Suối nguồn

VI.



“Chuck: Tại sao lại không phải là một con chuột xạ? Tại sao con người lại cứ tưởng tượng rằng anh ta cao siêu hơn một con chuột xạ? Sự sống tồn tại trong mọi sinh vật nhỏ bé trên đồng ruộng và trong rừng sâu. Cuộc sống ca mãi những nỗi buồn phiền bất tận. Một nỗi buồn phiền cũ rích. Một bài ca của những bài ca. Chúng ta không hiểu – nhưng ai quan tâm đến việc có hiểu hay không ấy? Chỉ có những nhân viên kế toán hay những bác sĩ chữa chân mới quan tâm. Và cả những người đưa thư. Chúng ta chỉ yêu. Điều bí ẩn ngọt nào của Tình Yêu. Tất cả chỉ có vậy. Hãy cho tôi tình yêu và tống tất cả những nhà triết học của anh và ống khói. Khi Mary nhặt con chuột xạ không tổ ấm về, trái tim cô mở toang cho cuộc sống và tình yêu ùa vào. Chuột xạ có thể cho những bộ lông tốt để làm giả lông chồn, nhưng đó không phải là điều cốt yếu. Cuộc sống mới là điều cốt yếu.”

“Jake: (chạy vội vào): Nào, các vị, có ai có con em in ảnh George Washington không?”

“Hạ màn.”

Ike đóng sập quyển bản thảo lại và hít một hơi dài. Giọng anh khản đặc sau hai tiếng đồng hồ đọc to và anh đã đọc liền một hơi dài phần cao trào của vở kịch. Anh nhìn khán giả của mình, nhếch mép cười như chế giễu bản thân, lông mày nhướng lên một cách tự mãn, nhưng ánh mắt anh lại khẩn nài.

Ellsworth Toohey vừa ngồi bệt trên sàn vừa cà xương sống vào một cái chân ghế và ngáp dài. Gus Webb đang nằm giữa sàn, bụng úp xuống và chân tay dang ra. Anh ta lật người lại. Lacelot Clokey, một nhà báo nước ngoài, với tay lấy ly whiskey pha sô-đa của mình và uống nốt. Jules Fougler, nhà phê bình kịch mới của tờ Ngọn cờ, ngồi yên không nhúc nhích; ông đã không nhúc nhích trong suốt hai tiếng đồng hồ. Cô chủ nhà Lois Cook giơ hai tay lên, vặn vẹo, ròi duỗi thẳng, và nói:

“Ôi Chúa ơi, Ike, vở kịch quá tệ.”

Lancelot Clokey lè nhè:

“Lois, cô bé ơi, cô để chai rượu gin của cô ở đâu rồi? Đừng có bủn xỉn thế chứ. Cô là chủ nhà tệ nhất mà tôi từng biết.”

Gus Webb nói: “Tôi chẳng hiểu được văn chương. Nó không sinh lợi và chỉ tốn thời gian vô ích. Đám nhà văn rồi sẽ bị thanh lý hết.”

Ike cười ré lên: “Thật bốc mùi, phải không?” Anh vung vẩy tập bản thảo: “Siêu bốc mùi. Thế các vị nghĩ tôi viết nó cho ai? Cứ thử chỉ cho tôi xem ai có thể viết một thứ tởm lợm hơn thế này xem nào? Các vị sẽ không bao giờ được nghe một vở kịch nào dở hơn thế nào trong đời các vị.”

Đây không phải một cuộc họp chính thức của Hội Nhà văn Mỹ, mà là một buổi gặp mặt không chính thức. Ike đã mời một số bạn bè đến nghe tác phẩm mới của anh.
Ở tuổi hai mươi sáu, anh đã viết mười một kịch bản, nhưng chưa có vở nào được dựng.

“Anh nên từ bỏ sân khấu đi, Ike” Lancelot Clokey nói. “Viết lách là một nghề nghiêm túc và không phải thằng vô sỉ nào muốn thử cũng được.” Đây là tuần thứ mười cuốn sách đầu tay của Lancelot Clokey – cuốn sách thuật lại những chuyến thám hiểm của ông ở nước ngoài – nằm trong danh sách những sách bán chạy nhất.

“Tại sao lại không nào, Lance?” Toohey dài giọng một cách mơn trớn.

“Được rồi,” Clokey ngắt lời “được rồi. Cho tôi một ly.”

“Quá dở,” Lois Cook nói, ngả đầu uể oải từ bên này sang bên kia. “Nó dở một cách thậm tệ. Nó dở đến mức nó lại trở nên tuyệt vời.”

“Thật là ngớ ngẩn,” Gus Webb cất tiếng. “Sao mình lại đến đây cơ chứ?”

Ike liệng tập bản thảo và lò sưởi. Nó đập vào tấm lưới chắn lò sưởi và rơi úp xuống sàn; những trang giấy mỏng nhàu nát mở toang.

“Nếu như Ibsen[115] có thể viết kịch được, thì tại sao tôi lại không thể cơ chứ?” Ike hỏi. “Ông ta giỏi giang còn tôi thì chẳng ra gì, nhưng đấy chẳng phải là một lý do đủ sức thuyết phục.”

“Thường thì như thế chưa đủ.” Lance Clokey nói. “Dù vậy, anh vẫn chẳng ra gì.”

“Khỏi cần ông nói ra. Tôi đã nói trước rồi.”

