Việc Máu

CHƯƠNG 12



“Ông quên rồi phải không?”
Có một nụ cười ung dung thoải mái trên môi nàng.
“Không… à, ý tôi là trong năm tiếng vừa qua thì tôi hơi quên. Tôi mải mê với đống giấy tờ đang phải nghiên cứu. Tôi đã định đi ra chợ đặng mà…”
“Ồ, không sao cả. Ta có thể để lần…”
“Không, không, cô đùa hay sao? Chúng ta sẽ ăn tối. Raymond đây phải không?”
“Ồ phải.”
Graciela quay về phía chú bé đang bẽn lẽn đứng nép sau lưng nàng. Chú trông nhỏ bé so với tuổi, tóc và mắt màu sẫm, da nâu. Chú mặc quần soóc và sơ mi kẻ sọc. Chú cầm một cái áo len tay dài bằng cả hai tay.
“Này Raymond, đây là chú McCaleb. Người mà dì có kể cho cháu ấy. Đây là thuyền của chú ấy. Chú ấy sống trên thuyền.”
McCaleb tiến lên phía trước, cúi xuống, chìa tay ra. Chú bé cầm một cái xe cảnh sát đồ chơi trong tay mặt nên phải chuyển nó sang tay kia. Đoạn chú ngập ngừng nắm tay McCaleb và họ bắt tay nhau. McCaleb cảm thấy một nỗi buồn không lý giải được khi gặp chú bé.
“Chú là Terry đây,” ông nói. “Rất vui gặp cháu, Raymond. Chú nghe nói nhiều về cháu.”
“Chú có ra khơi câu bằng thuyền này được không?”
“Được chứ. Hôm nào chú đưa cháu đi cùng, nếu cháu muốn.”
“Thế thì hay quá.”
McCaleb thẳng người dậy cười với Graciela. Nàng trông thật đáng yêu. Nàng mặc áo váy nhẹ mùa hè giống như bộ nàng đã mặc khi đến thuyền lần đầu. Đó là loại đầm mà làn gió nhẹ từ mặt nước thổi lên dễ dàng ép chặt vào thân thể nàng. Cả nàng cũng mang áo len dài tay. McCaleb thì mặc quần soóc, mang xăng đan và cái áo phông trên đó có mấy chữ Robicheaux’s Dock & Baitshop. Ông thấy hơi lúng túng.
“Tôi bảo này,” ông nói. “Đằng kia có một cái nhà hàng được lắm, phía trên cửa hàng của bến thuyền này. Ở đó đồ ăn ngon, hơn nữa ngắm hoàng hôn thì tuyệt. Sao ta không ăn tối ở đó nhỉ?”
“Nghe được đấy,” Graciela nói.
“Tôi chỉ cần thay đồ nhoáng cái là xong thôi, với lại, Raymond này, chú có một ý. Hay là ta thả một dây câu từ chỗ đuôi tàu xuống, rồi cháu xem liệu có câu được gì không trong khi chú vào trong chỉ cho dì Graciela xem mấy thứ chú đang làm dở?”
Mặt chú bé sáng lên.
“OK.”
“OK, vậy chú sẽ lo dây cho cháu.”
McCaleb để hai người lại đó mà vào trong. Ở phòng khách, ông lấy cái cần câu và cuộn dây nhẹ nhất nơi chỗ giá để đồ phía trên đầu, đi lại chỗ hộp dụng cụ để dưới bàn vẽ hải đồ, lấy ra một cái thẻo câu bằng thép trên đó đã lắp sẵn một lưỡi câu số tám và một cục chì câu. Ông lắp thẻo câu vào dây câu trong cuộn rồi đi lại chỗ tủ lạnh trong bếp, ở đó ông biết mình có trữ ít mực đông lạnh. Dùng một con dao sắc, ông xẻo một mẩu cánh mực rồi xiên lưỡi câu qua.
