Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa

CHƯƠNG 4



Hai vợ chồng ở Gardabaer nhìn Erlendur với ánh mắt đầy đau đớn. Đứa con gái bé bỏng của họ đã bị mất tích. Họ không nhận được tin gì về con bé từ ba ngày nay, chứ không phải từ đám cưới mà nó bỏ trốn. Con gái bé bỏng của họ. Erlendur đã kịp hình dung ra một cô bé con tóc xoăn vàng trước khi họ nói rằng con bé đã hai mươi ba tuổi và đang theo học khoa Tâm lý của trường Đại học Iceland.
“Đám cưới à?” Erlendur nhìn quanh phòng khách rộng thênh thang và hỏi. Nó gần như rộng bằng cả tầng nhà nơi ông ở.
“Đám cưới của nó!” Ông bố thốt lên như thể ông ta vẫn chưa hiểu ra chuyện này. “Con bé trốn khỏi đám cưới của chính nó!”
Bà mẹ khẽ đưa chiếc khăn tay nhàu nhĩ lên chặm mũi.
Lúc đó đã là giữa trưa. Vì con đường từ Reykjavík đang bị sửa chữa nên Erlendur mất nửa tiếng đồng hồ mới đến được Gardabaer, và sau khi tìm một hồi ông mới thấy ngôi nhà xây tách biệt ấy. Nó gần như bị che khuất hẳn nếu nhìn từ đường vào, bao quanh là khu vườn rộng trồng tất cả các loại cây cao phải đến sáu mét. Hai vợ chồng chủ nhà gặp ông trong trạng thái sốc tột cùng.
Erlendur nghĩ rằng chuyện này thật phí thời gian. Còn rất nhiều việc quan trọng hơn đang đợi ông, tuy nhiên, dù ông có không nói chuyện với vợ cũ trong suốt hai thập kỷ qua, ông vẫn muốn giúp đỡ bà ta một điều gì đó.
Bà mẹ mặc một chiếc váy màu xanh nhạt và thanh nhã, còn ông bố mặc bộ quần áo màu đen. Người bố nói rằng ông càng lúc càng lo lắng về con gái của mình. Ông ta biết rằng cuối cùng con bé sẽ trở về, an toàn và lành lặn – ông không muốn tin vào điều gì khác – nhưng ông ta vẫn muốn hỏi ý kiến cảnh sát, mặc dù chẳng có lý do gì để phải nhờ đến đội tìm kiếm và đội cứu hộ ngay hay gửi thông báo lên đài báo và ti vi cả.
“Con bé chỉ biến mất thôi” bà mẹ nói. Hai vợ chồng trông hơi già hơn Erlendur một chút, có lẽ họ chừng sáu mươi tuổi. Họ quản lý một công ty chuyên nhập khẩu quần áo trẻ em. Công ty này cung cấp cho họ tất cả những gì cần thiết của một lối sống giàu sang. Những kẻ mới phất. Thời gian đã cư xử với họ thật tử tế. Erlendur để ý thấy hai chiếc xe mới coóng bóng loáng ở trước gara đôi.
Bà mẹ lấy hết sức mình và bắt đầu kể lại cho Erlendur nghe câu chuyện. “Chuyện xảy ra vào ngày thứ Bảy – ba ngày trước đây, lạy Chúa, thời gian trôi qua nhanh quá. Hôm đó quả là một ngày đẹp trời. Đám cưới của chúng được tiến hành bởi một mục sư rất nổi tiếng”.
“Chả ích gì” ông bố nói. “Ông ta vội vội vàng vàng bước vào, phát biểu mấy câu sáo rỗng rồi lại xách va li biến mất. Tôi không thể hiểu tại sao ông ta lại nổi tiếng đến thế”.
Vợ ông ta không muốn để bất cứ điều gì làm hỏng sự lộng lẫy của đám cưới.
