Tương lai của một Ảo tưởng

Lời Người Dịch



1. Freud coi tôn giáo là một hiện tượng nhân văn trong xã hội văn minh. Tôn giáo là phó sản từ sự “gạt bỏ những bản năng” bằng những phương tiện “cấm đoán” tìm thấy trong mọi văn hóa. Tôn giáo nảy mầm từ mặc cảm Oedipus, và phơi bày sự bất lực của con người ở trần gian, phải đối mặt với số phận cuối cùng là cái chết, đối chọi với những cấm cản ràng buộc của xã hội, và những sức mạnh của tự nhiên.

Ông nhìn Gót như sự thể hiện của khát khao về một người cha thấy trong tâm lý con-trẻ. Các tôn giáo xoay quanh một hay nhiều Gót, trong ngôn từ của ông, chúng giữ một “nhiệm vụ gồm ba lớp: “phải ‘trừ tà trục quỉ’ cho những khiếp hãi của con người trước thế giới tự nhiên”, “phải hòa giải con người với sự tàn ác của số phận, đặc biệt là khi được thể hiện qua cái chết”, và “phải đền bù cho những đau khổ và thiếu thốn vốn đời sống văn minh đã áp đặt lên con người nói chung”. Do đó, tôn giáo tạo nên một “kho tàng gồm các ý tưởng sinh ra từ nhu cầu xoa dịu những đau khổ của con người, khiến có thể kham chịu được”.

Tôn giáo mà Freud nói đến “tương ứng với hình thức cuối cùng trong sự tiến hóa của tôn giáo, là đạo Kitô thực hành trong nền văn minh da trắng hiện nay”. Khác với Jung, sau ông, là người đã dựa nhiều ý tưởng trên các tôn giáo phương Đông (chủ yếu là Ấn Độ giáo và Phật giáo). Về mặt lôgic, Freud nhấn mạnh trên một yếu tính đặc thù của Kitô giáo, đó là mối “quan hệ cha con”. Ông khẳng định rằng “Gót là một người cha cao vời, hoài mong về người cha là gốc của nhu cầu về tôn giáo.”

Freud phân biệt ảo tưởng (illusion) và sai lầm: một ảo tưởng, là sản phẩm của ao ước, không nhất thiết phải là sai lầm. Hơn nữa, ông nói thêm “Tôn giáo do đó có thể là chứng loạn thần kinh phổ quát của nhân loại, giống như ám ảnh nhiễu loạn thần kinh của trẻ con, khởi phát từ mặc cảm Oedipus, trong tương quan cha con.” Ông thậm chí còn cho rằng “những người sùng đạo được bảo vệ ở một mức độ cao trước các nguy cơ của một số bệnh thần kinh; sự chấp nhận của họ về bệnh thần kinh phổ quát đã tránh cho họ công việc phải xây dựng một bệnh loạn thần kinh cá nhân cho riêng họ.” Hiểu là những tín đồ các tôn giáo đã mắc một thứ bệnh thần kinh phổ quát rồi, nên miễn nhiễm.

2. Thực có Gót không, hay hình ảnh đó chỉ là một tưởng tượng, và cảm giác của chúng ta về hiện hữu đó chỉ không gì khác là một hy vọng thầm kín cho khát khao lớn nhất của con người được thành? Gót là có thực – hay chỉ là một tưởng tượng? Đó là câu trả lời tự nhiên và quen thuộc nhất, và cũng xa xưa nhất, ghi lại từ cổ thời Hylạp. Khoảng năm sáu trăm năm trước công nguyên, triết gia Xenophanes đã viết, “sự thật rõ ràng về các vị Gót là không có người nào từng nhìn thấy, cũng chẳng có bất kỳ người nào bao giờ sẽ biết.”

Đây là điều đương nhiên, nhưng ông tuyên bố biết những huyền thuyết về các Gót đến từ đâu. Ông giải thích “con người có xu hướng dựng hình ảnh của tất cả mọi người và tất cả mọi thứ giống như là chính họ. Người Ethiopia, ông nói, làm những Gót của họ có da sậm, mũi tẹt, trong khi người Thracian làm các Gót của họ có da trắng, tóc hung đỏ và mắt xanh. Tin tưởng rằng các vị Gót có bất kỳ loại hình thể nào của con người tất cả là thứ nhân dạng hóa ấu trĩ trẻ con.”

