Suối nguồn
XX.
Mười tám tháng trôi qua. Một ngày mùa xuân, Dominique đi bộ đến công trường thi công tòa nhà Wynand.
Cô nhìn những tòa nhà chọc trời trong thành phố. Chúng vươn lên từ những vị trí bất ngờ, vượt qua những mái nhà thấp. Chúng có một vẻ thình lình; như thể chúng vừa nhô lên chỉ một giây trước khi cô nhìn thấy chúng và cô đã chớp được những rung động cuối cùng của chúng. Cứ như thế, nếu cô quay mặt đi và bất thần ngoảnh lại, cô sẽ bắt quả tang những tòa nhà đang bật lên.
Cô rẽ qua một góc phố ở Hell’s Kitchen và đi vào một khu đất rộng đã được dọn sạch.
Những cỗ máy đang bò trên mặt đất bị xới tung để giải phóng mặt bằng cho một công viên trong tương lai. Từ giữa khu đất mọc lên bộ khung tòa nhà Wynand; nó đã hoàn thiện và vươn thẳng lên trời. Phần trên của bộ khung vẫn để trần – trông như cái lồng đan bằng thép. Ở phía dưới, kính và vữa nối nhau dâng lên, phủ kín phần còn lại của những khung thép đang cắt xuyên qua không gian.
Cô nghĩ: Người ta nói rằng trung tâm của quả đất là một khối lửa. Khối lửa đó bị nhốt chặt và câm lặng. Nhưng đôi lúc nó phá tung những tầng cao lanh, sắt, và granit, để bắn tung lên bầu trời tự do. Khi ấy, nó trở thành một thứ như thế này.
Cô bước tới tòa nhà. Có một hàng rào gỗ phủ quanh những tầng dưới của tòa nhà.
Ở trên đó có những bảng quảng cáo lớn ghi tên các hãng cung cấp vật liệu cho tòa nhà cao nhất thế giới. “Thép do công ty Thép Quốc gia cung cấp.” “Kính của tập đoàn Ludlow.” “Thiết bị điện của tập đoàn Wells-Clairmont.” “Thang máy của tập đoàn Kessler.” “Nhà thầu Nash & Dunning.”
Cô dừng lại. Cô nhìn thấy một thứ mà cô chưa từng để ý đến trước đó. Cô có cảm giác một bàn tay vừa chạm nhẹ vào trán cô – bàn tay có khả năng chữa bệnh của những nhân vật trong truyền thuyết. Cô chưa từng biết Henry Cameron và cô cũng chưa từng nghe ông nói, nhưng lúc này, cô có cảm giác cô đang nghe ông nói: “Và tôi biết nếu cậu vẫn mang những lời này đến tận cùng thì đó sẽ là một chiến thắng, Howard, không chỉ là chiến thắng cho cậu mà còn cho cái-đáng-phải-chiến-thắng, cái làm thế giới này tiến lên mặc dù nó chưa bao giờ được thừa nhận. Nó sẽ minh chứng cho rất nhiều người đã ngã xuống trước cậu, những người đã phải chịu đựng như cậu sẽ phải chịu đựng.”
Cô nhìn thấy, trên hàng rào bao quanh tòa nhà vĩ đại nhất New York, một tấm biển nhỏ bằng thiếc với dòng chữ:
“Howard Roark, kiến trúc sư.”
Cô bước về phía phòng giám sát công trình. Cô vẫn thường đến đây để gặp Roark, để theo dõi tòa nhà mọc lên dần dần. Nhưng lần này, trong phòng là một người mới đến làm, anh ta không biết cô. Cô đề nghị gặp Roark.
“Ông Roark đang ở tít trên bể chứa nước. Xin bà cho biết quý danh.”
“Bà Roark.” cô trả lời.
Người đó tìm thấy người giám sát công trường. Ông ta để cô đi lên bằng thang kéo ngoài trời, giống như những lần trước. Thang kéo chiỉ là một vài tấm ván với một sợi dây thừng bao quanh; nó chạy dọc thân tòa nhà.
Cô đứng; hai tay giơ lên bám vào một dây cáp, đôi giày cao gót của cô vững chãi trên mặt ván. Những tấm ván khẽ rung, một luồng không khí ép chiếc váy ôm lấy người cô, và cô thấy mặt đất bị bỏ lại phía dưới.
Cô đã vượt qua những khung cửa rộng của khu cửa hàng. Những dãy phố bên dưới chìm xuống sâu hơn. Cô vượt qua mái hiên của những rạp chiếu phim – đó là những tấm thảm đen được treo bằng những dải màu xoắn. Những cửa sổ văn phòng lướt qua cô, những dải kính dài trôi xuống dưới. Những nhà kho lớn biến mất, chìm xuống cùng với những của cải cất giữ ở đó. Đỉnh tháp của những khách sạn nghiêng nghiêng, như cánh của một chiếc quạt đang chạy và được gấp lại. Những ống khói nhà máy nhìn như những que diêm đang bốc khói, những chiếc ô-tô nhìn giống như các khối vuông màu xám đang di chuyển. Mặt trời làm cho những đỉnh núi cao biến thành những ngọn hải đăng – chúng quét ngang thành phố với những luồng sáng trắng. Thành phố trải rộng bên dưới, từng khối nhà sắt thành hàng dài xuống tận bờ sông. Thành phố đứng kẹp giữa hai dải nước mỏng, màu đen. Nó nhảy qua dòng nước và trải dài về phía bình nguyên và chân trời.