“Đây là một vở kịch vĩ đại.” Một giọng nói cất lên.

Đó là một giọng mũi, chậm rãi và chán nản. Giọng nói này cất lên lần đầu tiên trong buổi tối hôm đó, và mọi người đều quay về phía Jules Fougler. Một họa sĩ vẽ truyện tranh đã có lần vẽ một bức biếm họa nổi tiếng cho Jules Fougler; bức họa có hai vòng tròn võng xuống, một vòng tròn to và một vòng tròn nhỏ: vòng tròn to là cái bụng, còn vòng tròn nhỏ là cái môi dưới của ông. Ông mặc một bộ vét vừa vặn, màu mà ông đã từng mô tả là màu “merde d’oie[116].” Ông luôn đeo găng tay, và mang theo một cái gậy. Ông là một nhà phê bình kịch có tiếng.

Jules Fougler giơ cây gậy ra, dùng cái ngoắc trên tay cầm móc vào tập bản thảo và kéo lê nó trên sàn về phía chân mình. Ông ta không nhặt nó lên, mà nhìn xuống tập bản thảo và lặp lại:

“Đây là một vở nhạc kịch vĩ đại.”

“Tại sao?” Lance Clokey hỏi.

“Bởi vì tôi nói như vậy.” Jules Foughler trả lời.

“Ông đang đùa đấy à, Jules?” Lois Cook hỏi.

“Tôi không bao giờ đùa.” Jules Foughler nói. “Điều đó thật thô bỉ.”

“Lúc nào diễn buổi ra mắt thì gửi cho tôi vài vé.” Lancelot Clokey châm chọc.

“Tám đàn ông la tám mươi xu cho hai ghế buổi diễn ra mắt.” Jules Foughler nói. “Đây sẽ là vở kịch thành công nhất của mùa diễn năm nay.”

Jules Foughler quay lại và thấy Toohey đang nhìn mình. Toohey mỉm cười nhưng không phải nụ cười vô vị hay vô ý; mà là nụ cười đồng tình về một việc mà ông coi là thực sự nghiêm túc. Ánh mắt của Foughler mang vẻ khinh khỉnh khi nhìn những người khác, nhưng nó giãn ra đôi chút khi nhìn Toohey.

“Sao ông không vào Hội Nhà văn Mỹ, Jules?” Toohey hỏi.

“Tôi theo chủ nghĩa cá nhân,” Foughler nói. “Tôi cóc tin vào các loại hiệp hội. Mà điều đó có cần thiết không nhỉ?”

“Không, chẳng có gì là cần thiết cả,” Toohey nói một cách vui vẻ. “không cần thiết với ông, Jules. Tôi chẳng có gì để giáo huấn ông cả.”

“Điều làm tôi thích ông, Ellsworth, là tôi chẳng bao giờ cần phải giải thích bản thân mình với ông cả.”

“Vớ vẩn nào, sao lại là giải thích cái gì ở đây? Sáu chúng ta cùng một hội mà.”

“Năm thôi,” Foughler nói “Tôi không thích Gus Webb.”

“Sao lại không?” Gus hỏi. Anh không thấy bực mình.

“Bởi vì anh ta không chịu rửa tai,” Foughler trả lời, cứ như là câu hỏi là của một người thứ ba.

“Ồ, ra là thế.” Gus nói.

Ike đã đứng dậy, nhìn chằm chằm vào Foughler, không chắc là mình có nên thở hay không.

“Ông thích kịch bản của tôi ư, ông Foughler?” Cuối cùng anh cất tiếng hỏi, giọng rất nhỏ.

“Tôi chưa nói là tôi thích nó,” Foughler lạnh lùng đáp lại. “Tôi nghĩ là nó bốc mùi. Đó là lý do tại sao nó tuyệt vời.”

“Ồ,” Ike nói, Anh phá lên cười. Anh dường như trút được một gánh nặng. Anh nhìn một vòng các gương mặt trong phòng, một cái nhìn có ẩn niềm hãnh diện chiến thắng.

“Thế đấy,” Foughler nói, “Anh viết kịch vì cái gì thì tôi phê bình cũng vì cái ấy. Động cơ của chúng ta y hệt nhau.”

“Anh thông minh lắm, Jules.”

“Xin ông đấy, ông Foughler.”

“Ông rất thông minh và là thằng vô lại đỏm dáng nhất trên trái đất này, ông Foughler.”

Foughler lật mấy trang bản thảo dưới chân bằng đầu của cây gậy.

“Anh đánh máy tệ quá, Ike.” Ông ta nói.

“Quỷ tha ma bắt. Tôi không phải là người chuyên đánh máy tốc ký. Tôi là một nghệ sĩ sáng tạo.”

“Khi nào kịch công chiếu, anh sẽ đủ tiền để thuê một cô thư ký đấy. Tôi buộc phải ca ngợi vở kịch này – kể cả chỉ để ngăn anh không hành hạ cái máy chữ như thế này nữa. Máy chữ là một công cụ tuyệt vời và không nên bị hành hạ.”

“Được rồi, Jules,” Lancelot Clokey nói, “thế là rất dí dỏm và thông minh, và ông rất là phức tạp và xuất sắc. Nhưng nói thực đi, tại sao ông muốn ca ngợi cái đống phân này?”

“Bởi vì nó là đống phân, như cách anh gọi nó.”