Thế nên, ông còn mỉa mai viết thêm “Nếu những con bò và những con ngựa, hay những con sư tử đã có tay, và nếu chúng có thể vẽ được, sau đó con ngựa sẽ vẽ các Gót của chúng có dạng như ngựa, bò như bò, làm thân thể các Gót của chúng có hình dạng tương tự như của riêng chúng.” Đó là Xenophanes với những Gót của dân Hylạp vẫn cho rằng cư ngụ trên ngọn núi cao nhất xứ họ là Olympus.

Thế nhưng sau đó, các tôn giáo Abaham ra đời, khái niệm Gót trở nên trừu tượng hơn, huyền nhiệm hơn, và vì những ngọn núi đã bị con người chinh phục, nên Gót được đẩy cho cao xa hơn nữa, ra ngoài cả thời gian lẫn không gian, ra khỏi thực tại vật chất trần gian. Câu hỏi trên nay được chuyển thành – Gót là có thực không – hay chỉ là một ảo tưởng, giống như một giấc mơ trong đêm dài đời người? Câu hỏi này đã gây tranh luận từ lâu trong triết học tôn giáo phương Tây. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ý tưởng rằng Gót chỉ đơn giản là một sự làm đầy mong ước của con người đã ngày càng được chú ý và được phổ biến mạnh mẽ.

Hai triết gia đặc biệt gắn liền với lý thuyết này là Ludwig Feuerbach (1804-1872) và Sigmund Freud (1856-1939).

Công trình chính của Feuerbach là Yếu tính của Kitô giáo (The Essence of Christianity – 1841), trong đó ông cho rằng ý tưởng về Gót phát sinh từ kinh nghiệm có thể hiểu được của con người, nhưng đã bị hiểu nhầm lẫn. Tôn giáo nói chung chỉ đơn giản là sự phóng chiếu bản chất con người vào một không gian siêu nghiệm ảo. Con người đối tượng hóa những cảm xúc của chính mình.

Họ giải thích nhầm lẫn kinh nghiệm của họ như là một nhận thức về Gót, trong khi trong thực tế nó không là gì khác hơn kinh nghiệm về tự bản thân họ. Vậy Gót phát sinh từ kinh nghiệm con người, nhưng về chính con người, không về một-gì không con người, như đã nhầm lẫn. Con người gán cho Gót tất cả những phẩm tính tốt đẹp, và hậu quả là giữ lại và gán cho tự thân con người tất cả những phẩm tính xấu ác, tạo nên một sự vong thân (alienation).

Gót là sự khao khát của con người được nhân cách hóa.

Chúng ta khao khát có một hữu thể đáp ứng được tất cả những muốn và mơ của chúng ta – và chúng ta tạo ra một hữu thể, rồi đưa lên thành siêu thể, giống như vậy. Đối với Feuerbach, lý thuyết loại như Christ sống lại không gì khác hơn là một tiếng vang từ sâu thẳm con người đòi một trực tiếp an ủi chắc chắn về sự bất tử cá nhân. Kinh Thánh nói rằng Gót tạo dựng con người theo hình ảnh của mình; Feuerbach tuyên bố chúng ta tạo dựng Gót theo hình ảnh của chúng ta; “Con người là đầu, giữa và cuối của tôn giáo”. Trước sau chỉ có con người. Gót là một sự làm đầy mong ước của con người, và giữ bằng một ảo tưởng. Trong thế giới tôn giáo, con người đã không nhận ra rằng khi họ nói về Gót, họ phơi mở những hy vọng và sợ hãi sâu kín nhất của chính họ.

Lối nhìn “cách mạng” này, có tác dụng lớn trong lịch sử tư tưởng, làm vấn đề hiện hữu của Gót – từ nay không chỉ ở trong những luận chứng logic giữa những nhà thần học và triết học, lại thôi không ở trong những mặc khải từ não thức của một vài cá nhân nào đó, nhưng trên những kinh nghiệm tâm lý của những tín đồ hiện đại. Thần học thành nhân loại học, điều tra thực hư về Gót rơi từ trời cao xuống đất thấp, trở thành một tìm tòi về bản chất con người.