Ông cầm cần câu và cuộn dây quay lại chỗ đuôi tàu rồi đưa cả bộ đồ lề cho Raymond. Khom khom sau lưng chú bé, vòng hai tay quanh chú, ông dạy cho chú một bài nhanh gọn về việc làm cách nào ném mồi vào chính giữa dòng kênh. Đoạn ông chỉ cho chú cách giữ ngón tay trên dây và làm sao nhìn dây mà biết cá cắn câu.
“Giờ cháu hiểu chưa?” ông hỏi khi bài học đã hoàn tất.
“Ừ-hử. Cạnh thuyền có cá không ạ?”
“Có chứ, chú vừa thấy một đàn cá tráp vằn cừu bơi qua chỗ dây của cháu mà.”
“Cá tráp vằn ạ?”
“Là con cá có mấy cái vằn màu vàng. Thỉnh thoảng cháu thấy nó bơi dưới nước ấy mà. Cháu canh chừng tụi nó nhá.”
“Vâng ạ.”
“Bây giờ chú với mẹ cháu vào trong uống gì đó thì cháu không sao chứ?”
“Dì ấy không phải mẹ cháu.”
“À phải, chú… chú xin lỗi, Raymond. Ý chú là dì Graciela. Cháu không sao chứ?”
“Không sao ạ.”
“Rồi, dính được con nào thì hú lên nhá. Rồi thì quay dây!”
Ông trỏ ngón tay vào bên cạnh sườn chú bé rồi rê ngón tay lên khung xương sườn nhỏ xíu của chú. Cha của McCaleb cũng làm y như vậy với ông trong khi ông cầm cần câu, mạng sườn hở không che chắn. Raymond cười khúc khích cố vặn vẹo người để tránh, mắt không rời nơi sợi dây câu của chú biến mất vào lòng nước sẫm.
Graciela theo McCaleb vào phòng khách, đoạn ông đóng cánh cửa trượt để chú bé không nghe thấy họ. Mặt ông chắc hẳn đỏ bừng do sơ suất với thằng bé. Nàng đọc được tâm can ông trước khi ông kịp xin lỗi.
“Được rồi. Chuyện ấy vẫn thường xảy ra luôn mà.”
Ông gật đầu.
“Sau này nó có ở luôn với cô không?”
“Có. Tôi là người thân duy nhất, nhưng chuyện đó không quan trọng. Từ khi nó còn bé tôi đã luôn ở bên nó rồi. Đã mất mẹ mà rồi lại mất cả tôi thì với nó là quá nhiều, tôi nghĩ vậy. Tôi muốn nó ở với tôi.”
“Bố nó đâu?”
“Ai mà biết.”
McCaleb gật và quyết định thôi không gặng hỏi về chuyện đó.
“Cô rồi sẽ rất tốt đối với nó đấy,” ông nói. “Cô uống cốc rượu vang nhé?”
“Thế thì tốt quá.”
“Đỏ hay trắng?”
“Có gì uống nấy.”
“Hiện giờ thì tôi không được uống gì cả. Phải đôi ba tháng nữa.”
“Ồ, thế thì tôi không muốn ông mở một chai vang chỉ vì tôi đâu. Tôi có thể…”
“Thôi mà, tôi thì muốn. Vang đỏ nhé? Tôi có ít vang đỏ ngon, nếu mở thì ít nhất tôi cũng ngửi được tí.”
Nàng mỉm cười.
“Tôi nhớ hồi Glory có thai nó cũng vậy đó. Nó hay ngồi bên cạnh tôi mà nói nó chỉ muốn ngửi mùi rượu trong khi tôi uống.”
Nụ cười trở nên buồn bã.
“Cô ấy là người tốt,” McCaleb nói. “Nhìn thằng bé tôi biết. Cô muốn tôi thấy là thấy điều đó.”
