì chàng”, hôm ấy nàng đã nói như vậy mà chàng không đoán được rằng nỗi đau khổ của nàng đã bắt đầu quá sớm như vậy, và rằng chính cái ngày mà nàng hiến thân cho Raun đã là một ngày chia tay và từ bỏ không thể hiểu nổi.
Chàng nhớ lại lời tiên đoán trên, và vừa bực mình vì mình đã làm khổ cô ta, vừa tức giận vì thất vọng khi thấy người mang hoa lại là Clarix mà không phải là người mà chàng mong đợi, chàng đã để mặc cho Clarix đi qua.
Thế nhưng cũng chính nhờ có Clarix – người đã làm tiêu tan hy vọng hạnh phúc cuối cùng của chàng – mà chàng có được lời chỉ dẫn quý báu để đêm đó chàng tìm ra hướng hành động. Một giờ sau, chàng phát hiện ra một bức thư buộc vào song cửa sổ, chàng mở ra đọc:
“Chàng yêu quý của em, chẳng lẽ mọi chuyện đã kết thúc rồi sao? Không phải thế, đúng không chàng? Em đã khóc lóc một cách vô lý phải không?… Không lẽ chàng đã chán ngán Clarix của chàng rồi à?
Chàng thân yêu, tối nay cả bọn họ sẽ lên tàu đi xa và phải đến tối mai mới về. Chàng đến với em chứ? Chàng đừng để em phải khóc nữa nhé?… Đến với em đi, người yêu của em…”
Thật là những dòng chữ tội nghiệp… Nhưng Raun vẫn không mủi lòng. Chàng nghĩ đến lời thông báo về chuyến đi của hội gã nam tước và nhớ lại câu nói trong lời kết tội của Bômanhăng: “Được tôi cho biết rằng sắp tới chúng ta sẽ đến thăm một lãnh địa ở gần Điéppơ, ả đã vội vã đến ngay đó…”
Liệu đó có phải là mục tiêu của chuyến đi tối nay không? Và đối với Raun, đây chẳng phải là một dịp để chàng tham gia trận đấu hay sao?
Ngay tối hôm đó, vào quãng bảy giờ, Raun ăn mặc như một người đi săn chim biển, bôi một lớp thuốc vẽ màu đỏ lên mặt để cho người ta khỏi nhận ra và lên cùng chuyến tàu gã nam tước Đêtigơ và Ôxca đờ Bennơtô, cũng đổi tàu hai lần như họ và cũng xuống một ga xép với họ và ngủ lại ở đó.
Sáng hôm sau, Đoócmông, Rôlơvin và Ru Đéxtiê đánh xe đến đón hai người và Raun bám ngay theo sau họ.
Đi được mười cây số thì xe ngựa dừng lại trước một thái ấp rộng lớn hoang tàn và có tên gọi là lâu đài Gơrơ. Đến nơi, Raun thấy ở trong vườn có một tốp công nhân đang đi lại nhộn nhịp xới đất.
Lúc ấy là mười giờ sáng. Trên sân, các vị chủ thầu ra đón năm hội viên mới tới. Raun lẻn vào không để ai trông thấy, chàng trà trộn vào trong đám công nhân và hỏi thăm họ. Họ cho chàng biết rằng lâu đài Gơrơ này vừa được hầu tước Rơlơvin mua lại và công việc sửa sang vừa mới bắt đầu sáng nay.
Raun nghe thấy một vị chủ thầu trả lời gã nam tước:
– Vâng, thưa ông, tôi đã thông báo rõ tất cả rồi. Người của tôi trong khi cuốc đất mà thấy các loại tiền cũ, những đồ vật bằng kim loại, bằng đồng sắt v.v… thì sẽ phải đem nộp lại để lĩnh thưởng.
Rõ ràng rằng những trò bới lộn này chỉ là để tìm kiếm một vật gì đó. Nhưng vật đó là vật gì? – Raun tự hỏi.
Chàng đi dạo quanh vườn, làm một vòng quanh thái ấp và chui xuống tầng ngầm.
Đến mười một giờ rưỡi mà chàng vẫn chưa tìm ra đáp số của câu hỏi, mà sự đòi hỏi hành động ngày càng thôi thúc chàng. Vì nếu càng để lâu thì bọn kia rất có thể sẽ gặp may và đến lúc đó chàng sẽ có nguy cơ phải đứng trước một việc đã rồi.