Phân tích xuất sắc của Feuerbach có ảnh hưởng sâu dài. Câu hỏi Gót có hay không – nếu tạm giả định là có, đã chuyển sang – tại sao có? – và đến từ đâu? Lời Feuerbach đáp mở đầu là sự hiện hữu của Gót buộc chặt và có căn cứ trên kinh nghiệm của con người. Nhưng, như Feuerbach, nhấn mạnh, kinh nghiệm con người có thể là không gì khác hơn là kinh nghiệm về chính mình, hơn là về Gót. Chúng ta chỉ đơn giản phóng chiếu những kinh nghiệm riêng của chúng ta, và gọi tên kết quả là “Gót”, đáng lẽ phải nhận ra rằng chúng chỉ đơn giản là kinh nghiệm của tự thân bản tính rất đỗi con người. Cách nhìn của Feuerbach đánh một đòn chí tử vào những ý tưởng xoay quanh con người của đạo Kitô.

3. Những ý tưởng cơ bản của Feuerbach tái sinh trong Sigmund Freud. Ngày nay, khi nói về “phóng chiếu” hay “mong ước làm đầy” là nói về chúng cùng những biến thể trong khoa phân tâm học của Freud, chứ không phải trong Feuerbach nữa. Tuyên bố mạnh mẽ nhất của Freud có thể tìm thấy trong The Future of an Illusion (1927). Đối với Freud, những ý tưởng tôn giáo là “ảo tưởng”, lấp đầy những mong muốn lâu đời nhất, mạnh nhất và cấp thiết sâu kín nhất của loài người

Để hiểu The Future of an Illusion, chúng ta cần nhắc lại vài khái niệm chủ yếu. Trước hết là khái niệm ontogenesis recapitulates phylogenesis. Freud sử dụng phylogenesis để chỉ quá trình tiến hóa bao gồm của con người từ những nguồn gốc sớm nhất của nó. Ông đưa ra giả thuyết rằng sự phát triển cá nhân (ontogenesis) lập lại trong thu tóm các giai đoạn chính của quá trình tiến hóa của nhân loại, với những biến cố chấn thương trong lịch sử của nó, do đó chúng xuất hiện lại và có ảnh hưởng về cơ cấu trên từng cá nhân. Điều này giải thích sự phổ quát của những ý tưởng lạ lùng nguyên thủy, mặc cảm Oedipus, và một dàn dựng cấu trúc trong hình thành và hoạt động của những chức năng tâm lý con người. Lý thuyết này, một cách vắn tắt, cho rằng tiến trình phát triển sự sống ở mỗi đứa trẻ lập lại lịch sử tiến hóa sự sống của toàn thể giống người.

Thêm nữa, Freud nhìn văn minh con người dựng trên sự chối bỏ những bản năng tự nhiên, đặc biệt là bản năng tình dục, qua một pha trộn từ dồn én đến thăng hoa, dẫn đến những day dứt, uẩn ức – mỗi thế hệ lại bị buộc lặp lại quá trình dồn nén tâm lý này. Đến đây, sau khi Feuerbach đẩy thần học sang nhân chủng học, đến Freud, ông đẩy nó sang lĩnh vực chuyên môn của ông – tâm lý học và dùng phương pháp cùng kết quả của phân tâm học, một sáng tạo của chính ông, để giải thích nguồn gốc hình thành của nó.

Và trong đó, ngoài lý thuyết về bản năng, ông sử dụng ba khái niệm đặc biệt của phân tâm học – mặc cảm Oedipus trong quan hệ cha-mẹ-con, lòng-quá-yêu-chỉ chính mình (narcissism) của con người, và khái niệm – đã nói ở trên, nhưng được dùng với nội dung của Freud – “mong ước làm đầy” (wish-fulfillment). Làm đầy, thỏa mãn mong ước là một khao khát, một ám ảnh, hay có thể nói một động cơ thúc đẩy của những hình thành từ vô thức như những giấc mơ, những triệu chứng loạn thần kinh, và những mơ tưởng, ám ảnh dị thường.

Đặc biệt là những ước mong trẻ thơ về tính dục sẽ được biểu hiện và thỏa mãn ẩn dấu trong tưởng tượng với nhiều cải trang. Nhìn như vậy, mong ước làm đầy là hết sức năng động. Một mong ước không bao giờ cô lẻ, nó luôn luôn song hành hay đối nghịch với những mong ước khác, trong lẫn ngoải, kín lẫn mở. Như thế chúng luôn luôn chuyển vận trong những tiến trình xắp xếp, nghĩa là dằng co, đưa lên, dìm xuống những ý nghĩa.