“Anh chẳng lô-gíc chút nào, Lance ạ” Ike nói. “Nói chung là anh chẳng lô-gíc tí nào. Viết một vở kịch hay và được người ta ca tụng nó thì dễ ợt. Bất cứ ai đều có thể làm được điều đó. Bất cứ ai có tài năng – và tài năng chỉ là chuyện tình cờ bẩm sinh. Còn viết một đống phân mà vẫn được ca ngợi – đấy, anh cứ thử làm được thế đi.”

“Anh ấy đã làm rồi đấy thôi” Toohey nói.

“Đó chỉ là vấn đề ý kiến của mỗi người,” Lancelot Clokey nói. Anh ta dốc ngược cái y đã cạn vào miệng và nuốt ực cục đá cuối cùng.

“Ike hiểu biết nhiều hơn anh đấy, Lance ạ” Jules Foughler nói. “Cậu ấy đã chứng tỏ cậu ấy là một nhà tư tưởng thực sự đấy – qua cái diễn văn nho nhỏ vừa rồi. Cái đó vô tình còn hay hơn cả cái vở kịch của cậu ta.”

“Tôi sẽ viết vở kịch tiếp theo của tôi về điều ấy” Ike nói.

“Ike đã tuyên bố động cơ của cậu ấy,” Foughler tiếp tục. “Và đấy cũng là động cơ của tôi. Và của cả anh nữa, Lance. Anh cứ kiểm chứng trường hợp của tôi, nếu thích. Một nhà phê bình nhận được cái gì nếu anh ta tán dương một vở kịch hay? Chẳng được bất cứ cái gì cả. Nhà phê bình lúc đó chẳng khác gì một thằng bé đưa tin danh giá giữa tác giả và công chúng. Cái việc ấy thì có lợi gì cho tôi? Tôi chán ngấy mấy thứ đó. Tôi có quyền mong muốn áp đặt quan điểm của tôi lên công chúng. Nếu không, tôi sẽ rất bực mình – mà tôi thì chẳng tin vào sự bực mình. Nhưng nếu một nhà phê bình có thể tạo được sự tán dương cho một vở kịch hoàn toàn chẳng có giá trị gì – chà, anh cũng nhận ra sự khác nhau rồi đấy! Vì thế, tôi sẽ phải làm cho nó thành công

– mà vở kịch của anh tên là gì ấy nhỉ, Ike?” “Không phải việc của mày.”

“Anh nói gì cơ.”

“Đó là tên của vở kịch.”

“Ồ, ra thế. Vì thế, tôi sẽ làm cho vở Không Phải Việc Của Mày thành công lớn.”

Lois Cook cười phá lên.

“Các vị cứ làm mọi chuyện ầm ỹ cả lên,” Gus Webb nói trong lúc nằm thẳng đờ, tay bắt chéo sau đầu.

“Bây giờ nếu anh muốn xem xét trường hợp của anh, Lance,” Foughler tiếp tục. “Một nhà báo nhận được cái gì khi đưa tin những sự kiện xảy ra trên thế giới? Công chúng đọc về đủ loại khủng hoảng trên thế giới, anh phải may lắm thì mới được họ để mắt tới tên của anh trên đầu bài viết. Thế mà anh thì có tài ngang với bất cứ một vị tướng hay đô đốc hải quân hay ngài đại sứ nào. Anh có quyền làm cho mọi người biết đến anh. Vì thế, anh đã làm một việc rất khôn ngoan. Anh đã viết một tuyển tập tuyệt vời về toàn những thứ nhảm nhí – phải đấy, toàn những thứ nhảm nhí – nhưng lại hợp đạo đức. Một cuốn sách khôn ngoan. Những thảm họa thế giới chỉ làm nền cho cái nhân cách nhỏ mọn ô trọc của anh. Nào là Lancelot Clokey đã say khướt thế nào trong một cuộc hội nghị quốc tế. Nào là những người đẹp nào đã ngủ với Lancelot Clokey trong một cuộc xâm lược. Nào là Lancelot Clokey đã bị táo tỏng thế nào ở một nơi đang chết đói. Thế đấy, tại sao lại không nhỉ, Lance? Nó đi lọt đấy chứ. Ellsworth đã thổi nó thành công, phải vậy không?”

“Công chúng đánh giá cao những thứ liên quan đến lợi ích của con người,” Lancelot Clokey nói và giận dữ nhìn vào cái cốc của mình.

“Ồ, thôi đi, Lance!” Lois Cook la lên. “Anh đang diễn với ai ở đây thế? Anh biết thừa rằng nó chẳng liên quan gì đến lợi ích con người, chỉ hoàn toàn nhờ vào Ellsworth Toohey thôi.”

“Tôi không quên những gì tôi nợ Ellsworth,” Clokey nói một cách bực dọc.”Ellsworth là bạn tốt nhất của tôi. Tuy nhiên ông ấy cũng chẳng thể làm nó thành công nếu ông ấy không có trong tay một cuốn sách hay.”

Tám tháng trước, Lancelot Clokey cũng đứng trước Ellsworth Toohey với một bản thảo trên tay, giống như Ike lúc này đang đứng trước Fougler. Anh ta đã không thể tin được là Toohey nói với anh rằng quyển sách của anh sẽ dẫn đầu danh sách những sách bán chạy nhất. Nhưng việc hai trăm ngàn cuốn sách bán hết sạch đã làm cho Clokey không còn khả năng nhận biết sự thật dưới bất kỳ hình thức nào.