Những mái nhà phẳng hạ thấp hạ thấp dần như những bàn đạp ấn những tòa nhà xuống thấp và đẩy chúng ra khỏi đường đi của cô. Cô vượt qua những khối nhà lắp kính hình vuông – đó là những phòng ăn, phòng ngủ và phòng cho trẻ con. Cô nhìn thấy anh đang đứng phía trên. Anh đứng trên giàn giáo cao nhất của tòa nhà Wynand.
Anh vẫy tay với cô.
Mặt biển cắt ngang qua bầu trời. Mặt biển nâng dần lên khi thành phố thấp dần bên dưới. Cô vượt qua những đỉnh cao nhất của các tòa nhà ngân hàng. Cô vượt qua chóp mái của những tòa án. Cô vượt qua tháp chuông các nhà thờ.
Ở đó, chỉ còn đại dương, bầu trời, và hình dáng của Howard Roark.
HẾT
[1] Vở Ideal – một trong những vở kịch đầu tiên mà Ayn Rand viết, trước khi trở nên nổi tiếng. (NHĐ)
[2] Atlas Shrugged (Atlas vươn mình), tiểu thuyết đỉnh cao và là tiểu thuyết cuối cùng của Ayn Rand. (NHĐ)
[3] Người theo chủ nghĩa vị thân tức là người coi trọng bản thân mình, đặt sự sống của mình và các nguyên tắc đạo đức của mình lên trên. Ở đây, cần phân biệt với khái niệm “ích kỷ” theo nghĩa thông thường mà chúng ta vẫn dùng. Chủ nghĩa vị thân là cả một mảng đề tài lớn trong các tác phẩm của Ayn Rand; vì vậy rất khó giải thích đầy đủ ở đây; chúng tôi đề nghị bạn đọc đọc hết cuốn sách này, và nếu có thể thì đọc thêm các sách khác, để có thể hiểu được chính xác ngụ ý của Ayn Rand ở câu này. (NHĐ)
[4] Ở đây, khi dùng chữ “đức tin” thì Stoddard đang nói đến cái đạo riêng của Roark theo đuổi, không phải một tôn giáo mà là nguyên tắc sống và làm việc bất di bất dịch, nguyên tắc mà Roark cho là tự nhiên và không thể bị thay đổi. (NHĐ-ND)
[5] Tất cả những từ tiếng Anh trong ngoặc đều là những từ rất thông dụng trong các nước phương Tây vì ở đây số lượng người theo Thiên Chúa giáo hoặc một tôn giáo khác rất lớn. Ở Việt Nam, những khái niệm này ít phổ biến; do đó, dịch để cho bạn đọc Việt Nam hiểu được rất khó. Nếu muốn biết thêm, các bạn có thể đọc thêm Kinh thánh, bản tiếng Việt để biết nghĩa và phạm vi sử dụng của những từ này. (NHĐ)
[6]Chú thích thêm của người dịch cho rõ nghĩa.
[7]Chú thích thêm của người dịch cho rõ nghĩa.
[8] Ở đây, Ayn Rand dùng từ man-workship. Nếu dịch một cách thống nhất với các từ trước đó mà Rand dùng, thì sẽ phải dịch là “thờ phụng con người”, nhưng chữ “thờ phụng” có nghĩa tôn giáo quá nặng, như Rand cũng đã đề cập, nên chúng tôi chọn dùng chữ “tôn vinh con người”. (ND)
[9] Triết học gia người Đức (1844-1900). (ND)
[10] Byron: nhà thơ lãng mạn nổi tiếng người Anh. (NHĐ)
[11] Thuyết tâm lý quyết định là thuyết cho rằng tâm lý, chứ không phải tư duy lý tính, quyết định mọi hành vi của con người. (NHĐ)
[12] Chữ thêm cho rõ nghĩa. (NHĐ)
[13] Petey: cách gọi thân mật tên “Peter”. Người Mỹ thường có cách gọi thân mật những người thân bằng cách đổi tên họ đi; ví dụ như William thành Bill, Catherine thành Kate, Kate thành Katie,…vv…
[14] Đền Parthenon thờ Nữ thần Athena, là công trình nổi tiếng nhất của kiến trúc Hy Lạp cổ đại. (NHĐ)
[15] Ở các nhà thờ, thường có một phòng xưng tội cho các con chiên. Phòng này có một cửa sổ chạm trổ cầu kỳ, người xưng tội và cha nhận tội hầu như không thể nhìn rõ mặt nhau. (NHĐ)
[16] Một trong ba kiểu cột trụ thời Hy Lạp cổ đại. Chiều cao cột gấp 7 lần chiều rộng cột. (ND)
[17] Nguyên văn tiếng Pháp: Prix de Paris
[18] Kiểu Doric: một trong ba kiểu cột trụ thời Hy Lạp cổ đại. Chiều cao của cột bằng 5,5 lần chiều rộng của cột. (ND)
[19] Nguyên văn: những họa sĩ mặc áo thụng Hy Lạp.