“Hôm ấy tuyệt vời lắm! Có cả nắng trong tiết trời thu mát mẻ. Riêng trong nhà thờ đã phải có đến hàng trăm người. Con bé có rất nhiều bạn. Thật là một cô gái được nhiều người yêu mến. Chúng tôi tổ chức hôn lễ tại một hội trường ở đây, Gardabaer. Nơi đó tên là gì ấy nhỉ? Lúc nào tôi cũng quên”.
“Gardahort” ông bố nói.
“Đó thật là một nơi ấm áp tuyệt vời,” bà ta tiếp. “Hội trường chật kín. Có nhiều quà cáp lắm. Và sau đó… sau đó… khi…”
“Bọn trẻ chuẩn bị nhảy điệu đầu tiên,” ông bố tiếp tục nói khi vợ ông ta bắt đầu òa khóc. “Và có một thằng ngu ngốc nào đó đang đứng trên sàn nhảy. Chúng tôi gọi Dísa Rós nhưng con bé không xuất hiện. Chúng tôi bắt đầu đi tìm nhưng mọi chuyện diễn ra cứ như thể là sàn nhà đã mở ra và nuốt chửng con bé vậy”.
“Dísa Rós?” Erlendur hỏi lại.
“Hóa ra là con bé đã lấy chiếc xe cưới”.
“Chiếc xe cưới à?”
“Chiếc limousine. Với tất cả hoa và nơ. Cái xe đã đưa chúng đến nhà thờ. Con bé đã trốn khỏi đám cưới. Không hề có một báo hiệu nào! Không có lấy một lời giải thích!”
“Trốn khỏi đám cưới của chính nó!” Bà mẹ gào lên.
“Vậy ông bà không biết tại sao cô ấy lại hành động như thế à?”
“Chắc chắn là con bé đã thay đổi quyết định” bà mẹ nói. “Con bé đã hối hận về tất cả mọi chuyện”.
“Nhưng tại sao lại thế mới được chứ?”
“Xin ngài, ngài có thể tìm con bé về cho chúng tôi được không?” Ông bố hỏi. “Con bé vẫn chưa liên lạc lại, và ngài có thể thấy chúng tôi đang khổ sở lo lắng đến độ nào. Bữa tiệc thực sự đã thất bại thảm hại. Đám cưới đã bị hủy. Còn chúng tôi thì hoàn toàn bất lực. Và con gái bé nhỏ của chúng tôi thì mất tích”.
“Thế còn chiếc xe cưới, có ai tìm thấy nó chưa?”
“Rồi. Ở Gardastraeti”.
“Tại sao nó lại ở đó?”
“Tôi không biết. Con bé chẳng quen biết ai ở đó cả. Quần áo nó để lại trong xe. Toàn bộ quần áo”.
Erlendur lưỡng lự.
“Toàn bộ quần áo của cô ấy để lại trong xe cưới à?” Cuối cùng ông cất tiếng, nhanh chóng cân nhắc xem cuộc nói chuyện này sẽ đi về đâu và liệu ông có phần trách nhiệm nào không.
“Con bé cởi toàn bộ đồ cưới và mặc quần áo mà nó đã chuẩn bị sẵn trong xe”, bà mẹ trả lời.
“Ông có nghĩ là ông sẽ tìm thấy nó không?” Ông bố hỏi. “Chúng tôi đã liên lạc với tất cả những người mà nó quen nhưng không ai biết gì cả. Chúng tôi không biết phải làm gì nữa. Tôi có ảnh của con bé đây”.
Ông ta đưa cho Erlendur xem tấm hình chụp một cô gái trẻ trung, xinh xắn, tóc vàng hoe, giờ đây đã mất tích. Cô ta mỉm cười với ông trong ảnh.
“Ông bà không biết chuyện gì đã xảy ra à?”
“Không hề có một dấu vết nào” bà mẹ đáp.
“Không hề” ông bố phụ theo.