“Hừm, ông ấy cũng thành công với cuốn Viên sỏi mật dũng cảm.”

Lois Cook nói một cách điềm tĩnh, “Chưa bao giờ có một thứ rác rưởi hơn thế được viết ra. Tôi biết rõ điều đó. Nhưng ông ấy vẫn thành công.”

“Và suýt mất việc vì nó.” Toohey nói một cách lãnh đạm.

“Cô làm gì với lũ rượu của cô thế, Lois?” Clokey ngắt lời. “Cô để dành rượu để tắm đấy à?”

“Được rồi, anh sâu rượu.” Lois Cook nói và uể oải đứng lên.

Cô lê chân ngang qua căn phòng, vừa đi vừa nhặt một chiếc ly uống dở của ai đó ở dưới sàn lên; cô uống nốt rồi bước ra ngoài và mang vào một loạt những chai rượu đắt tiền. Clokey và Ike vội vã đến rót rượu vào ly.

“Tôi nghĩ rằng cô không công bằng với Lance, Lois ạ” Toohey nói. “Tại sao anh ấy lại không thể viết một cuốn tự truyện chứ?”

“Bởi vì cuộc sống của anh ta không đáng sống, chưa nói gì đến chuyện đưa lên sách.”

“Ồ, nhưng đó chính là lý do tại sao tôi làm cho nó bán chạy.”

“Ông đang nói với tôi đấy à?”

“Tôi muốn nói với một ai đó.”

Xung quanh còn rất nhiều ghế để ngồi một cách thoải mái, nhưng Toohey lại thích nằm trên sàn. Ông lật sấp người, chống thân trên bằng hai khuỷu tay, và lắc lư một cách thoải mái. Ông chuyển trọng lượng cơ thể từ khuỷu tay này sang khuỷu tay kia, hai chân dạng rộng thành một cái chạc cây trên thảm. Trông ông có vẻ rất thích thú khi được thả lỏng.

“Tôi muốn nói với một ai đó. Tháng sau tôi sẽ lăng-xê cuốn tự truyện của một anh nha sĩ sống ở một thị trấn nhỏ. Anh ta là một nhân vật đặc biệt – bởi vì trong cả cuộc sống của anh ta chẳng có một ngày nào đặc biệt và trong cả cuốn sách của anh ta chẳng có một câu nào đặc biệt. Rồi cô sẽ thích nó cho mà xem, Lois. Cô thử tưởng tượng một kẻ vô vị bậc nhất mở toang tâm hồn anh ta ra, cứ như là được mặc khải.”

“Những con người bé nhỏ.” Ike nói nhẹ nhàng. “Tôi yêu nhưng con người bé nhỏ. Chúng ta phải yêu thương những con người bé nhỏ trên trái đất này.”

“Hãy để dành điều đó cho vở kịch tiếp theo của anh,” to nói.

“Tôi không thể,” Ike nói. “Nó đã ở ngay trong vở này rồi.”

“Ý ông là gì, Ellsworth?” Clokey ngắt lời.

“À, đơn giản thôi Lance. Có những người hoàn toàn chỉ là con số không; anh ta chẳng làm bất cứ cái gì nổi bật ngoài việc ăn, ngủ và tán gẫu với hàng xóm. Nếu như cuộc sống vô vị của những người này lại trở thành một hiện tượng đáng tự hào, đáng đưa tin ra cả thế giới, đáng được cả triệu độc giả quan tâm nghiên cứu một cách kỹ lưỡng – thì việc một ai đó khác xây dựng cả một giáo đường sẽ trở nên không đáng lưu tâm và không cần được công bố. Đây là vấn đề của quan điểm và sự tương quan. Khoảng cách cho phép giữa các cực của bất cứ một vấn đề nào cũng là hữu hạn. Khả năng tiếp nhận âm thanh của một con kiến không bao gồm tiếng sấm.”

“Ông phát biểu như một gã tư sản mạt hạng, Ellsworth,” Gus Webb nói.

“Hạ giọng xuống đi, cậu bé,” Toohey nói, không hề phật ý.

“Tất cả đều rất là tuyệt vời,” Lois Cook nói, “có điều, ông đang làm việc quá xuất sắc, Ellsworth. Ông sẽ làm tôi mất việc mất. Rồi đây nếu như tôi muốn được biết đến, tôi sẽ phải viết một cái gì đó thực sự hay ho.”

“Thế kỷ này thì chưa cần đâu, Lois,” Toohey nói. “và có lẽ thế kỷ sau cũng chưa cần. Nó sẽ đến muộn hơn là cô nghĩ.”

“Nhưng mà ông chưa nói…!” Đột nhiên Ike kêu lên, giọng lo lắng.

“Tôi chưa nói cái gì?”

“Ông chưa nói là ai sẽ dựng vở kịch của tôi!”

“Cứ để đó cho tôi,” Jules Fougler nói.

“Tôi quên chưa cảm ơn ông, Ellsworth,” Ike nói một cách nghiêm trang.”Vì thế bây giờ tôi cảm ơn ông. Có rất nhiều vở kịch chẳng ra gì, nhưng ông đã chọn vở của tôi. Ông và ông Fougler.”

“Cái chẳng ra gì của anh có thể khai thác được, Ike ạ.”

“Mà cái đó mới đáng kể.”

“Rất đáng kể là khác.”