[20] Kiểu Chippendale: một kiểu đồ gỗ thế kỷ 18 ở Anh; do nhà thiết kế Thomas Chippendale sáng tạo và công bố trong một cuốn sách vẽ các thiết kế đồ gỗ của ông. (NHĐ)
[21] Vua James đệ nhất (1566-1625): một Hoàng đế nổi tiếng của Anh. Đây là thời kỳ có một phong cách kiến trúc riêng. (NHĐ)
[22] Nhà thờ lớn ở Rheims, nơi các vua của Pháp từng được phong vương. Nó được xây theo kiến trúc nhà thờ lớn đặc trưng, giống như của nhà thờ Đức Bà Paris hiện nay. (NHĐ)
[23]Khu nhà triển lãm hải dương học.
[24]Con chó trong nguyên tác. (NHĐ)
[25] Ở đây tác giả chơi chữ trong nguyên bản: màu trắng của tòa nhà triển lãm là do màu sơn của nó, nhưng tác giả chơi chữ “white plague” – vốn là từ ám chỉ “nạn dịch trắng” tức là những thứ dịch vào thế kỷ 19 và 20, trong đó những bệnh thường trở nên xanh xao, trắng nhợt. Những dịch này – ví dụ như lao – lan rộng, khó chữa, khiến nhiều người chết và người ta thường đổ vôi bột trắng trên các mộ chôn tập thể. (NHĐ)
[26] Trong thần thoại La Mã, Diana là nữ thần săn bắn, chị em sinh đôi với thần Appolo, con trai của thần Zeus và Latona. (NHĐ)
[27] Nguyên văn: Bowery Mission, là một chương trình từ thiện ở New York, từ thế kỷ trước, dành cho người nghèo, vô gia cư. (NHĐ)
[28] Trong đoạn này, tác giả chủ ý dùng từ ngữ và cách diễn đạt cầu kỳ, rối rắm, thậm chí có chỗ vô nghĩa để làm nổi bật tính rỗng tuếch trong bài phê bình của Toohey. Chúng tôi cố gắng dịch rối rắm để trung thành với tinh thần của nguyên bản. (NHĐ)
[29] Một khu vực ở thành phố New York. (NHĐ)
[30] Đây là kiểu xe buýt hai tầng, trên nóc xe mở ra và có ghế ngồi cho khách tham quan có thể nắm đường phố xung quanh. (NHĐ)
[31] Danh họa người Hà Lan. (NHĐ)
[32] Nguyên văn “T-Square Romeo”, nghĩa là chàng Romeo dùng thước chữ T. Thước chữ T là loại thuốc chuyên dụng của dân kiến trúc. (NHĐ)
[33] Ở đây, Keating gọi Guy Francon bằng tên riêng là Guy – điều này ám chỉ hai người trở nên rất thân, do đó sẽ không có “ông” hay “ngài” nữa. (NHĐ)
[34] Nguyên văn: Five Orders – tức là năm quy tắc của kiến trúc. Chúng tôi dịch tạm là Ngũ Luật. (NHĐ)
[35] Nguyên văn: Spiritual embezzlement. (NHĐ)
[36] Chơi chữ trong nguyên bản; có ý ám chỉ người ta cắt nước vì Cameron không thanh toán hóa đơn nước, nhưng xã hội cắt hợp đồng vì Cameron không chịu sống và trả giá theo quy luật của họ. (NHĐ)
[37]Tum (còn gọi là cửa trời): thường ở trên nóc các tòa nhà. (NHĐ)
[38]Nguyên văn: cách 500 feet (1 feet = 0,3 mét)
[39]Chó trâu, chó ngao. (NHĐ)
[40]Nguyên văn: Brick-top, tức là Đầu-Gạch (vì tóc Roark màu đỏ). (ND)
[41] Đây là một ngôi đền hình chữ nhật, nằm ở miền nam nước Pháp. Nó được xây dựng khoảng năm 19-16 trước Công nguyên, bởi kiến trúc sư Marcus Agrippa, người đã xây đền Panthenon ở Rome. Nó có kiến trúc cột điển hình của trường phái cổ điển La Mã và hiện là một trong những ngôi đền bảo lưu tốt nhất trong số các đền đài dưới thời đế chế La Mã. (NHĐ)
[42] Ở Mỹ, các trang trại thường xây những tháp hình tròn, cao để đựng ngũ cốc như ngô, lúa mì, đậu tương. (NHĐ)
[43] Nguyên văn: sub-reality. Từ này có nhiều nghĩa, ở đây chúng tôi chọn dịch là thực- tại-thứ-cấp để trung thành với quan điểm của Ayn Rand về siêu hình. (NHĐ)
[44] Người có quan điểm triết chung là người không theo bất cứ một nguyên tắc hay tín điều nhất định nào mà có thể cùng lúc tin vào những tín điều khác nhau. Những người này có thể bị chỉ trích là thiếu nhất quán hoặc không có chính kiến; nhưng cũng có thể được khen là linh hoạt và thực tế. (NHĐ)
[45] Một phong cách kiến trúc phổ biến ở châu Âu vào thế kỷ 18, nặng về trang trí lòe loẹt, cầu kỳ.