Lúc đó nhóm năm người đang đứng phía sau thái ấp, trên một khoảng sân dài cao hơn hẳn khu vườn xung quanh. Khoảng sân được xây chắn bằng một bức tường hoa, có mười hai chiếc trụ gạch được bố trí đều nhau dùng làm đế để đỡ các chậu đá đã bị vỡ gần hết.
Một tốp công nhân cầm cuốc bắt đầu phá bức tường hoa. Raun đăm chiêu đứng nhìn họ làm, hai tay đút túi quần, thuốc lá ngậm trên môi và không hề bận tâm rằng sự có mặt của chàng ở đây có thể làm cho mọi người để ý.
Gôđơphroai Đêtigơ đang cuốn thuốc lá bằng một tờ giấy viết. Vì không có diêm nên gã bước đến bên Raun xin lửa. Raun đưa thuốc cho gã châm, và, trong khi gã nam tước châm thuốc thì một kế hoạch đã hình thành trong đầu chàng, một kế hoạch tự phát, rất đơn giản nhưng cũng rất logic. Chỉ có điều cần phải hành động gấp.
Raun bỏ mũ bêrê ra để lộ bộ tóc chăm chút mà tất nhiên không phải là tóc của một chàng thủy thủ.
Gã nam tước Đêtigơ chăm chú nhìn chàng, rồi đột nhiên nhận ra, gã nổi cơn giận dữ:
– Lại mi! Lại còn hóa trang nữa chứ! Cái trò bí mật này nghĩa là thế nào, và tại sao mi dám theo ta đến tận đây? Ta đã trả lời mi một cách dứt khoát rằng đám cưới giữa mi và con gái ta là không thể có được.
Raun túm lấy cánh tay ông ta và nói như ra lệnh:
– Đừng làm ồn lên! Tôi và ông sẽ mất hết mọi thứ bây giờ. Ông đi gọi các bạn ông đến đây.
Gôđơphroai không muốn nghe.
– Gọi các bạn ông lại đây, – Raun nhắc lại. – Tôi muốn giúp các ông. Các ông đang tìm cái gì? Một cây đèn cổ phải không?
– Phải. – Gã nam tước vô tình buột miệng.
– Một cây đèn bảy nhánh, đúng thế. Tôi biết chỗ giấu. Rồi tôi sẽ cho các ông biết những chỉ dẫn khác nữa rất có ích cho công việc tìm kiếm của các ông. Đến lúc đó chúng ta hãy nói tới chuyện cô công nương Đêtigơ. Hôm nay không phải là lúc nói chuyện ấy… Ông hãy gọi bạn ông đến đây. Nhanh lên.
Gôđơphroai ngập ngừng, nhưng những lời hứa và lời cam đoan của Raun đã có sức mạnh. Gã lên tiếng gọi các chiến hữu khác và họ nhanh chóng đến ngay.
– Tôi biết cậu thanh niên này, – gã nói, – và cậu ta bảo là cậu ta có thể tìm thấy…
Raun ngắt lời gã:
– Không có chuyện “có thể” ở đây đâu ông ạ. Tôi là người bản xứ ở đây. Từ nhỏ tôi đã chơi đùa trong lâu đài này với bọn trẻ con của ông già làm vườn đồng thời vừa là người gác cổng, ông ta thường chỉ cho chúng tôi một cái vòng được gắn trên tường trong một khoang hầm. “Trong này có một cái hầm giấu của, – ông ta bảo, – lão đã thấy người ta cất vào đây những thứ đồ cổ, những cây đèn, đồng hồ treo tường…”.
Điều phát giác này đã làm cho các chiến hữu của ông Gôđơphroai phấn chấn.
Bennơtô nhanh nhảu cãi lại:
– Ở dưới tầng hầm à? Chúng mình đã xem dưới ấy rồi cơ mà.
– Chưa kỹ. – Raun khẳng định. – Tôi sẽ dẫn các vị xuống.
Họ kéo nhau xuống tầng hầm qua một cầu thang dẫn từ bên ngoài vào. Có hai chiếc cửa mở ra để lộ mấy bậc thang nữa rồi sau đó là một loạt phòng hầm có trần cuốn.
– Căn hầm thứ ba bên trái. – Raun bảo họ, vì vừa nãy chàng đã xem xét kỹ chỗ này. – Kia kìa, căn hầm ấy đấy…
Chàng để cho cả năm người chui vào một căn hầm tối và thấp đến nỗi mọi người phải cúi đầu,
– Chả nhìn thấy gì cả, – Ru Đextiê lên tiếng phàn nàn.