“Anh thử lấy ví dụ xem nào?”

“Đừng có lắm lời thế, Ellsworth,” Gus Webb nói. “Ông đã nói quá nhiều rồi đấy.”

“Im mồm đi, búp bê. Tôi thích nói. Ví dụ à, Ike? Được rồi, ví dụ tôi không thích Ibsen.”

“Ibsen khá đấy chứ,” Ike nói.

“Chắc chắn là ông ta khá rồi, nhưng mà giả dụ như tôi không thích ông ta. Giả dụ tôi muốn mọi người không xem kịch của ông ta nữa. Nếu tôi nói với mọi người như vậy thì sẽ bất lợi cho tôi. Nhưng nếu tôi làm cho họ tin rằng anh cũng xuất chúng như Ibsen – thì chẳng mấy chốc, họ sẽ không thể phân biệt được sự khác nhau giữa hai người nữa.”

“Ôi Chúa ơi, ông có thể làm thế?”

“Đó chỉ là một ví dụ thôi, Ike ạ.”

“Nhưng thế thì thật tuyệt!”

“Đúng vậy. Rất tuyệt vời. Và sau đó thì khán giả sẽ thấy xem cái gì cũng thế. Khi ấy là chẳng có cái gì là quan trọng hết – cả tác giả lẫn công chúng mà họ phục vụ.”

“Sao lại thế Ellsworth?”

“Thì đấy, Ike, không có chỗ cho cả Ibsen và cậu trên sân khấu. Cậu biết điều đó, đúng không?”

“Theo nghĩa đen thì đúng thế.”

“Và cậu thì muốn tôi tạo chỗ cho cậu đúng không?”

“Tất cả chuyện vớ vẩn này đều đã được bàn tới, mà lại bàn hay hơn và ngắn gọn hơn nhiều,” Gus Webb nói. “Tôi tin càng ngắn thì càng hiệu quả.

“Bàn tới ở đâu hả Gus?” Lois Cook hỏi.

“Những kẻ chẳng ra gì, rồi sẽ là tất cả,[117] bà chị ạ.”

“Gus thô lỗ, nhưng sâu sắc,” Ike nói “Tôi thích anh ta.”

“Quỷ tha ma bắt anh đi,” Gus nói.

Quản gia của nhà Lois Cook bước vào phòng. Đó là một người đàn ông đứng tuổi, oai vệ; ông mặc một bộ đồ lễ phục chỉnh tề. Ông ta báo tin Peter Keating đến.

“Peter à?” Lois Cook nói với vẻ hoan hỉ. “Tất nhiên rồi, đưa cậu ta vào, đưa vào ngay đi.”

Keating bước vào phòng và dừng lại, giật mình khi nhìn thấy mọi người đang tụ tập.

“Ồ… xin chào” Anh nói với vẻ thất vọng. “Tôi không biết là chị đang có khách, Lois ạ.”

“Khách khứa gì đâu. Vào đi, Peter, anh ngồi đi, tự lấy một ly đi, anh biết mọi người cả mà.”

“Chào Ellsworth,” Keating nói, mắt nhìn Toohey trông cậy.

Toohey vẫy tay chào, trườn người lên và ngồi xuống một cái ghế bành, vắt chân một cách duyên dáng. Mọi người trong phòng đột ngột tự động chỉnh lại tư thế: ngồi thẳng hơn, chân khép lại, cố khép miệng lại một cách thư giãn. Chỉ có Gus Webb là vẫn nằm ườn như trước.

Trông Keating điềm tĩnh và đẹp trai. Anh mang đến cho căn phòng không được thông khí một không khí mát mẻ của người vừa mới đi bộ qua những đường phố lạnh lẽo. Nhưng anh nhợt nhạt, và những cử động của anh chậm rãi, mệt mỏi.

“Xin lỗi nếu như tôi đã làm phiền, Lois,” anh nói. “Tôi chẳng có việc gì làm, và lại cảm thấy cô đơn quá, nên tôi đã nghĩ là rẽ vào đây một chút.” Anh gần như bỏ qua từ “cô đơn” bằng một nụ cười tự giễu mình. “Quá mệt mỏi với Neil Dumont và cả cái lũ khốn kiếp ấy. Thấy cần có những người bạn vui vẻ một chút – giống kiểu như một món ăn tinh thần, phải không?”

“Tôi là một thiên tài,” Ike nói. “Một vở kịch của tôi sẽ diễn ở Broadway. Tôi và Ibsen. Ellsworth đã nói như vậy.”

“Ike vừa mới đọc vở kịch mới của anh ta cho chúng tôi nghe,” Toohey nói. “Một tác phẩm tuyệt vời.”

“Anh sẽ thích nó, Peter,” Lancelot Clokey nói. “Nó thực sự rất hay đấy.”

“Đó là một kiệt tác,” Jules Fougler nói. “Tôi hy vọng là anh xứng đáng để xem nó, Peter ạ. Nó là loại kịch rất kén khán giả. Nếu anh là một kẻ phàm phu tục tử, với một tâm hồn khô héo và trí tưởng tượng hạn hẹp, vở kịch này không dành cho anh. Nhưng nếu anh là một con người chân chính với trái tim rộng lớn, tràn ngập tiếng cười; nếu anh là người đã giữ gìn tâm hồn không hoen ố của tuổi thơ cho những cảm xúc trong trẻo – thì anh sẽ thấy nó là một vở kịch không thể quên được.”