Trước đó trong Totem và Tabu (1913). Freud phát biểu quan điểm táo bạo và sáng tạo của ông về một nguồn gốc của tôn giáo, nhìn trong phương diện lịch sử của tâm lý đám đông. Freud tuyên bố rằng tôn giáo về cơ bản là một hình thức biến dạng của một ám ảnh thần kinh (obsessional neurosis). Theo ông nguồn gốc tôn giáo có hai tầng: gốc của nó trong lịch sử tiến hóa tổng quát của xã hội loài người, và gốc của nó trong trường hợp của mỗi tâm lý cá nhân.

Freud tin rằng những yếu tố chính yếu trong tất cả tôn giáo Abraham là: sự tôn kính một chân dung người cha (Gót hay Christ), tin tưởng vào quyền năng siêu nhiên thần linh, và một quan tâm với những nghi lễ nhất định nào đó sao cho đúng cách. Ông truy nguyên những nguồn gốc tôn giáo về mặc cảm Oedipus. Ở một thời điểm nào đó trong lịch sử nhân loại, khi loài người vẫn còn sống theo những bầy đoàn, trong mỗi bầy đoàn có một người nam – một tộc trưởng – lớn tuổi nhưng mạnh mẽ nắm toàn quyền thống lĩnh. Những người này độc quyền sở hữu những phụ nữ của thị tộc, hay bộ lạc.

Freud phỏng đoán một biến cố đã phải xảy ra trong đêm tối tiền sử sơ khai – trong đó những người nam trẻ tuổi, bất mãn với tình trạng này, đã một lần từng nổi dậy chống lại những tộc trưởng, lật đổ họ, giết những người cha, dành lấy những phụ nữ, trong đó có những người mẹ, cho mình. Sau đó, bị ám ảnh với biến cố này – một xúc cảm về tội lỗi thành hình. Tôn giáo có nguồn gốc từ biến cố tiền sử này, từ mặc cảm tội lỗi đó, nó đã là sức mạnh thúc đẩy chủ yếu, và nỗ lực chuộc tội cho biến cố đẫm máu đó đã trá hình sau những nghi lễ tôn giáo khác loại.

Phân tâm học làm chúng ta quen thuộc với liên hệ mật thiết giữa mặc cảm cha-con và tin tưởng vào Gót. Nó đã trình bày cho chúng ta Gót không có gì khác hơn là một người cha cao vời. Tôn kính hình ảnh người cha có gốc từ thời thơ ấu. Khi trải qua giai đoạn “ghét cha yêu mẹ” gọi là Oedipus của mình, đứa trẻ phải đối phó với sự lo lắng sợ bị người cha trừng phạt. Phản ứng của đứa trẻ với đe dọa này là tôn kính người cha, đồng hóa với ông ta, và phóng chiếu những gì đã biết về ý muốn của người cha vào thành superego – hay lương tâm của cá nhân.

Trong The Future of an Illusion, Freud thăm dò nguồn gốc của sự phóng chiếu một người cha lý tưởng này. Tôn giáo đại diện cho sự kéo dài một mảng của ứng xử tâm lý trẻ con vào mãi trong đời sống người lớn. Tôn giáo là chỉ đơn giản là một phản ứng thiếu trưởng thành trước nhận thức về tình trạng bất lực, bơ vơ không tự cứu được của con người, bằng cách quay lại kinh nghiệm thời thơ ấu khi có một người cha bảo bọc chăm sóc: “Cha tôi sẽ bảo vệ tôi, ông nắm vững hết mọi sự.” Niềm tin vào một Gót cá nhân là như vậy, không gì khác ngoài một ảo tưởng trẻ con. Tôn giáo là đồng hóa những ước mong với hiện thực.