[46] Nghĩa đen là “Bếp địa ngục”. Đây là tên một khu nghèo nổi tiếng ở New York, nơi dân nghèo, dân tứ chiếng và dân nhập cư lậu sinh sống. (ND-NHĐ)
[47] Đường chạy dọc bờ sông. (NHĐ)
[48] Nguyên văn: capitol. Capitol là những tòa nhà có kiến trúc mái vòm tròn, dùng làm trụ sở chính của chính quyền tiểu bang tại Mỹ (giống nhà Quốc hội Mỹ). Các tòa nhà này có cấu trúc giống nhau ở trên nước Mỹ và thường là nơi làm việc của thống đốc bang cùng với các cơ quan hành chính lớn nhất của tiểu bang. (NHĐ)
[49] Nguyên văn: Social Register. Đây là một cuốn danh bạ ghi tên và địa chỉ của những cá nhân có thế lực và giàu có nhất trong tầng lớp thượng lưu ở 1 số thành phố lớn tại Mỹ. Các danh bạ này bắt đầu từ cuối thế kỷ 19. Hiện nay nó không còn phổ biến.
[50] Là cỡ áo cho trẻ em. Ở Mỹ, các cửa hàng quần áo thường chia thành phần cho người lớn và trẻ em, với kích cỡ được chuẩn hóa theo độ tuổi. (NHĐ)
[51] Nguyên văn: You’re a pig (“bác là một con lợn” – hàm ý đùa cợt). Trong giao tiếp ở Mỹ, khi đã thân nhau, người ta có thể đùa và nói khá thẳng, kể cả trong quan hệ chủ-thợ. (NHĐ)
[52] Ở Mỹ, muốn hành nghề kiến trúc sư phải thi lấy bằng, giống như với ngành luật, ngành y, tâm lý, hoặc công tác xã hội. (NHĐ)
[53] Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ. (NHĐ)
[54] Icarus: Trong thần thoại Hy Lạp, Icarus là người đầu tiên trên thế giới đã bay lên bằng cách lấy sáp ong gắn lông chim thành một đôi cánh. Tuy nhiên khi anh bay lên cao, ánh mặt trời nung nóng sáp ong làm chúng tan chảy, vì thế phá vỡ đôi cánh và Icarus rơi xuống. Đây được dùng như một biểu tượng kép về ước mơ và sự đối lập giữa ước mơ và hiện thực. (NHĐ)
[55]Ám chỉ người này là khách quen của quán rượu. (NHĐ)
[56] Khi thân mật hơn, người Mỹ gọi nhau bằng tên riêng; còn khi mới gặp họ gọi bằng họ để tỏ sự kính trọng. (NHĐ)
[57] Catherine và Peter ở New York, thuôc bên bờ Đông; bờ biển phía Tây của Mỹ là phía bên kia, gồm những bang như California, Washington, Oregon,vv… (NHĐ)
[58] Vương triều Tudor, trị vì ở Anh từ năm 1485 và 1603. (NHĐ)
[59] Ám chỉ cá tính của nữ hoàng Elizabeth của Anh, người được tiếng là độc lập, tự chủ. (NHĐ)
[60] Nguyên văn là “farther uptown”: khái niệm quy hoạch này không có từ tương đương trong tiếng Việt và ngay cả với Mỹ, nó cũng thay đổi về địa lý theo thành phố. New York là thành phố có quy hoạch riêng và uptown của nó có thể dịch sát nhất là phía Bắc thành phố. (NHĐ)
[61] Đền Panthenon: đền thờ tất cả các vị thần ở Roma (Ý), biểu tượng của kiến trúc Hy Lạp cổ đại. (NHĐ)
[62] Nguyên văn tiếng Anh Quips and Quirks: ở đây tác giả chơi chữ hai âm giống nhau này. Quips là những lời phê bình, soi mói, chỉ trích; còn quirks là những đường xoi
trong kiến trúc. Cái tên này ám chỉ nội dung của mục báo này chuyên về phê bình kiến trúc. (NHĐ)
[63] Ở Mỹ, cánh cửa văn phòng hay có một cái khe nhỏ, cắt ngang, ở phía gần dưới của cánh cửa, để người bên ngoài đút thư vào trong. (NHĐ)
[64] Khu trung tâm New York. (NHĐ)
[65] Trong nguyên văn, chữ “cuồng tín và quên mình” là “fanatic and selfless” – chữ selfless hàm ý không nghĩ đến bản thân mình. Roark trả lời bằng chữ “selfish” – thường được dịch ra tiếng Việt là “ích kỷ”. Tuy nhiên từ “ích kỷ” có nghĩa xấu trong tiếng Việt; trong khi hàm ý của Rand hoàn toàn không như vậy. Kết hợp với việc chơi chữ, chúng tôi chọn dịch là “vì-mình”. Những ý tứ này sẽ rõ hơn sau khi bạn đọc đọc hết tiểu thuyết và đọc thêm về Ayn Rand. (NHĐ)
[66] Nguyên văn “industry”. Trong tiếng Anh, từ này có rất nhiều nghĩa và một số nghĩa không có tương đương về nội hàm trong tiếng Việt, nên chúng tôi chỉ chọn dịch là “Lao động”. Nghĩa thông thường của nó là công nghiệp, sự chăm chỉ. (NHĐ)
[67] Ngôi đền nhỏ, thờ thần chiến tranh Athena ở Hy Lạp, được xây dựng từ năm 420 trước Công nguyên. (NHĐ)
[68] Đoạn này chơi chữ tiếng Anh với các từ vô nghĩa ăn vần với nhau; rất khó dịch ra tiếng Việt. Nó chỉ nhấn mạnh là thể loại văn chương của Lois mà Toohey ca ngợi chỉ là một kiểu văn chương vô nghĩa. Nguyên văn tiếng Anh: “…Toothbrush in the jaw toothbrush brush brush tooth jaw foam dome in the foam Roman dome come home home in the jaw Rome dome tooth toothbrush toothpick pickpocket socker rocket…” (ND)
[69] Đây là sự chơi chữ vì clouds (đám mây) đọc gần giống với shrouds (vải liệm). (ND)