“Trừ khi các ngươi trở thành những đứa trẻ, các ngươi sẽ không được bước vào thiên đường.”[118] Ellsworth Toohey nói.

“Cảm ơn, Ellsworth,” Jules Fougler nói. “Tôi sẽ lấy nó làm câu đề từ của bài phê bình.”

Keating nhìn Ike và những người khác với ánh mắt phấn khích. Tất cả bọn họ đều có vẻ xa vời và thánh thiện; họ ở một tầng cao phía trên anh về kiến thức; nhưng gương mặt của tất cả bọn họ đều có dấu ấn của sự ấm áp, của một sự chào đón với những người bên dưới họ.

Keating uống say cảm giác về sự vĩ đại của họ – cái món ăn tinh thần mà anh tìm kiếm ở đây. Anh cảm thấy mình được nâng lên nhờ họ. Mọi người nhìn thấy sự cao thượng của mình hiện hữu qua anh. Một chu trình khép kín được hình thành trong căn phòng và vòng tròn của nó đã đóng lại.

Tất cả mọi người đều nhận ra điều đó, trừ Peter Keating.

*

* *

Ellsworth Toohey đã lên tiếng ủng hộ kiến trúc hiện đại.

Suốt mười năm qua, trong khi hầu hết nhà ở đều tiếp tục được xây dựng như những bản copy trung thành với lịch sử thì những nguyên tắc kiến trúc của Henry Cameron đã chiến thắng trong những công trình thương mại: nhà máy, văn phòng, cao ốc. Đó là một chiến thắng mờ nhạt và méo mó; một sự thỏa thuận miễn cưỡng bao gồm việc bỏ đi những cột trụ và những trán tường, cho phép một số bức tường được để trần trụi, rồi việc sửa lỗi một hình khối nào đó – do vô tình mà đẹp – bằng cách thêm vào một đường gờ xoắn ốc kiểu Hy Lạp đã được đơn giản hóa. Rất nhiều người đã lấy cắp các kiểu dáng kiến trúc của Cameron; chỉ một số ít hiểu được ý tưởng của ông. Phần duy nhất trong lập luận của ông khiến cho chủ sở hữu các công trình không thể cưỡng lại được là tính kinh tế; ông đã chiến thắng về phương diện này.

Ở các nước châu Âu, nhất là ở Đức, một trường phái xây dựng mới đã được hình thành trong một thời gian dài: nó bao gồm việc dựng lên bốn bức tường và một mái bằng phía trên, với một vài cái lỗ được trổ ra. Cái đó được gọi là kiến trúc mới.

Những gì mà Cameron đã đấu tranh – sự tự do thoát ra khỏi những quy tắc độc đoán, sự tự do vốn đặt ra một trách nhiệm nặng nề lên vai các kiến trúc sư có tính sáng tạo – rút cục lại trở thành sự loại bỏ mọi cố gắng, ngay cả những cố gắng để nắm vững các trường phái kiến trúc trong lịch sử. Nó trở thành một tập hợp những quy tắc cứng nhắc mới. Đó là nguyên tắc của sự bất tài một cách có ý thức, của sự thiếu sáng tạo một cách hệ thống, của việc khuyếch trương cái tầm thường.

Cameron từng nói: “Một công trình kiến trúc sẽ tự tạo ra vẻ đẹp của riêng nó; những họa tiết trang trí phải phát sinh từ tư tưởng và cấu trúc của công trình.” Còn những kiến trúc sư mưói thì nói “Một công trình kiến trúc không cần đến vẻ đẹp, không cần đồ trang trí và không cần tư tưởng.” Nói như vậy thật là an toàn. Cameron và một số người khác đã khai phá một con đường mới và trải nhựa cho nó bằng chính cuộc sống của họ. Số đông những người khác – những người vốn tìm sự an toàn bằng cách sao chép kiến trúc đền Parthenon – nhìn thấy mối hiểm nguy và đã tìm một lối đi khác để tới bến an toàn. Họ đi theo con đường của Cameron nhưng bắt nó dẫna họ tới một kiểu đền Parthenon mới, một Parthenon dễ dãi hơn và mang hình dáng của một cái hộp xây từ thủy tinh và bê tông. Cây cọ dũng mãnh đã ngã xuống, nấm đã mọc ra trên thây cây đổ ấy, làm biến dạng nó, vùi giấu nó, và kéo nó trở lại rừng rậm u minh.

Khu rừng giờ đây đã tìm được tiếng nói của mình.

Trong bài viết với tựa đề “Tôi Bơi theo Dòng Chảy” trong chuyện mục Một ý kiến nhỏ, Ellsworth Toohey đã viết:

“Lâu nay, chúng tôi đã lưỡng lự trong việc thừa nhận một hiện tượng có ảnh hưởng lớn mà người ta gọi là Kiến trúc Hiện Đại. Sự cẩn trọng như vậy là cần thiết với bất cứ ai đứng ở vị trí cố vấn về thị hiếu cho công chúng. Quá thường xuyên, những biểu hiện đơn lẻ của sự lập dị bị tưởng nhầm với một phong trào mang tính đại chúng rộng lớn và người ta cần phải thận trọng để không gán cho những hiện tượng đó một tầm vóc mà chúng không xứng đáng.[119] Nhưng Kiến trúc Hiện đại đã đứng vững trước những thử thách của thời gian, đã đáp ứng được nhu cầu của đại chúng, và chúng ta hân hoan nghiêng mình chào đón nó.