Trong ý hướng này, tôn giáo – nhìn trong lĩnh vực tâm lý – không là gì khác với tâm lý của những người bệnh thần kinh. Những bệnh nhân của chứng nhiễu loạn nơ rô, họ đặt thực tại tâm lý lên trên thực tại vật lý, lấy tưởng/mê làm thực tại. Tôn giáo như thế là một thứ “tâm bệnh” chúng ta đã tạo ra để làm dịu sự sợ hãi lớn nhất của chúng ta. Như trẻ thơ, chúng ta cảm thấy bất lực trước rất nhiều những sự việc, không có khả năng tinh thần hoặc vật chất để đối mặt với thế giới của chúng ta riêng. May mắn thay, hay nên nói rằng hy vọng thay, chúng ta có cha mẹ hướng dẫn và bảo vệ chúng ta. Đặc biệt là người cha – con có cha như nhà có nóc – được xem như một trụ cột của sức mạnh cho cá nhân. Khi chúng ta lớn dậy, vào tuổi trưởng thành, chúng ta thấy những bất lực của chúng ta vẫn còn đó, lớn hơn chứ đã không giảm đi, và do đó, chúng ta hướng về Gót, như “Cha chúng ta ở trên Trời”, như thế Gót là “người Cha chung” của những tín đồ, người sẽ thực hiện vai trò thay thế người cha thực đầy quyền năng thời thơ ấu, cho tuổi trưởng thành – đến những ngày cuối của cuộc đời chúng ta.

Như thế, trong The Future of an Illusion này, Freud thêm một bước tiến xa hơn, đi đến nói rằng con người tạo ra Gót trong một ảo tưởng (có phần đáng thương), tôn giáo như thế là một thứ bệnh thần kinh phổ quát của loài người.

4. Trước và sau, cả hai Feuerbach và Freud, đều tìm cách giải thích về tôn giáo dựa vào lịch sử, đặt câu hỏi – tôn giáo đã ra đời ra sao trong tiến hóa của nhân loại. Tìm được lịch sử của nó, là tìm được cách phủ nhận nó – cho thấy nó hoặc ấu trĩ, hoặc lạc hậu. Đó là cách tiếp cận đến nguồn gốc của tôn giáo, từ các căn nguyên hình thành tâm lý (psychogenesis) của con người nói chung. Feuerbach và Freud trong nỗ lực giải thích về những con đường tâm lý tự nhiên đưa đến tôn giáo, đã thiết lập hai lý thuyết có ảnh hưởng rất mạnh mẽ trong triết học tôn giáo.

Feuerbach, dựa trên Hegel, đề ra ý tưởng rằng quá trình mà tôn giáo được phát minh là mong thực hiện những khát vọng con người. Theo Feuerbach, Gót là sự phóng chiếu những ham muốn mạnh nhất của loài người. Thế nên sự thu hút hấp dẫn của các tôn giáo Abraham nằm trong hứa hẹn của nó về một thiên đàng, thỏa mãn khát khao bất tử và xoa dịu sự khiếp hãi cái chết của con người. Con người có nhiều nỗi sợ hãi, nhưng hầu hết tất cả chúng ta sợ chết. Tôn giáo, như Kitô giáo, trong hứa hẹn sự sống đời đời, lấy đi sự lo sợ này ra khỏi chúng ta. Nếu chúng ta trao “linh hồn” cho tôn giáo, chúng ta thoát được nỗi sợ hãi lớn nhất, và có thể sống trong hạnh phúc mù lòa, vì hoàn toàn nhắm mắt trước sống chết vô thường. Điều này giải thích sự hấp dẫn của các tôn giáo Abraham, và sức mạnh khôn cưỡng của nó một khi bám hút được não thức con người yếu đuối.

5. Freud chủ trương thực chất của văn minh không nằm trong sự chinh phục thiên nhiên của con người cho các phương tiện hỗ trợ sự sống, nhưng nằm trong lĩnh vực tâm lý, trong sự kiềm chế những bản năng cỏa bản – bản năng khát sống, điển hình là bản năng tình dục, ông gọi là Eros, và phản đề của nó – bản năng Chết, ông gọi là Thanatos nơi mỗi người. Một trong những đê đập giúp ngăn cản, kềm chế, và trấn áp những bản năng mà con người đã phát minh ra để duy trì văn hóa của nó là tôn giáo. Khía cạnh độc đáo này của tôn giáo đã vẫn được xem là phản ánh lương tâm đạo đức đã được Freud thừa nhận khi ông viết về một trong những chức năng của nó là cố gắng “… sửa chữa những bất toàn của văn hóa đã quá đau đớn cảm nhận được.”

Freud định nghĩa tôn giáo như một ảo tưởng, bao gồm các “tín điều nào đó, khẳng định về những sự kiện và điều kiện của thực tại trong và ngoài vốn bảo một người về một điều gì đó mà người ta đã chưa khám phá ra, và tuyên bố rằng người ta phải nên cho điều gì đó niềm tin. Những khái niệm tôn giáo được truyền đi theo ba cách, và đòi sự tin tưởng của chúng ta. “Thứ nhất, vì chúng đã được tổ tiên nguyên thủy của chúng ta tin tưởng; thứ hai, chúng ta sở hữu những bằng chứng vốn chúng đã được truyền lại cho đến chúng ta từ cùng một thời nguyên thủy ấy, và thứ ba là cấm tuyệt không được phép nêu câu hỏi nào hết về giá trị xác thực của chúng.”