Nàng gật đầu. Ông vào bếp lấy một chai vang đỏ nơi giá để rượu. Đó là một chai Sanfort làm bằng nho Pinot đen, một trong những loại ông thích. Trong khi ông mở, nàng lại gần quầy. Ông nghe thấy mùi hương nhè nhẹ. Chắc là mùi vani, ông nghĩ. Nó khiến ông rúng động. Không hẳn vì quá gần nàng mà bởi cảm thấy cái gì đó đang thức dậy trong ông sau một thời gian ngủ yên.
“Ông có con cái không?” khi đó nàng hỏi.
“Tôi à, không.”
“Ông đã bao giờ lấy vợ chưa?”
“Có, một lần.”
Ông rót cho nàng một cốc rồi nhìn nàng nếm. Nàng mỉm cười gật đầu.
“Ngon. Chuyện đó đã lâu chưa?”
“Gì cơ, hồi tôi còn có vợ ấy à? Xem nhé, tôi cưới vợ khoảng mười năm trước. Ở với nhau ba năm. Cô ấy cũng là đặc vụ cảnh sát, chúng tôi cùng làm việc ở Quantico. Thế rồi khi hai bên không hòa thuận và chúng tôi ly dị chúng tôi vẫn phải làm việc với nhau cho nên… Tôi không biết, chúng tôi vẫn dễ chịu với nhau thôi, nhưng mà chuyện đó không hay, cô hiểu không? Cũng vào khoảng thời gian đó bố tôi đang lâm bệnh ở đây.
Thành thử tôi gợi ý với họ hãy cử một người trong đơn vị đến đây thường trực. Tôi mách cho họ ý đó như là một cách để cắt giảm chi phí. Đằng nào thì tôi cũng bay về đây suốt mà. Nhiều người trong chúng tôi cũng vậy. Tôi bảo rằng họ chắc hẳn nên có một tiền đồn nho nhỏ hay gì đấy ở đây để tiết kiệm phần nào khoản chi phí đó. Họ đồng ý và rồi tôi được giao vị trí ấy.”
Graciela gật đầu, quay lại nhìn ra ngoài cửa trượt để xem Raymond thế nào. Chú đang nhìn chăm chú xuống mặt nước chỗ chú hy vọng là có cá.
“Còn cô thì sao?” McCaleb hỏi. “Cô cũng từng lập gia đình chứ?”
“Có, một lần.”
“Con cái?”
Nàng vẫn đang nhìn ra Raymond ngoài kia. Nụ cười của nàng vẫn ở nguyên đó nhưng đang căng lên vì những điều họ chưa nói ra. McCaleb tò mò về nàng nhưng quyết định bỏ qua chuyện ấy.
“Nhân thể, ông cũng tử tế với nó,” nàng vừa nói vừa gật đầu về phía Raymond. “Thế là cân bằng. Ông phải chỉ bảo chúng rồi thì để chúng tự mình tìm lấy. Thế là tốt với nó rồi.”
Nàng nhìn ông và ông nhún vai ý bảo đó là may mắn. Ông lấy cốc của nàng ghé lại gần mũi để thưởng thức mùi thơm, rồi trả cốc lại cho nàng. Đoạn ông rót cho mình chỗ cà phê còn lại trong ấm, pha thêm ít sữa và đường. Họ chạm cốc với ca rồi uống. Nàng nói nàng thích cốc rượu của mình. Ông thì bảo cà phê của ông uống cứ như hắc ín.
“Xin lỗi,” nàng nói. “Tôi cảm thấy uống cái này trước mặt ông nó cứ thế nào ấy.”
“Đừng. Thấy cô thích là tôi vui.”
Im lặng tràn ngập phòng khách. Mắt nàng dừng lại ở chồng báo cáo và băng video trên bàn bếp.
“Ông muốn cho tôi xem gì đây?”
“Ừm, chả có gì đặc biệt. Chỉ là tôi không muốn nói trước mặt Raymond.”