[70] Nguyên văn “settlement house”, là một dạng nhà tập thể dành cho những người nghèo hoặc bình dân muốn tự nguyện chuyển đến sống với nhau. Đây là một phong trào rất lớn ở đầu thế kỷ 20 tại Mỹ. Trong các nhà định cư này, giống như một nhà tập thể, mọi người có phòng đọc sách chung, có khu cho trẻ em, có các hoạt động khác. Gần như nhà tế bần nhưng được tổ chức theo mô hình hợp tác. (NHĐ)
[71] Nguyên văn là Toohey – gooey – phooey – hooey. Cuốn thơ mà Peter đọc trước đó cũng toàn những từ ăn vần với nhau theo kiểu này. Chúng tôi cố gắng dịch vần và giữ ý của nguyên tác. (NHĐ)
[72] Trong tiếng Anh, thời quá khứ và hiện tại được biểu hiện trực tiếp qua cách chia động từ. Ở đây, ý Keating muốn nói Dominique dùng từ “đã từng” là sai vì anh vẫn đang phải lòng cô. (NHĐ)
[73] Nói tắt của tuxedo: áo dạ tiệc màu đen, có hoặc không có đuôi tôm ở phía sau, dùng trong các lễ nghi trang trọng. (NHĐ)
[74] Nguyên văn: Potter’s Field – một khu nghĩa trang ở New York. Cụm từ này cũng có thể được dùng để ám chỉ nghĩa trang cho những người vô danh, người nghèo không có chỗ chôn. (NHĐ)
[75]Tên một loại đồ uống. (NHĐ)
[76]Tên những món ăn rất bình dân, thậm chí tầm thường. (NHĐ)
[77]Tên những món ăn cao cấp. (NHĐ)
[78] Nguyên văn Knock Me Flat – cụm này là tên một vở kịch và có thể dịch nhiều cách khác nhau tùy theo nội dung vở kịch – Ở đây, vì không biết nội dung, do nó có thể chỉ là một cái tên dựng lên, chúng tôi chọn dịch là Đè em ra đi cho phù hợp với giọng điệu mỉa mai của Toohey. (NHĐ)
[79] Một nhánh tôn giáo thuộc nhà thờ Anh rất khắt khe về đạo đức; từ này dùng ám chỉ những người có những nguyên tắc đạo đức rất khắt khe, luôn mong muốn tiến tới sự thanh sạch. (NHĐ)
[80] Nguyên văn “bitch” nghĩa là “chó cái”. Từ này trong tiếng Mỹ được dùng để chửi rủa, ám chỉ những người đàn bà độc ác, nanh nọc, lắm lời, xấu tính.
[81] Nguyên văn: humanitarian. (NHĐ)
[82] Donatien Alphonse Francois, một hầu tước người Pháp, sống từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, nổi tiếng vì tư tưởng về tự do tuyệt đối, đặc biệt là tự do trong các khoái cảm nhục dục. Cụm từ “hầu tước vùng Sade” ám chỉ sự bạo dâm hoặc những người theo đuổi sự thăng hoa của bản thân và sự tự do một cách quyết liệt, đến mức như hành xác. (NHĐ)
[83]Guy chêm tiếng Pháp (trước đây ông ta học ở Pháp).
[84]Elsie là tên con gái, ám chỉ sự yếu đuối của Ellsworth. (NHĐ)
[85]Nghề này ở Mỹ thường vất vả và thu nhập thấp. (NHĐ)
[86] Trong Kinh thánh, câu này có ý nói rằng kẻ nào đặt cái tôi và cuộc sống của mình lên trên Chúa thì khi chết sẽ xuống địa ngục, còn kẻ nào biết quên mình mà đặt đức tin vào Chúa thì sau khi chết sẽ lên thiên đường và sống cuộc sống vĩnh hằng với Chúa. (NHĐ)
[87] Trích từ Sáng Thế Ký trong kinh Cựu ước: khi Chúa Trời tạo ra con người từ đất, Người đã nặn họ theo như hình dáng và hiện thân của Chúa. Ở đây, Ayn Rand đã chơi chữ: chữ “Người” được dùng bằng đại từ ngôi thứ ba số ít “him” – vừa có nghĩa là Chúa Trời, vừa có nghĩa là Howard Roark, người đã tạo ra ngôi nhà. (NHĐ)
[88] Một loại bánh quy làm bằng bột đánh nhuyễn, kéo dài rồi xoắn lại, giống như
người ta xoắn những quả bóng bay dài thành những vòng tròn. (NHĐ)
[89] Ám chỉ ba quả cầu tung hứng của các nghệ sĩ trong rạp xiếc. (NHĐ)
[90] Trong nguyên bản, đoạn này có dạng thức một bài đồng dao, có vần điệu – giống những bài “Ve vẻ vè ve, nghe vè thằng ngốc” của Việt Nam. (NHĐ)
[91] Chơi chữ trong nguyên bản, con chiên của Chúa ám chỉ những người có đức tin, còn Roark vừa không có đức tin lại vừa không phải là thiên tài thực sự (NHĐ)
[92] Nguyên văn: Jello-O, một lôại bánh có bề mặt nhẵn và đặc, giống như thịt đông (NHĐ)
[93] theo Kinh thánh, con người từng muốn xây một ngôi tháp cao tới thiên đàng, nhưng Chúa Trời giận sự cao ngạo của con người nên khiến cho loài người không nói chung một thứ tiếng; do đó, họ không thể hiểu nhau và không xây nên được toà tháp. (NHĐ)
[94] Nhãn hiệu một hãng nước rửa nổi tiếng – chuyên về sản phẩm rửa toa-lét, làm sạch thảm, thông cống v.v…
[95] Cái chết đen: chỉ những cái chết do đại dịch Dịch hạch ở châu Âu vào thế kỷ 14, giết chết 75 triệu người. Cái chết đỏ: tên một đại dịch được nhắc tới trong truyện ngắn The Masque of the Red Death (Vũ kịch của thần chết Đỏ) của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe; trong đó người bệnh thường lên một cơn đau đớn khủng khiếp và tiết ra máu đỏ thay vì mồ hôi. (ND-NHĐ).