“Và đây là quà cưới phải không?” Erlendur nhìn ra chiếc bàn ăn khổng lồ, trên đó chồng đống những gói lớn gói nhỏ màu mè sặc sỡ được thắt nơ xinh xắn, bọc giấy bóng kính và hoa. Ông bước đến bên cái bàn trong khi hai vợ chồng nọ nhìn theo. Trong đời, chưa bao giờ ông nhìn thấy nhiều quà như vậy, ông băn khoăn không biết trong những hộp quà ấy có gì. Bát đĩa sành và bát đĩa sành, ông tưởng tượng.
Thật là một cuộc đời giàu có!
“Vậy đây là cái gì thế?” Ông chỉ tay vào mấy cành nhánh chìa ra từ một cái cây cắm trong chiếc lọ lớn cuối bàn. Trên đó người ta treo những tấm thiệp hình trái tim màu đỏ.
“Đó là một cái cây nhắn gửi”.
“Một cái gì cơ?” Erlendur hỏi lại. Ông mới đi đám cưới có một lần và lần đó cách đây đã quá lâu. Và ở đó chẳng có cây nhắn gửi nào hết.
“Các vị khách viết lời chúc mừng cho cô dâu chú rể vào thiệp rồi treo chúng lên cây. Khách khứa đã treo rất nhiều tấm thiệp lên trước khi Dísa Rós mất tích” bà mẹ nói trong lúc vẫn chặm khăn lên mũi.
Chuông điện thoại của Erlendur chợt vang lên trong túi áo khoác. Khi ông lóng ngóng lấy điện thoại ra, nó bị kẹt lại ở nắp túi, và thay vì kiên nhẫn nới lỏng nắp túi ra (mà điều này thật dễ dàng), Erlendur lại giật mạnh cho đến lúc cái túi bật mở. Bàn tay đang giữ chiếc điện thoại vung lên làm cho cái cây nhắn gửi đổ sập xuống sàn. Erlendur nhìn hai vợ chồng đầy vẻ hối lỗi và nghe điện thoại.
“Ông có định đến Nordurmýri với chúng tôi không đấy?” Sigurdur Óli nói không quanh co. “Còn phải kiểm tra ngôi nhà kỹ lưỡng hơn mà!”
“Các anh đã xuống đó rồi à?” Erlendur hỏi. Lúc này, ông đã lui vào một góc khuất.
“Không. Tôi sẽ đợi ông” Sigurdur Óli trả lời. “Ông đang ở cái nơi quái quỷ nào thế?”
Erlendur gác máy.
“Tôi sẽ xem xem mình có thể làm được gì,” ông nói với đôi vợ chồng. “Tôi không nghĩ là có nguy hiểm gì ở đây. Có thể là con gái ông bà chỉ bị mất tinh thần một thời gian và cô ấy đang ở với một vài người bạn nào đó. Ông bà không nên quá lo lắng. Tôi chắc chắn là cô ấy sẽ gọi về sớm thôi”.
Hai vợ chồng nọ đang lúi húi bên đống thiệp vương vãi trên sàn nhà. Erlendur thấy họ đã bỏ sót mấy chiếc trượt vào gầm ghế bèn cúi xuống nhặt chúng lên. Erlendur đọc những tấm thiệp và nhìn đôi vợ chồng.
“Ông bà đã đọc cái này chưa?”
Ông bố đọc lời nhắn và khuôn mặt ông lộ vẻ kinh ngạc. Ông ta đưa tấm thiệp cho vợ. Bà ta đọc đi đọc lại nó nhưng hình như vẫn chẳng hiểu gì. Erlendur đưa tay ra lấy tấm thiệp và đọc lại lần nữa. Nó không có chữ ký.
“Đây có phải là chữ viết tay của con gái ông bà không?” Ông hỏi.
“Tôi nghĩ thế” bà mẹ đáp.
Erlendur xoay tấm thiệp lại và đọc lại lời nhắn:
“ANH TA LÀ MỘT CON QUỶ. TÔI ĐÃ LÀM GÌ THẾ NÀY?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.