Ông nhìn qua cửa kính trông chừng chú bé. Chú đang câu rất cừ. Chú đang tập trung chú ý vào sợi dây câu cắt ngang qua làn thủy triều đang dâng. McCaleb vẫn mong chú sẽ câu được gì đó, nhưng cho rằng chuyện đó cũng khó. Bên dưới bề mặt đẹp đẽ của bến neo thuyền, nước đầy rẫy chất gây ô nhiễm. Nếu còn sót lại con cá nào dưới đó thì may ra chỉ là loài sống dưới đáy với kỹ năng sinh tồn của loài gián.
Ông nhìn lại Graciela.
“Nhưng tôi muốn cho cô biết là sáng nay tôi đã gặp thám tử của Cảnh sát trưởng. Cô ấy dễ chịu hơn nhiều so với mấy thằng cha bên cảnh sát Los Angeles.”
“Cô ấy?”
“Là Jaye Winston. Cô ấy tốt lắm, hồi trước chúng tôi có làm việc chung. Dù sao thì, cô ấy có cho tôi bản sao mọi thứ về cả hai vụ. Tôi dành cả ngày nghiên cứu là nghiên cứu từng ấy thứ. Nhiều lắm.”
Ông tóm tắt mọi chuyện càng ngắn gọn càng hay, cố nói nhẹ đi khi gặp các chi tiết liên quan đến em gái nàng. Ông không bảo nàng rằng ông có cuốn băng quay vụ giết em gái nàng ở đây, trên thuyền, bền cạnh họ.
“Ở Cục chúng tôi người ta hay nói là ‘cày xới tới cùng’,” ông nói khi kết thúc phần tóm tắt. “Nghĩa là không để lại bất cứ cái gì không được chạm tới, không một điều gì bị tình cờ bỏ sót. Ý chính tôi muốn nói là, cuộc điều tra vụ giết em gái cô không phải là một ca đã được cày xới tới cùng, nhưng đồng thời trong những gì người ta đã làm tôi cũng chả thấy có lỗ hổng nào lộ ra cả. Cũng có vài nhầm lẫn, có thể họ đã vội giả định đôi điều mà không chờ tới khi có đầy đủ sự kiện, nhưng dù sao thì các giả định đó không nhất thiết là sai. Người ta cũng đã điều tra khá thấu đáo.”
“Khá thấu đáo rồi,” nàng nhắc lại, mắt nhìn xuống đất. McCaleb hiểu ra rằng ông đã chọn dùng từ quá tồi.
“Vậy là gã đó rồi sẽ thoát thân thôi,” nàng nói như một lời tuyên bố. “Hẳn là lẽ ra tôi nên biết trước điều ông muốn nói với tôi là thế này đây.”
“Ồ, tôi không nói thế với cô đâu. Winston, thám tử chỗ Cảnh sát trưởng ấy, ít nhất là cô ấy đang tích cực theo vụ này. Mà cả tôi cũng đã xuôi tay đâu, Graciela. Tôi có nói thế đâu. Cả tôi cũng có phần liên quan ở vụ này.”
“Tôi biết. Tôi không định nói là tôi không hài lòng với ông. Với ông thì hoàn toàn không. Nhưng tôi thất vọng.”
“Điều đó tôi hiểu. Tôi không muốn cô thất vọng. Ta đi ăn một bữa tối ngon lành đi, sau sẽ nói chuyện nhiều hơn.”
“Vâng.”
“Cô ra ngoài với Raymond trước đi. Tôi phải thay đồ.”
Sau khi thay một cái quần Dockers sạch và một chiếc sơ mi Hawaii màu vàng có vẽ những lát dứa bay, McCaleb dẫn họ xuống bến tàu đi đến chỗ nhà hàng. Ông không buồn quấn lại dây cần câu của Raymond. Ông tựa cần câu lên một trong mấy giá mắc cần câu nơi mép thuyền rồi bảo chú bé là khi đi ăn về họ sẽ kiểm tra.