[96] Đây là tên của một trong những chúa quỷ trong thần thoại Thiên chúa giáo, về sau còn có thể được gọi là quỷ Sa-tăng. (NHĐ)
[97]Dầu thầu dầu để chữa sỏi mật. (ND)
[98]Tương đương 2,54 xăng-ti-mét. (NHĐ)
[99] Trong nguyên bản tiếng Anh là “I Do”. (NHĐ)
[100] Sparta: tên một thành bang thời Hy Lạp cổ đại nổi tiếng về tính kỷ luật quân sự và các chiến sĩ dũn cảm (ND).
[101] Đại lộ sang trọng bậc nhất ở thành phố New York. (ND-NHĐ)
[102] Danh mục Đăng ký Xã hội là một danh mục tên họ và địa chỉ của những người giàu có và nhiều quyền lực trong giới thượng lưu xã hội Mỹ. (ND)
[103] Herbert Spencer, triết gia người Anh, cha đẻ của thuyết Darwin xã hội; lý thuyết này cho rằng kẻ mạnh nhất sẽ tồn tại. (ND-NHĐ)
[104] Attila, (406-453), vua người rợ Hun, một dân tộc gốc Trung Á và di cư sang châu Âu, từng tấn công và gây kinh hoàng cho các dân tộc người German và người La Mã trong suốt một thời gian dài trước khi bị người Visigoth và người La Mã liên minh đẩy lui trong trận chiến Chalons năm 451. (ND)
[105] Dấu hiệu nơi mua bán dâm, thường treo ngoài ô tủ kính của các cô gái bán hoa. (NHĐ)
[106]Một nhân vật trong vở Giấc mộng Đêm hè của Shakespeare. (ND)
[107]Trò chơi bài, cho hai người chơi, gồm hai bộ bài 52 quân. (NHĐ)
[108] Một hãng thuốc ho nổi tiếng, trên chai và quảng cáo có dán hình anh em nhà Smith. (NHĐ)
[109] Nữ anh hùng dân tộc Pháp, người từng lãnh đạo nước Pháp trong cuộc chiến một trăm năm với Anh rồi bị người Anh kết tội tà đạo và xử tử. (ND)
[110] Dãy núi hùng vĩ ở bang Arizona, một trong những kỳ quan thiên nhiên nổi tiếng thế giới. (ND)
[111] Studio là một kiểu nhà có diện tích rất nhỏ, phòng ngủ và phòng ăn thường ghép chung nhau thành một phòng, ngoài ra là một khu bếp nhỏ và nhà tắm. Studio thường dành cho người độc thân ít tiền. (NHĐ)
[112] Thường là phố chính tại các thành phố và thị trấn ở Mỹ. Đây gần như là một quy tắc quy hoạch ở Mỹ. (NHĐ)
[113] Trích trong Kinh thánh. Lời chúa Jesus khi thấy dân chúng ném đá một người đàn bà bị kết tội ngoại tình “Kẻ nào không có tội thì hãy ném hòn đá đầu tiên”. Nhưng không ai là không có một tội lỗi nào đó và do đó không ai có quyền ném đá người khác. (ND)
[114] Chủ điểm, chủ đề của một bản nhạc. (NHĐ)
[115] Henrik Ibsen (1828-1906): nhà soạn kịch nổi tiếng thế giới người Na Uy, người khởi xướng trào lưu kịch hiện thực hiện đại và là người có số lượng kịch được dàn dựng nhiều nhất sau Shakespears. (NHĐ)
[116] Màu lông ngỗng khốn khiếp (tiếng Pháp trong nguyên bản).