Tôn giáo trong một phương cách cũng tương tự như với hệ tin tưởng totem (totemism). Nhìn trong tầm mức cá nhân, mỗi con người thực chất là một kẻ đối nghịch với xã hội theo ý hướng nó có những bản năng tự nhiên thôi thúc nhưng chúng phải bị kiềm chế để xã hội có thể sinh hoạt. Freud đưa ra một danh sách đen tối, nhưng không phải là không thực, chúng gồm loạn luân, ăn thịt người, và gây hấn, hung hãn, đến phá hoại, giết chóc. Cái nhìn của ông về bản chất con người là nó là chống lại xã hội, nổi loạn, và có xu hướng tình dục và phá hoại rất cao.

Về quan điểm này Freud gần với một triết gia đồng thời với ông hơn là Emile Durkheim (1858-1917). Cả hai cùng xem hệ tin tưởng totem như là hình thức nếu không phải là hình thức tôn giáo nguyên thủy, thì cũng có liên hệ chặt chẽ với gốc tích của tôn giáo; nhưng với Freud có những lý do khác nhau. Với Durkheim, nhìn với con mắt của nhà xã hội học, ông tin hệ tin tưởng totem trong đó có một con vật totem (totemic animal) là trung tâm nguyên thủy của sinh hoạt tôn giáo, vì con vật totem là biểu tượng cho thị tộc, một cộng đồng, một xã hội.

Mặc dù hầu hết mọi người ngày nay tin rằng cách diễn giải trong nhiều dữ liệu trên hệ tin tưởng totem của Durkheim là không chính xác, thị kiến của ông về vai trò của tôn giáo dùng để tăng cường tình đoàn kết xã hội được chấp nhận rộng rãi, cũng như quan điểm cho rằng trong nhiều xã hội truyền thống, trật tự của ba thế giới nhân văn, tự nhiên, và siêu nhiên, chúng đều liên kết với nhau và củng cố lẫn nhau trong một hệ thống chung.

Freud đặc biệt chú ý đến sự “phá lệ” xảy ra còn thấy trong các dân tộc sinh hoạt theo hệ tin tưởng totem, đó là một nghi lễ cộng đồng, thường xảy ra hàng năm, đặc biệt trong đó con vật tổ bị đem ra giết và ăn thịt, trong khi sự kiện này bị tuyệt đối cấm ở mọi thời điểm khác.

Tại sao có “phá lệ” này? Ý nghĩa của lễ tiệc totem là gì? – Freud tin rằng totemism đã khởi phát trong một quá khứ rất xa xưa. Freud phỏng đoán biến cố loại Oedipus đã kể ở trên xảy ra, đưa bộ lạc vào hỗn loạn, và cá nhân có lẽ bị dày vò (giết cha, lấy mẹ), nên sau đó đi đến ngăn cấm vĩnh viễn cả hai: giết cha và loạn luân. Nhưng cảm giác tội lỗi và tình cảm mâu thuẫn của những đứa con trai – vừa thù ghét vừa kính yêu đối với người cha đã không mất, nhưng nó đã được tái thể hiện, được chuyển từ người cha sang một con vật totem, và totem thành biểu tượng của “tổ tiên”.

Toàn bộ quá trình và quá khứ này, Freud cho rằng, đã phai nhạt khỏi trí nhớ con người, nhưng dấu vết của nó vẫn có thể tìm thấy trong các tôn giáo nguyên thủy, và trong những tưởng tượng của trẻ con. Đến đây, cho thấy Freud dựa vào thuyết thu tóm (recapitulation) đã nhắc ở trên – giúp chúng ta hiểu tại sao ông nghĩ rằng có thể biết về quá trình tâm lý, sự suy nghĩ của con người nguyên thủy từ tâm lý, suy nghĩ của những người bệnh nơ rô, của những trẻ em hiện đại.