Không có gì sai khi chúng ta thừa nhận trong chừng mực nhất định công lao của những người đi tiên phong của phong trào này, ví dụ như ông Henry Cameron đã quá cố. Người ta có thể tìm thấy bóng dáng phong cách kiến trúc hiện đại trong một số công trình của ông. Nhưng cũng giống như tất cả những nhà tiên phong, ông vẫn bị bó buộc bởi những định kiến quá khứ, bởi tính đa cảm của giai cấp trung lưu mà ông từ đó sinh ra. Ông đã không chống nổi sự mê hoặc của cái đẹp và sự hoa mỹ, mặc dù sự hoa mỹ ấy là tác phẩm của chính ông; và do đó mà không thể sánh được với những gì thuộc về các hình thái kiến trúc truyền thống.

Cần phải nhờ đến sức mạnh của một phong trào quần chúng rộng lớn mới làm cho trường phái Kiến trúc Hiện đại được bộc lộ một cách đầy đủ và chân thực. Giờ thì người ta có thể thấy nó lan tràn khắp thế giới, không phải như một đám mây hỗn loạn các ý tưởng màu mè của các cá nhân, mà như một trật tự chặt chẽ, có tổ chức; và nó đặt ra những đòi hỏi nghiêm ngặt với các nghệ sĩ, một trong những đòi hỏi đó là người nghệ sĩ phải tuân thủ bản chất tập thể của công việc mà anh ta làm.

Những quy tắc của trường phái kiến trúc mới này đã được hình thành trong quá trình sáng tạo mang tính đại chúng rộng lớn. Chúng cũng nghiêm ngặt như những quy tắc của trường phái Cổ điển. Chúng yêu cầu một sự đơn giản không son phấn, giống như sự chân thực của một người đàn ông có phẩm giá. Cũng giống như trong thời đại ngắn ngủi của các ông chủ nhà băng quốc tế, mỗi ngày tòa nhà phải có một cái mái che đua ra một cách phô trương; ngày nay, thời đại đang đến đòi hỏi mỗi tòa nhà sẽ có một cái mái bằng. Cũng giống như trong thời kỳ đế quốc của loài người, mỗi ngôi nhà cần phải có những cửa sổ ở góc nhà – biểu tượng của ánh mặt trời được phân phối công bằng cho tất cả mọi người.[120]

Những người có óc xét đoán sẽ nhìn thấy ý nghĩa xã hội hùng hồn trong những hình khối của trường phái kiến trúc mới này. Dưới thể chế bóc lột cũ, thành phần xã hội hữu ích nhất – người công nhân – chưa bao giờ được phép công nhận giá trị của bản thân họ; những chức năng thực tế của họ bị giấu kín, bị ngụy trang; vì thế nên các ông chủ luôn cho đầy tớ của mình diện những bộ chế phục viền vàng lộng lẫy. Điều này được phản ánh trong những công trình kiến trúc của thời kỳ này: những yếu tố chức năng của một tòa nhà như cửa ra vào, cửa sổ, cầu thang được giấu đi dưới những trang trí hình xoáy ốc vô nghĩa. Nhưng trong một công trình kiến trúc hiện đại, chính những yếu tố hữu dụng này – bểiu trưng cho sự lao động cực nhọc – sẽ được phơi bày lồ lộ dưới ánh sáng. Lẽ nào chúng ta lại không nghe thấy từ những yếu tố này chính tiếng nói của một thế giới mới, nơi mà những người công nhân sẽ làm chủ vận mệnh của họ?

Chúng tôi muốn các bạn hướng sự chú ý tới một nhà máy sắp khánh thành của công ty Bassett Brush, một ví dụ tốt nhất cho nền Kiến trúc Hiện đại của nước Mỹ. Đó là một công trình kiến trúc nhỏ, nhưng trong kích thước khiêm tốn của mình, nó là hiện thân của sự đơn giản đến nghiệt ngã của cái kỷ luật mới và là một bằng chứng sinh động cho Sự Vĩ Đại của Những Con Người Bé Nhỏ. Người thiết kế công trình này là Augustub Webb, một kiến trúc sư trẻ đầy hứa hẹn.”

Khi gặp Toohey một vài ngày sau đó, Peter Keating phân vân hỏi: “Ellsworth, ông có ý như thế thật đấy à?”

“Về cái gì?”

“Về kiến trúc hiện đại ấy.”

“Dĩ nhiên là tôi có ý như vậy rồi. Anh thấy bài viết nhỏ ấy của tôi thế nào?”

“Hừm, tôi nghĩ là nó rất hay. Rất thuyết phục. Nhưng Ellsworth, tại sao… tại sao ông lại chọn Gus Webb? Dẫu sao thì tôi cũng đã làm một vài thứ có tính hiện đại trong mấy năm qua đấy chứ. Tòa nhà Palmer khá trần trụi, còn tòa Mowry thì cũng chẳng có gì khác ngoài mái nhà và cửa sổ, còn nhà kho Sheldon thì…”

“Ôi, Peter, đừng có tham lam thế. Tôi đã đối xử khá là tốt với anh, phải không? Thỉnh thoảng cũng phải để tôi lăng-xê ai đó nữa chứ.”