[117] Trích trong Kinh thánh, ý rằng những người chưa có gì, nhưng có đức tin, thì rồi sẽ nhận được tất cả ở thiên đường. (ND)
[118] Một câu trong Kinh thánh. (ND)
[119] Chúng tôi cố gắng dịch những câu dài dòng để trung thành với nguyên bản và để làm nổi rõ sự rườm rà trong văn phong của Toohey. (NHĐ)
[120] Câu sai ngữ pháp và cụt ý một cách cố tình trong nguyên bản tiếng Anh. (NHĐ)
[121] Chỉ việc ra nhà thị chính thành phố và để cho thẩm phán đọc những câu thuộc lòng như “Tôi thay mặt chính quyền bang… tuyên bố hai người là vợ chồng”. (NHĐ)
[122] Thuyết nhất thể là thuyết cho rằng chỉ có một Chúa duy nhất chứ không phải Chúa ba ngôi (Cha, Con và Thánh Thần) như trong đạo cơ đốc. (NHĐ)
[123]Chủ nghĩa duy ngã độc tôn: chủ nghĩa coi mình là trên hết. (NHD)
[124]Trong nguyên bản là 6 inch. (NHĐ)
[125]Khoảng 150 km/giờ (tốc độ cho phép là 105km/giờ). (NHĐ)
[126] Phong cách xây dựng ở châu Âu vào thế kỷ 18, rất cầu kỳ, nhiều họa tiết trang trí. (NHĐ)
[127] Dominique nói vòng vo, rối rắm, vô nghĩa và chúng tôi cố gắng giữ đúng ý tứ trong nguyên tác bằng cách dịch rối rắm. (NHD)
[128] Trong nguyên bản: Dạ dày của tôi không giống dạ dày của sinh viên y khoa. (NHD)
[129] Một hãng làm bánh pút-đinh và kem. (NHD)
[130] Nguyên văn “a hair shirt”, là áo dệt từ sợi vải mỏng, thô, của các thầy tu theo dòng tu khổ hạnh. (NHD)
[131] Điệu nhảy gồm nhiều người, quây thành vòng tròn hoặc các hình khác nhau, nhưng nhảy theo nhịp và các động tác cố định. (NHD)
[132] Petagonians (còn có một tên khác là Tehuelches) là tên gọi chung cho những thổ dân thuộc các bộ lạc sinh sống trên vùng Petagonia. Petagonia là phần lãnh thổ chủ yếu thuộc Argentina và Chile. (ND)
[133] Nguyên văn: “dialectic trans-spatial interdependence” – cố tình vô nghĩa trong nguyên bản. (ND)
[134]Tài khoản trả trước thường là cho khách hàng quen. (NHD)
[135]Bánh kếp làm bằng bột, thường ăn với mật vào buổi sáng. (NHĐ)
[136] Sau đại khủng hoảng những năm 1930s, tổng thống Roosevelt áp dụng chính sách can thiệp vào nền kinh tế, thay vì để thả lỏng cho thị trường tự vận hành như giai đoạn trước của Chủ nghĩa tư bản. (NHĐ)
[137] Nguyên văn “pistachio-green” có nghĩa là màu xanh của cây hồ trăn. (NHĐ)
[138] Trích từ Kinh thánh: Chúa dạy rằng nếu một người tát ta vào má bên phải, hãy chìa nốt má bên trái cho họ. (NHĐ)
[139] Nguyên văn: utter egoist. Ego nghĩa là cái tôi, egoist là người sống vì bản thân mình, đặt cái tôi của mình lên trên hết, người ích kỷ. (NHĐ)
[140] Những hợp âm đứt quãng, vang rền ở phần kết thúc của các bản giao hưởng (NHĐ)
[141] Đĩa than là loại đĩa to, hình tròn, có rãnh trên bề mặt và phải đọc bằng một loại máy hát đặc biệt. (NHĐ)
[142] Ở hầu hết các thành phố có quy hoạch cẩn thận ở Mỹ, đường phố được chia thành bàn cờ và dặt tên theo quy tắc thống nhất: các đường phố từ Bắc xuống Nam thì được đánh số, còn các đường phố từ Đông sang Tây thì được đặt tên riêng. (NHĐ)
[143] Nguyên văn “tea sanwiches”, là những chiếc bánh mì kẹp nhân nhỏ, có kích thước chỉ vừa đủ chừng hai miếng cắn; có thể được kẹp nhiều loại nhân khác nhau – như nhân thịt gà, thịt bò, cá trích, rau, thịt lợn xông khói, v.v… (NHĐ)
[144] Cracker là một loại bánh, thường làm bằng bột, có thể cho thêm muối cho mặn, ăn kèm với súp, sa-lát, hoặc với pho-mát. (NHĐ)
[145] Thánh Patrick là vị thánh bảo hộ của Ireland, ngày lễ này được tổ chức vào 17-3 hàng năm, với các cuộc diễu hành lớn. Vào ngày này, các nơi thường trang trí màu xanh lá cây của Ireland và người ta có tục lệ uống rượu bia, ăn các đồ có nguồn gốc Ireland. (NHĐ)
[146] Nguyên văn là “social worker” – đây là những người làm những công việc liên quan tới các đối tượng thấp nhất trong xã hội như người nghèo, người nghiện ngập, người mất trí, v.v… (NHĐ)
[147] Nguyên văn: They live second-hand. Thứ sinh có nghĩa là không sinh ra từ bản thân chủ thể hành động hoặc cảm xúc mà chỉ phản ánh từ người khác; nó gần nghĩa với “phát sinh” nhưng không hoàn toàn nên chúng tôi chọn dịch là “thứ sinh”. (NHĐ)
[148] Nguyên văn: A self-sufficient ego. (NHĐ)
[149] Nguyên văn: Bronx Modern, Bronx là khu nổi tiếng vì tội phạm và các tệ nạn ở New York.
[150] Nguyên văn: an error X-ed out of existence. Chỗ này khó dịch nguyên văn vì trong tiếng anh chữ X có thể đứng một mình làm động từ ám chỉ sự gạch chéo để xóa sổ, đồng thời nó có nhiều nghĩa bóng khác. (NHĐ)
[151] Y.M.C.A (Young Men’s Christian Association): Hội Thanh Niên Cơ Đốc (NHĐ).