6. Cơ sở triết học Freud giải thích văn minh và tôn giáo là chủ nghĩa duy vật thực nghiệm (empiricist materialism), theo đó, Gót là một giả thuyết và không đứng vững. Lịch sử văn minh loài người là một đấu tranh dài chống tự nhiên, cả thiên nhiên ngoài lẫn nội tâm trong. Tin tưởng vào Gót được xem như một thứ nỗ lực hòa giải con người với sự nương tựa mật thiết của nó vào tự nhiên vốn hầu hết cảm nhận qua những kinh nghiệm đầy thương tổn.

Freud diễn dịch sự hình thành của những tôn giáo trong cái nhìn theo những chức năng hòa giải của nó trong sự xung đột này giữa tự nhiên và văn hóa, giữa con người và xã hội. Như dẫn chính ông ở đoạn trên, tôn giáo đem lại cho con người sự thú nhận những yếu đuối tự thân của chính nó và đồng thời cũng cho nó giữ lại một ý nghĩa ưu việt vượt trên thực tại vây quanh.

Cái giá của sự thỏa hiệp này sự tuân phục một “ảo tưởng”. Các lý thuyết trong nội dung tôn giáo, đều phải tuân theo không chất vấn, chúng không phải là kết quả của suy tưởng siêu nghiệm, cũng không phải là từ kinh nghiệm tâm linh, lại càng không là những “mặc khải” thần bí, nhưng chúng chỉ là những tưởng tượng đã được tinh luyện của chính con người, là những ao ước-muốn thành trước những nhu cầu cơ bản nhất của con người.

Sức cuốn hút mạnh mẽ của “ảo tưởng” do đó là sức mạnh thôi thúc của những nhu cầu thầm kín này. Trung tâm điểm của tưởng tượng tôn giáo, một Gót-Người Cha (Father-God), dựng lên từ những vật liệu lấy từ kinh nghiệm thơ ấu của con người: đứa trẻ yếu đuối không tự bảo vệ được mình đã tạo ra nhu cầu muốn được bảo vệ; nhu cầu này là động lực của yêu thương và mong đợi của nó về một người cha và buộc nó phải dìm xuống tất cả những ác cảm nó có với ông như đối thủ của nó trong tương quan phức tạp tay ba – cha-mẹ-con – Freud gọi là mặc cảm Oedipus.

Nhưng vì người cha thực không thể chữa lành được những thương đau, thiếu thốn, và những thương đau thiếu thốn ấy còn mãi vì chính là phận người, nên dù đã trưởng thành, một người cha mạnh mẽ hơn, nhiều quyền năng hơn, thương yêu bảo bọc hơn – toàn năng, toàn trí và toàn thiện – là sự cần thiết, và từ đó con người trần gian “tạo” ra Gót – lý tưởng hóa và phóng chiếu những thuộc tính của một người cha thành Gót – một người Cha cao vời, vòi vọi.

Khát khao được bảo bọc, thúc đẩy từ những nhu cầu của sự sống trực tiếp đè nặng trên mọi cá nhân, và nhất là cái chết ở cuối đường không thể nào thoát, tất cả đã giải thích sức mạnh của tôn giáo, và sự tin tưởng – nhắm mắt, tự lừa chính minh – lâu dài của đông đảo con người vào nó.

Tôn giáo như thế, theo cái nhìn của Freud, không chỉ là sự tự vệ, nhưng còn là một triệu chứng của bệnh tâm thần, một thứ bệnh tâm thần tập thể, nó “hữu ích”, vì xoa dịu đau thương của kiếp người, vì giúp người ta chịu đựng được những khổ đau thất bại, và vực người ta đứng dậy đi cho hết con đường đời, đến cái chết hãi hùng cuối cùng, và rồi ở đó, nó đem cho những ý tưởng để phủ nhận cái chết, bằng cách vẽ ra một “thiên đường” đằng sau cái chết.

Kinh nghiệm về những bất-khả-tự lực với tư cách nạn nhân đã chuyển đổi sang tin tưởng vững chắc có một sự che chở sau cùng với tư cách tín đồ. Một biện chứng cơ bản đã là động lực của chuyển đổi cơ cấu. Chuyển đổi từ nương tựa phụ thuộc sang cảm giác được bảo bọc lập lại một kinh nghiệm thơ ấu, đó là thế chỗ ông bố thực với một sản phẩm tưởng tượng. Chiều hướng của tiến trình là một loại “hủy-thực-thành-hư” (Entfremdungsgefühl) – de-realization của Freud là một thứ dồn nén, phủ nhận, nó “tha hóa” thực tại vật chất đời người, chuyển sang đối lập của nó, dựng trên sự xây dựng ảo tưởng về một “thực tại” thứ hai linh thiêng.