– Ừ, – Raun bảo. – Tôi vừa thấy có mẩu nến ở ngoài cầu thang và tôi có cả diêm đây. Đọi một lát tôi chạy đi lấy nến nhé.
Chàng chạy trở ra, đóng cửa căn hầm lại, vặn chìa khoá rồi rút chìa khoá ra và vừa chạy trở ra vừa gọi vào trong:
– Các ông hãy thắp bảy ngọn nến của cây đèn đó lên nhé. Cây đèn đó chôn ở dưới phiến đá trong cùng ấy, nó đã được bọc cẩn thận bằng mạng nhện rồi…
Chàng chưa kịp ra khỏi nhà đã nghe thấy tiếng đập cửa giận dữ, và chàng đoán rằng cái cánh cửa lung lay và mối mọt đó chỉ chịu được vài phút là sẽ bị phá tung. Nhưng quãng thời gian ngắn ngủi đó cũng đủ để cho chàng hành động.
Chàng nhảy mấy bước ra đến bức tường hoa, giằng lấy một chiếc cuốc trong tay một người công nhân và chạy đến chiếc trụ thứ chín hất bay một chiếc chậu hoa xuống. Sau đỏ chàng liền đập chiếc mũ xi máng đã nứt nẻ làm nó rơi xuống vỡ tan. Trong khoảng giữa của lớp gạch xây bao quanh trụ có một lớp đất lẫn sỏi mà Raun dễ dàng lôi từ trong đó ra một thanh kim loại đã bị rỗ, có hình dáng giống một nhánh của cây đèn mà người ta thường thấy ở một số bàn thờ.
Có một tốp công nhân vây quanh chàng, họ thốt lên kinh ngạc khi trông thấy cái vật mà Raun đang vung lên. Đây là vật phát hiện đầu tiên từ sáng đến giờ.
Đáng lẽ Raun đã bình thản giả vờ đi gặp năm người kia để trao thanh kim loại cho họ. Nhưng đúng lúc đó có tiếng kêu cất lên ở góc lâu đài, và cả toán năm người hiện ra, đi đầu là Rôlơvin vừa chạy vừa la:
– Kẻ cắp! Bắt lấy nó! Bắt lấy thằng kẻ cắp!
Raun lao vào đám công nhân và vội chạy trốn. Thật là phi lý cũng giống như thái độ của chàng từ mấy hôm nay, bởi vì nói cho cùng thì nếu chàng muốn chiếm lòng tin của gã nam tước và các chiến hữu của y, thì chàng đã không nhốt họ trong hầm cũng như không lấy mất của họ cái vật mà họ đang tìm kiếm. Nhưng trong thực tế Raun lại đang chiến đấu cho Giôdephin Banxamô, và chàng chỉ có một mục đích là đến một ngày nào đó chàng sẽ trao tặng cho nàng vật chiến lợi phẩm mà chàng vừa giành được. Thế là chàng vội ba chân bốn cẳng chạy trốn.
Con đường chạy ra cổng chính đã bị chặn, thế là chàng phải chạy men theo một chiếc hồ, gạt hai người định bắt giữ chàng ra, và, vì bị một toán la hét như những thằng điên bám theo chỉ cách chàng hai mươi mét, chàng chạy tạt vào một vườn rau có tường xây bao quanh với một độ cao đầy tuyệt vọng.
“Chà, – chàng nghĩ, – hết đường rồi. Mình sẽ bị làm mồi cho lũ chó săn mất thôi… Thật là xúi quẩy!”
Phía bên trái của vườn rau là khu nhà thờ của làng, và khu nghĩa địa của nhà thờ được ăn thông với vườn rau qua một mảnh đất hẹp xưa kia dùng làm nơi đặt mộ của chủ nhân lâu đài Gơrơ. Khu mộ được bao quanh bằng hàng rào song sắt to khỏe. Sát hàng rào là những cây thủy tùng. Nhưng đúng vào lúc Raun đang chạy dọc theo cái hàng rào sắt này thì một chiếc cổng bỗng hé mở, một cánh tay thò ra chắn ngang đường, một bàn tay nắm lấy tay chàng, và Raun sửng sốt thấy mình được một người đàn bà kéo vào khuất sau đám cây và đóng ngay cửa lại trước mũi toán người đuổi bắt.