[152] Trong các tòa nhà của Mỹ đều phải có cửa thoát hiểm. Đối với nhà cao tầng, cửa thoát hỏa thường là cửa ra bên ngoài sân thượng hoặc bên hông nhà, từ đó có cầu thang sắt thả xuống mặt đất. Những người hút thuốc thường ra ngồi ngoài cửa, trên sân thượng hoặc cửa thoát hỏa. (NHĐ)
[153] Closet là một khoảng không hẹp, thường có hình chữ nhật, kích thước có thể vừa vài người đứng. Nó được xây lẫn vào trong tường, là loại tủ chìm để treo quần áo, cất đồ đạc không dùng, hoặc các việc khác. (NHĐ)
[154] Ở Mỹ khi có các phong trào, các cuộc đình công, hay bầu cử, người ta thường làm ra các khuy cài áo hình tròn và các sticker – một miếng giấy nhỏ dán sẵn hồ khô, giống như nhãn vở – trên đó có ghi các dòng chữ hay khẩu hiệu ủng hộ hay phản đối (NHĐ)
[155] Nhân vật trong vở kịch cùng tên của thi hào Goethe, người đã ký giao kèo với quỷ Sa-tăng, theo đó quỷ Sa-tăng sẽ phục vụ Faulst lúc sống và giúp anh ta có đủ mọi thứ; để đổi lại khi Faulst chết, con quỷ sẽ có được linh hồn anh ta. (NHĐ)
[156] Các lời khuyên trong Kinh thánh và từ các điển tích của Kinh thánh hoặc các tôn giáo có thờ Chúa Trời. (NHĐ)
[157] Ám chỉ một số tôn giáo và lý thuyết coi lý trí và thứ tội lỗi, chỉ có đức tin là quan trọng. (NHĐ)
[158]Đây là lĩnh vực của nhiều tôn giáo: tin thì mới biết, hay biết thì mới tin. (NHĐ)
[159]Tiếng Latin, có nghĩa là “tiếng nói của quần chúng”. (NHĐ)
[160]Tiếng Latin, “tiếng nói của Thượng đế”. (NHĐ)
[161] Theo Kinh thánh, Chúa vốn sáng tạo ra ông tổ đầu tiên của loài người – Adam và Eva – như những sinh vật hạnh phúc, sống trên thiên đàng. Nhưng khi Eva bị con rắn xúi giục hái đưa cho Adam ăn quả táo từ trên cây Thiện Ác (cái cây khiến con người ăn vào sẽ biết nghĩ và phân biệt phải trái) thì cả hai bị Chúa trừng phạt và đẩy xuống trái đất. (NHĐ)
[162] Ám chỉ ở thời điểm này, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa xã hội cũng xuất hiện ở châu Âu; và nước Mỹ cũng tiếp nhận một số tư tưởng. (NHĐ)
[163]Thành ngữ “người cuối cùng được cười” ám chỉ người chiến thắng cuối cùng.
[164]Trên đồng xe của Mỹ có hai mặt, một mặt gọi là mặt đầu (có hình người), một mặt gọi là đuôi (không có hình người). Khi người ta phải tung đồng xu để quyết định điều gì, người ta thường nói “Đầu hay đuôi”. (NHĐ)
[165] Theo thang độ F, tương đương 37oC. (NHĐ)
[166] Trong văn hóa đại chúng ở Mỹ có tồn tại những truyền thuyết rằng trong lòng đất có những con quái vật khổng lồ đốt lò lửa, như quỷ sứ ở địa ngục. (NHĐ)
[167] Nguyên văn: Chanchellor of England – đây là một chức vụ rất cao trong chính phủ Anh, do thủ tướng chỉ định. Theo truyền thống, người giữ chức này làm nhiệm vụ giữ ấn tín của nhà vua, làm cha tuyên úy của Hoàng gia, và là người hướng đạo cả về tinh thần cũng như các vấn đề thờ sự cho Hoàng gia. Về sau, chức năng quan tòa của chức vụ này xuất hiện. (NHĐ)
[168] Đây chắc là một phóng tác hiện đại từ bi kịch cổ điển của Shakespeare vì Bronx và Brooklyn là hai khu ở New York. (NHĐ)
[169] Nguyên văn: benefit of doubt (tạm dịch là quy tắc nghi ngờ nhân đạo). Đây là một quy tắc trong hành xử thông thường cũng như trong luật pháp ở Mỹ, theo đó, nếu như chưa có bằng chứng rõ ràng hoặc có nhưng không đủ thì người ta sẽ nghiêng về phía nhân đạo mà tin rằng thủ phạm không có tội. (NHĐ)
[170] 1Nguyên văn: mea culpa – mea culpa – mea maxima culpa (tiếng Latin). Đây là một câu cầu nguyện trong bài cầu nguyện thông thường trong các lễ thông công của nhà thờ thiên chúa giáo La Mã, theo đó người cầu nguyện sẽ nhận tội và cung khai tội trước Chúa. (NHĐ)
[171] Phần trong ngoặc là phần thêm cho rõ nghĩa. (NHĐ)
[172] Các tờ báo lớn ở Mỹ thường ra hai số: buổi sáng và buổi chiều; vì thế tòa soạn phải có những người làm việc đêm để phục vụ số buổi sáng sớm hôm sau. (NHĐ)
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.