Họ ngồi ăn nơi bàn, Graciela và Raymond ngồi bên phía có thể ngắm cảnh mặt trời vừa bắt đầu lặn trên cả một rừng cột buồm của các tàu thuyền. Graciela và McCaleb gọi món cá kiếm nướng đặc biệt, còn Raymond thì ăn cá với khoai tây rán. McCaleb nhiều lần cố kéo Raymond vào cuộc trò chuyện song phần lớn là thất bại. Ông và Graciela chủ yếu nói về những khác biệt giữa sống trên thuyền với sống trong nhà ở trên bờ. McCaleb cho Graciela biết sống trên mặt nước thì yên bình và làm cho mình khỏe khoắn ra sao.
“Ra đến ngoài kia còn tuyệt hơn nữa kia,” ông vừa nói vừa chỉ ra phía Thái Bình Dương.
“Bao lâu nữa thuyền của ông mới sẵn sàng?” Graciela hỏi.
“Không lâu đâu. Ngay khi tôi chữa xong động cơ thứ hai là thuyền chạy được ngay thôi. Còn lại chỉ là mông má thôi mà. Cái ấy làm khi nào chả được.”
Trên đường đi ăn về, Raymond rảo bước đằng trước họ dọc theo đê chắn sóng, một tay cầm que kem ốc quế, tay kia cầm đèn pin, giờ thì chú đã mặc cái áo len màu xanh dương, đầu chú nhấp nhô hết phía này lại đến phía kia trong khi chú soi đèn đuổi theo những con cua kéo đàn lổm ngổm bò lên chân đê. Giờ thì ánh sáng hầu như đã tắt hẳn trên bầu trời, về đến thuyền thì đã đến lúc Graciela và Raymond phải về. McCaleb thấy dường như ông đã bắt đầu nhớ họ rồi.
Khi chú bé đã đi đủ xa đằng trước họ, Graciela lại nhắc về vụ án.
“Giờ thì ông có thể làm gì khác?”
“Về vụ án ấy à? Một là, tôi có một manh mối phải lần theo, một điều mà họ đã bỏ sót.”
“Cái gì kia?”
Ông giải thích về việc ông đã tiến hành kiểm tra chéo về nơi chốn, và bằng cách nào ông đã lần ra được Mikail Bolotov. Khi thấy nàng tỏ ra phấn chấn, ông nhanh chóng cảnh báo nàng đừng vội mừng.
“Gã này có chứng cứ ngoại phạm. Đúng là có manh mối đấy, nhưng nó có thể chả dẫn đến đâu hết.”
Ông nói tiếp.
“Tôi cũng đang nghĩ đến chuyện tới chỗ Cục yêu cầu họ tham gia chuyện đạn đạo.”
“Là thế nào?”
“Gã này có thể đã làm chuyện đó ở nơi khác. Hắn dùng một khẩu súng rất đắt tiền. Khẩu súng ấy hắn đã không vứt bỏ trong thời gian giữa hai vụ ấy, thế nghĩa là hắn thích giữ nó luôn và do vậy có thể hắn đã dùng nó trước kia rồi, ở đâu đó. Họ có vài chứng cứ đạn đạo – tức là mấy viên đạn ấy. Ở chỗ Cục họ có thể làm gì đó nếu tôi đưa vật chứng cho họ.”
Nàng không nhận xét gì và ông tự hỏi có phải lý lẽ thông thường của nàng bảo rằng chuyện này sẽ không phải ngày một ngày hai. Ông nói tiếp.