Chàng đoán hơn là nhận ra rằng người đó chính là Giôdephin Banxamô.
– Vào đây, – nàng bảo và chui vào giữa đám cây thủy tùng.
Một chiếc cổng khác bên tường mở ra thông với khu nghĩa địa của nhà thờ. Ở đầu nhà thờ có một chiếc xe ngựa cổ đã lỗi thời mà hồi đó người ta chỉ còn gặp ở vùng thôn quê, nó được thắng bởi hai con ngựa gầy và ít được chăm sóc. Trên ghế xà ích có một người đánh xe có bộ râu màu muối tiêu và chiếc lưng gù gồng lên dưới chiếc áo khoác màu xanh.
Raun và nữ bá tước chui vào xe. Chẳng có ai nhìn thấy họ. Nàng bảo người đánh xe:
– Lêôna, đi Luynơrây và Đuđơvin. Nhanh lên!
Tòa nhà thờ này đứng ở một đầu làng. Nếu đi theo đường Luynơrây thì sẽ tránh không phải qua nhiều nhà. Nó chạy dài theo bờ biển và dẫn ngược lên dải đất cao. Hai con ngựa nhỏ gầy giơ xương chạy lên dốc với dáng chạy của những con ngựa đua đang thi đấu.
Bên trong chiếc xe có vẻ ngoài xấu xí này thật là rộng rãi và tiện nghi, nó có hàng cửa chớp để tránh những con mắt tò mò, và nó có một không khí quá thân mật đến nỗi Raun quỳ ngay xuống để bày tỏ những lời tán tụng yêu đương.
Chàng cảm thấy ngạt thở vì vui sướng. Mặc cho nữ bá tước cảm thấy bị xúc phạm hay không, chàng cho rằng lần gặp gỡ thứ hai này, xảy ra sau đêm chàng cứu thoát nàng và trong những điều kiện thật đặc biệt, để thiết lập được giữa họ những mối quan hệ có khả năng cho phép chàng đốt cháy một vài giai đoạn để bắt đầu cuộc hội kiến bằng một bài tỏ tình đúng quy tắc.
Chàng đã bắt đầu ngay bài tỏ tình đó và với một cách nhanh nhẹn có khả năng chế ngự ngay cả người đàn bà dữ tợn nhất.
– Nàng đấy à? Có phải nàng đấy không? Thật là một cú bất ngờ! Ngay khi đàn chó săn sắp sửa xé xác tôi thì kia, Giôdephin Banxamô đã xuất hiện như từ trên trời rơi xuống để cứu tôi. Ôi! Thật hạnh phúc cho tôi, và tôi yêu nàng biết bao! Tôi yêu nàng từ hàng bao năm nay… từ một thế kỷ nay! À phải rồi, tôi đã ấp ủ tình yêu hàng trăm năm nay… một mối tình lâu đời mà vẫn trẻ mãi như nàng… và đẹp đẽ như nàng!… Nàng đẹp quá!… không thể ngắm nàng mà không xúc động… Đó là một niềm vui, và đồng thời cũng là một nỗi thất vọng khi người ta nghĩ rằng, dù thế nào chăng nữa thì người ta cũng không bao giờ có thể bắt giữ được tất cả những cái gì là sắc đẹp trong con người nàng. Ánh mắt của nàng, nụ cười của nàng, tất cả những cái đó mãi mãi sẽ là những cái không thể nắm bắt được…
Chàng rùng mình và thì thào…
– Ôi! Đôi mắt nàng đang hướng về phía tôi! Nàng có muốn tôi chăng? Nàng chấp nhận cho tôi tỏ tình chứ?
Nàng hé mở cửa xe:
– Nếu tôi yêu cầu anh xuống xe thì sao?
– Tôi sẽ không xuống.
– Thế nếu tôi kêu người đánh xe đến cứu?
– Tôi sẽ giết chết anh ta.
– Thế nếu chính tôi xuống xe?
– Tôi sẽ tiếp tục đi bộ để tỏ tình với nàng.
Nàng bật cười:
– Được rồi, anh sẽ phải chịu trách nhiệm tất cả. Anh cứ ngồi đây. Nhưng đừng có nói nhảm nữa! Tốt hơn hết là anh hãy kể cho tôi nghe câu chuyện gì đã xảy ra mà họ đuổi anh như vậy.