Sigmund Freud, đã thực sự đem Gót làm một chủ đề của giải cấu trúc siêu hình tâm lý (metapsychological deconstruction), và đã chọn một một vị trí vô thần. Những người theo ông, cũng tiếp tục gắn bó với những luận chứng và tuyên bố của ông trong “Tương lai của một ảo tưởng” này, và tiếp sau trong “Văn minh và những bất mãn từ nó”. Chủ nghĩa khoa học thực chứng (positivism) ở đầu thế kỷ XX đã đem lại một cổ vũ nồng nhiệt trước những vạch trần của Freud về Gót. Ông đã cất lên tiếng nói cho những gì đang nung nấu trong tâm trí của giới trí thức phương Tây. Những tội ác không kể xiết đã xảy ra ngay sau đó, nhân danh chủ nghĩa dân tộc đầy tôn giáo tính ở châu Âu, xác nhận rằng chủ nghĩa vị chủng (ethnocentrism) và khái niệm song sinh của nó, niềm tin tôn giáo, là những món hàng tối nguy hiểm cho loài người.

Chúng đã dẫn đến sự nhiễm độc với sự ưu thắng của trong-nhóm (in-group superiority ) và đặt nền móng cho sự áp bức của những “người khác” ngoài-nhóm, và thậm chí cả sự tàn bạo và diệt chủng. Những nạn nhân của định kiến và bạo lực, tìm thấy hy vọng từ những phân tích của Freud rằng tôn giáo là một trò lừa bịp và khoa học sớm hay muộn sẽ đảm bảo vị trí ưu thế của lý trí con người trong tư tưởng cá nhân và sinh hoạt xã hội của cả toàn thể cộng đồng nhân loại.

Và như thế, Freud đã tiên đoán, rất lạc quan ở gần giữa thế kỷ trước; ảo tưởng sẽ tan vỡ, Gót và những tôn giáo Abraham thờ Gót sẽ nhường chỗ cho lý trí và khoa học.

7. Freud xuất thân là một y sĩ chuyên về bệnh thần kinh, một khoa học gia, một bác học trong ngành của ông, là nhà tâm lý nổi danh nhất cho đến nay của nhân loại, người khai sinh môn phân tâm học, nhưng ông có ảnh hưởng hết sức lớn lao và sâu rộng trong lĩnh vực tư tưởng và nghệ thuật từ hai thế kỷ qua. Tương lai của một Ảo tưởng, cũng như Cái-Ta và Cái-Đó, và Văn minh và những Bất mãn từ nó là những bản văn nay đã thành cổ điển, đều được giảng dạy rộng rãi trong các trường đại học, trong có những quan điểm đã bị thử thách, được đánh giá lại, hay có phần đã bị thời gian đào thải, nhưng ngoài giá trị lịch sử, chúng đều là những ý tưởng hết sức sáng tạo, đáng suy ngẫm, đáng nghiên cứu, nhất là với những ai quan tâm về tư tưởng, triết học tôn giáo và văn minh phương Tây.

Tôi không tìm được một bản tiếng Việt, nên khi dịch bản văn Văn minh và những Bất mãn từ nó, tôi thấy Tương lai của một Ảo tưởng này cũng cần được dịch và nên giới thiệu trước, Người đọc sẽ thấy chúng liên hệ ra sao, sau khi đọc cả hai. Riêng tập Cái-Ta và Cái-Đó có thể dành giới thiệu sau với lý thuyết đặc biệt của Freud về những bản năng con người – trong đó có Libido, cùng cấu trúc tâm lý Ý thức, tiền-ý-thức và Vô thức.

Dịch từ bản dịch tiếng Anh: Freud, S. (1927). The Future of an Illusion trongThe Standard Edition of the Complete Psychological Works of Sigmund Freud, Volume XXI (1927-1931): The Future of an Illusion, Civilization and its Discontents, and Other Works, 1-56.

Đối chiếu với bản dịch tiếng Pháp: L’avenir d’une illusion. Trad. franç., 1932. par Marie Bonaparte revue par l’auteur, 1932. Les Presses Universitaires de France, 1973, 3è édition.

Lê Dọn Bàn

(Feb/2011)


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.