“Tôi cũng đang nghĩ tới chuyện quay lại gặp vài nhân chứng để thẩm vấn họ theo cách hơi khác đi một chút. Nhất là người đã nhìn thấy một phần vụ nổ súng, cái tay sống trong sa mạc ấy. Mà muốn làm vậy thì phải tinh tế một chút. Ý tôi là tôi không muốn giẫm lên chân Winston hoặc làm cô ấy cảm thấy tôi cho rằng cô ấy đã để lọt điều gì. Nhưng tôi muốn tự mình nói chuyện với anh chàng đó. Anh ta là nhân chứng tốt nhất. Tôi muốn nói chuyện với anh ta, rồi thì có hai ba nhân chứng về chuyện em cô đã… cô biết rồi đó.”
“Tôi không biết là có nhân chứng cơ đấy. Trong cửa hàng lúc ấy có người à?”
“Không, tôi không nói nhân chứng trực tiếp. Nhưng có một người đàn bà lái xe đi ngang nghe thấy tiếng súng. Rồi cũng có hai ba người chỗ tòa soạn Thời báo cùng ca với em cô đêm hôm ấy. Tôi muốn tự mình nói chuyện với hết thảy mấy người đó, để xem liệu có gì thay đổi trong ký ức họ về đêm đó hay không.”
“Chắc là tôi có thể giúp ông thu xếp chuyện này. Tôi biết hầu hết bạn bè của nó.”
“Tốt.”
Họ lặng thinh bước thêm một chốc. Raymond vẫn còn đi đằng trước một quãng xa. Cuối cùng Graciela nói.
“Tôi không biết ông có thể làm giúp tôi một chuyện không.”
“Được chứ.”
“Hồi trước Glory vẫn hay đến gặp một bà ở khu phố chúng tôi. Là bà Otero. Nếu không có tôi thì chắc nó cũng để Raymond ở với bà ấy. Nhưng thỉnh thoảng Glory cũng một mình tới gặp bà ấy để nói về những khó khăn mà nó gặp phải. Tôi đang tự hỏi không biết ông có muốn gặp bà ấy không.”
“Ừm… tôi không… ý cô là, cô nghĩ bà ta có thể biết đôi điều về chuyện này hay là, đại khái là để an ủi bà ta?”
“Có thể bà ấy sẽ giúp được gì chăng.”
“Làm thế nào bà ta có…”
Thế rồi đột nhiên ông nghĩ ra.
“Ý cô muốn nói bà ta là nhà ngoại cảm à?”
“Là bà đồng. Glory tin cậy bà Otero. Bà ấy nói bà ấy liên lạc được với các thiên thần và Glory tin chuyện ấy. Mà bà ấy thì cứ gọi điện suốt, bảo là muốn nói chuyện với tôi, và, tôi cũng chả biết nữa, tôi chỉ nghĩ là có thể ông sẽ đi cùng tôi.”
“Tôi không biết. Tôi không thực sự tin mấy chuyện đó Graciela ạ. Tôi không biết sẽ nói gì với bà ta cả.”
Nàng chỉ nhìn ông, và ông cảm thấy đau lòng khi nghĩ mình nhìn thấy sự chê trách trong mắt nàng.
“Graciela này… Tôi đã gặp quá nhiều điều xấu và quá nhiều người xấu đến nỗi chẳng còn tin nổi mấy chuyện kiểu đó nữa. Làm sao lại có thiên với thần cho được một khi thiên hạ vẫn cứ làm những việc như họ đang làm ở đây?”
Nàng vẫn chẳng nói gì và ông biết sự im lặng của nàng là một lời phê phán.
“Hay để tôi nghĩ đã rồi cho cô biết sau?”
“Được,” cuối cùng nàng nói.
“Đừng bực nhé.”
“Thôi được, tôi xin lỗi. Tôi đã kéo ông vào vụ này và tôi biết thế đã là xâm phạm quá lắm. Tôi chẳng biết mình nghĩ gì nữa. Chắc là tôi chỉ nghĩ ông nên…”
“Thôi nào, đừng bận tâm nữa. Tôi làm chuyện này vì tôi chẳng kém vì cô. Được chứ? Miễn là đừng từ bỏ hy vọng. Như tôi nói, có đôi điều tôi sẽ làm và cả Winston cũng sẽ không cho qua chuyện này đâu. Cho tôi ít ngày nữa. Nếu tôi không tìm được lối ra thì có thể chúng ta sẽ đi gặp bà Otero. Thế nhé?”