Chàng hân hoan nói:
– Vâng, tôi sẽ kể cho nàng nghe tất cả, bởi vì nàng không xua đuổi tôi nữa… bởi vì nàng đã chấp nhận tình yêu của tôi.
– Nào tôi có chấp nhận gì đâu, – nàng cười nói. – Anh làm tôi phát sốt lên vì những lời tỏ tình, mà anh thì có hiểu gì về tôi đâu.
– Tôi mà lại không hiểu nàng!
– Anh mới chỉ nhìn thấy tôi có một lần, vào ban đêm, dưới ánh sáng của một chiếc đèn dầu.
– Thế còn vào lúc ban chiều trước cái đêm đó tôi đã chẳng nhìn thấy nàng là gì? Tôi đã chẳng có thời gian để chiêm ngưỡng nàng trong cái buổi họp quái gở ở La He Đêtigơ đó sao?
Nàng đột nhiên nhìn chàng với vẻ nghiêm túc.
– A! Chàng đã có mặt ở đó à?…
– Lúc ấy tôi đang ở đó, – chàng nói với vẻ nhiệt tình mừng rỡ. – Tôi đang ở đó và bây giờ tôi đã biết nàng là ai! Tôi biết nàng là con gái của ông Caliôxtrô. Thôi, đừng che giấu nữa! Napôlêông đệ nhất đã quen biết thân mật với nàng… Nàng đã phản bội Napôlêông đệ tam, đã phục vụ Bixmac và đã ám hại tướng Bulănggiê dũng cảm! Nàng đã tắm ở suối Giuvăngxơ. Nàng đã một trăm tuổi… mà tôi vẫn yêu nàng.
Người đàn bà vẫn nhăn trán vẻ băn khoăn và nhắc lại câu nói vừa rồi:
– À! Chàng đã có mặt ở đó… tôi đã đoán đúng mà. Bọn khốn nạn, chúng đã làm khổ tôi!… Và chàng có nghe thấy những lời buộc tội ghê tởm của chúng không?…
– Tôi đã nghe được những chuyện ngớ ngẩn, – chàng kêu lên, – và tôi đã nhìn thấy một lũ điên khùng căm ghét nàng như người ta căm ghét cái đẹp. Nhưng tất cả những cái đó chỉ là điên rồ và phi lý. Đừng nghĩ đến chúng nữa. Đối với tôi, tôi chỉ muốn nhớ lại những điều kỳ diệu hấp dẫn nảy nở dưới bước chân nàng như những bông hoa. Tôi muốn tin vào cái tuổi trẻ vĩnh cửu của nàng. Tôi muốn tin rằng nếu như tôi không cứu nàng thì nàng cũng sẽ không chết được. Tôi muốn tin rằng tình yêu của tôi mang tính chất siêu nhiên, và rằng vừa rồi có một phép lạ nào đó đã làm cho nàng hiện ra từ thân cây thủy tùng.
Nàng lắc đầu vẻ bình tĩnh trở lại:
– Để vào thăm khu vườn của lâu đài Gơrơ, tôi đã đi theo lối cổng vườn ấy mà chìa khoá vẫn thấy cắm ở trong ổ, và vì biết rằng sáng nay người ta sẽ đào bới khu vườn nên tôi đã đứng rình sẵn.
– Thật là tuyệt diệu, tôi đã bảo mà! Từ mấy tuần, mấy tháng nay, có khi lâu hơn nữa, người ta đã tìm kiếm trong khuôn viên này một cây đèn bảy nhánh, và để phát hiện ra nó trong vòng vài phút, giữa đám người đông nghẹt và dưới sự giám sát của kẻ thù của chúng ta, tôi chỉ cần có ý chí và chỉ cần nghĩ đến niềm vui sướng mà tôi sẽ đem lại cho nàng.
Nàng tỏ ra sửng sốt:
– Sao? Chàng bảo sao?… Chàng đã tìm thấy nó rồi ư?…
– Cái vật đó thì tôi chưa tìm thấy, nhưng tôi đã thấy một nhánh của nó. Đây này.
Giôdephin Ranxamô vồ lấy thanh kim loại và háo hức ngắm nghía. Đó là một thanh kim loại tròn, khá chắc, hơi uốn cong một chút và bị phủ một lớp gỉ xanh xám. Một đầu của nó hơi bẹt có gắn một viên đá quý to màu tím, tròn như viên bi.