Tại một buổi tiệc trưa, khi phải phát biểu về đề tài kiến trúc, Peter Keating đã tuyên bố: “Nhìn lại sự nghiệp của tôi cho đến ngày hôm nay, tôi đã rút ra một kết luận rằng tôi đã làm việc dựa trên một nguyên tắc chân chính: nguyên tắc ấy là, thay đổi liên tục là điều thiết yếu của cuộc sống. Bởi vì những công trình kiến trúc là một phần không thể thiếu được của cuộc sống, nên kiến trúc cũng phải liên tục thay đổi. Tôi chưa bao giờ tự tạo ra một định kiến về kiến trúc cho bản thân mình, mà luôn đón nhận mọi ý kiến của mọi thời đại. Những người cuồng tín đi khắp nơi rao giảng rằng tất cả các công trình đều phải hiện đại thì đầu óc cũng hẹp hòi như những kẻ bảo thủ luôn bắt chúng ta không áp dụng bất cứ cái gì khoác ngoài những kiểu dáng truyền thống. Tôi không thanh minh cho những công trình theo phong cách kiến trúc Cổ điển mà tôi đã thiết kê. Chúng đáp ứng yêu cầu của thời đại chúng. Tôi cũng chẳng xin lỗi cho những công trình hiện đại mà tôi đã thiết kế. Chúng hiện thân cho một thế giới tốt hơn đang đến gần. Tôi nghĩ rằng chính sự giác ngộ nhỏ bé về nguyên tắc này là phần thưởng và niềm vui cho việc là một kiến trúc sư.”

Khi tin Peter Keating trúng thầu công trình Stoneridge được công bố, trong giới chuyên môn có cả sự hài lòng lẫn những lời xu nịnh đầy ghen tỵ. Anh đã cố gắng để có lại được niềm sung sướng trước đây khi những phi vụ thế này xảy ra. Nhưng anh thất bại. Anh vẫn cảm thấy có chút gì đó tương tự với niềm vui sướng, nhưng nó rất nhạt nhòa và mong manh.

Việc thiết kế Stoneridge có vẻ là một gánh nặng quá sức. Anh không bận tâm tới sự việc mà nhờ nó anh có được công trình này; sự việc ấy cũng đã trở nên mờ nhạt và nhẹ bỗng trong tâm trí anh; anh chấp nhận và gần như đã lãng quên. Đơn giản là anh không thể đối mặt với nhiệm vụ thiết kế một số lượng lớn nhà cửa mà công trình Stoneridge đòi hỏi. Anh cảm thấy rất mệt mỏi. Anh cảm thấy mệt mỏi vào buổi sáng thức dậy, và cả ngày anh thấy mình chỉ chờ đợi đến lúc có thể được trở lại giường ngủ.

Anh bàn giao công trình Stoneridge cho Neil Dumont và Bennett. “Làm đi.” anh nói giọng mỏi mệt, “làm bất cứ cái gì mà các anh muốn.”

“Làm theo kiểu nào, Peter?” Dumont hỏi. “Hừm, một cái gì đó theo kiểu thức thời ấy, nếu không thì những người sở hữu chúng sẽ chẳng thích đâu. Nhưng đừng màu mè quá – để giới báo chí còn bình luận. Làm cho nó vừa có nét cổ điển vừa có cảm giác hiện đại. Thế nào cũng được. Tôi chẳng quan tâm.”

Dumont và Bennett bắt tay vào việc. Keating thay đổi một vài đường nét của các mái nhà trên các phác thảo của họ, một vài cửa sổ. Những bản vẽ sơ bộ được văn phòng Wynand phê chuẩn. Keating không biết liệu có phải chính Wynand đã phê chuẩn hay không. Anh không gặp lại Wynand.

Dominique bỏ đi được một tháng thì Guy Francon tuyên bố về hưu.

Keating đã nói với ông về chuyện ly dị và không đưa ra một lời giải thích nào. Francon đón nhận tin đó một cách bình thản. Ông nói: “Tôi đã chờ đợi tin này. Không sao đâu, Peter. Chắc không phải lỗi của anh, mà cũng chẳng phải của nó.” Từ đó ông không nhắc đến việc này nữa. Bây giờ ông cũng chẳng giải thích về sự rút lui của mình, chỉ nói rằng “Từ lâu tôi đã nói với anh là nó sẽ đến. Tôi đã mệt mỏi. Chúc anh may mắn, Peter.”

Trách nhiệm công ty đè nặng lên đôi vai đơn độc của Keating và cái viễn cảnh cảm thấy tên mình nằm lẻ loi trên cửa văn phòng làm cho Keating lo lắng. Anh cần có một đồng sự. Anh chọn Neil Dumont. Neil có phong cách và tên tuổi. Anh ta là một Lucius Heyer thứ hai.

Hãng đổi tên thành Peter Keating & Cornelius Dumont. Một vài người bạn đã tổ chức một buổi tiệc để mừng sự kiện này, nhưng Keating không tham dự. Anh đã hứa là sẽ đến dự, nhưng anh lại quên mất việc đó và đi nghỉ cuối tuần một mình ở một vùng nông thôn tuyết phủ. Anh chẳng nhớ gì về buổi tiệc cho mãi đến sáng ngày hôm sau khi anh đi dạo một mình dọc một con đường quê bị đóng băng.

Stoneridge là hợp đồng cuối cùng được ký kết bởi hãng Francon & Keating.

 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.