– Đúng, đúng rồi, – nàng lẩm bẩm… – Chắc chắn là nó đây. Cái nhánh này đã bị cưa đến sát cây đế. Ôi! Chàng không tin được là tôi biết ơn chàng đến chừng nào!..
Raun kể lại câu chuyện bằng những lời lẽ văn hoa. Người đàn bà vẫn chưa hết xúc động.
– Thế lúc ấy chàng nghĩ thế nào? Tại sao chàng lại phá chiếc trụ thứ chín mà không phá chiếc khác? Có phải ngẫu nhiên không?
– Hoàn toàn không, – chàng khẳng định. – Tôi đã biết chắc điều đó. Mười một chiếc trụ kia được xây từ cuối thế kỷ XVII trở về trước. Còn chiếc thứ chín thì đã xây sau thời điểm đó.
– Làm sao chàng biết?
– Bởi vì cỡ gạch của mười một cái trụ kia đã bị bỏ cách đây hai trăm năm, còn loại gạch của cái trụ thứ chín thì vẫn được dùng cho đến ngày nay. Như vậy có nghĩa là cái trụ thứ chín đã bị phá đi để xây lại. Tại sao thế nếu không phải là để giấu cái vật này?
Giôdephin Banxamô im lặng một lúc lâu. Sau đó nàng thong thả nói:
– Thật là tuyệt diệu… Tôi không bao giờ dám tin rằng người khác lại có thể tìm thấy được theo kiểu này… mà lại nhanh đến thế!… Ở cái chỗ mà tất cả chúng tôi đã không tìm ra… Phải, đây chính là một điều kỳ diệu…
– Một điều kỳ diệu của tình yêu, – Raun nhắc lại.
Chiếc xe vẫn chạy nhanh với một tốc độ không ngờ, vẫn theo những con đường vòng mà không xuyên qua làng. Những quãng leo dốc và xuống dốc không làm nhụt bước hai con ngựa gầy. Hai bên đường, cánh đồng cứ lướt qua như những cuốn phim.
– Bômanhăng có ở đó không? – Nữ bá tước hỏi.
– Không, – chàng đáp, – thật may cho hắn.
– Sao lại may?
– Nếu có thì tôi đã bóp cổ hắn rồi. Tôi ghét cái tay lầm lì ấy lắm.
– Chưa bằng tôi đâu, – nàng nghiêm nghị nói.
– Nhưng mà nàng có bao giờ căm ghét hắn đâu, – chàng nói mà không giấu nổi nỗi ghen tuông.
– Nói bậy, – Giôđephin Banxamô khẳng định mà vẫn không lên giọng. – Bômanhăng là một tên lừa đảo và một kẻ mất trí, hắn mắc một bệnh kiêu ngạo bệnh hoạn, và chính vì tôi cự tuyệt tình yêu của hắn ta mà hắn ta muốn cho tôi chết. Tất cả những điều này tôi đã nói ra ngày hôm đó, và hắn ta đã không phản đối… mà hắn phản đối làm sao được.
Raun lại quỳ gối trong cơn say sưa:
– Ôi! Những câu nói mới ngọt ngào làm sao, – chàng kêu lên. – Như vậy là nàng chưa bao giờ yêu hắn ta có phải không? Thật là nhẹ nhõm! Với lại làm sao mà có thể chấp nhận được điều đó? Giôdephin Banxamô mà lại mê một gã Bômanhăng nào đó à?…
Chàng cười và vỗ tay.
– Nàng nghe đây, tôi không muốn gọi nàng như vậy nữa đâu. Giôdephin, cái tên chẳng hay chút nào. Nàng có thích cái tên Giôdin không? Tôi sẽ gọi nàng là Giôdin như Napôlêông và mẹ Bôácne của nàng đã gọi. Được chứ? Nàng sẽ là Giôdin… Giôdin của tôi…
– Trước hết vì phép lịch sự tôi không thể là Giôdin của chàng được.
– Lịch sự ấy à? Tôi có thừa. Này nhé! Hai chúng ta đang ở bên nhau trong căn phòng kín… nàng không có ai bảo vệ, vậy mà tôi vẫn đứng ngây trước mặt nàng như đứng trước một thần tượng. Và tôi sợ! Tôi đang run! Nếu nàng đưa tay cho tôi hôn thì có lẽ tôi cũng không dám!

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.