Nàng gật đầu nhưng ông có thể thấy là nàng thất vọng. “Hồi xưa nó là đứa ngoan lắm,” sau một lát nàng nói. “Từ hồi có Raymond mọi cái đối với nó đều thay đổi. Nó đàng hoàng chững chạc hẳn lên, chuyển đến ở cùng tôi rồi thì đâm ra biết cái gì là quan trọng cần làm trước. Nó đi học ở Cal State vào buổi sáng. Thành ra nó mới đi làm buổi tối ở tòa báo kia. Nó vốn thông minh. Nó vẫn muốn tiến sâu hơn vào nghiệp báo. Làm nhà báo.”
Ông gật đầu, giữ im lặng. Ông biết, nói ra được những điều như thế là tốt cho nàng.
“Giá mà được làm nhà báo thì nó sẽ giỏi lắm. Tôi nghĩ thế. Nó quan tâm đến mọi người. Ý tôi là, cứ nhìn nó mà xem. Nó từng là tình nguyện viên. Sau mấy vụ bạo loạn, nó đi xuống miền Trung-Nam để giúp dọn dẹp. Sau trận động đất, nó vào bệnh viện để tham gia nhóm cấp cứu và trấn an mọi người rằng mọi chuyện đều ổn. Nó từng hiến tạng. Nó vẫn thường hiến máu, bất cứ khi nào có bệnh viện nào gọi bảo họ cần máu là nó đến. Máu hiếm thế kia… ồ, nó còn hiếm hơn thế nữa. Đôi khi tôi thực lòng ao ước giá như tôi có thể đổi chỗ để chính tôi là người bước vào cửa hiệu đó.”
Ông quàng tay ôm lấy vai nàng như để vỗ về. “Thôi nào,” ông nói. “Hãy nhìn những người cô vẫn hằng giúp đỡ ở bệnh viện. Nhìn Raymond nữa. Cô sẽ rất tốt với nó cho mà xem. Cô không được nghĩ đến chuyện ai xứng đáng hơn ai hay là đổi chỗ này nọ. Điều đã xảy ra với cô ấy lẽ ra không được xảy ra với bất cứ ai.”
“Nhưng tôi chỉ biết rằng Raymond có người mẹ của riêng nó, mà giá là người đó thì sẽ tốt hơn tôi.”
Chẳng cách nào tranh luận với nàng được. Ông rút tay lại rồi đặt bàn tay lên cổ nàng. Nàng không khóc nhưng trông cứ như nàng sắp khóc. Ông muốn an ủi nàng nhưng biết rằng chỉ có một cách để ông làm được điều đó.
Họ gần như đã về tới vũng neo thuyền của ông. Raymond đang đợi nơi cổng an ninh mở hé chừng mươi xăng ti mét như thường lệ. Lò xo đã gỉ sét nên cổng chẳng bao giờ đóng khít được.
“Mình phải về thôi,” Graciela nói khi họ bắt kịp chú bé. “Muộn rồi mà cháu còn phải đi học.”
“Còn cần câu thì sao ạ?” Raymond phản đối.
“Chú McCaleb có thể lo chuyện đó. Giờ thì cám ơn chú ấy đã cho mình câu cá, ăn tối rồi lại còn ăn kem nữa, nào.”
Raymond chìa bàn tay nhỏ xíu ra và McCaleb lại bắt. Bàn tay lạnh và nhớp nháp.
“Chú Terry đây. Và này, mai mốt chú cháu mình sẽ đi câu thật, câu ra trò. Ngay khi thuyền chú chữa xong. Chừng đó chú cháu mình sẽ giong thuyền ra xa và mình sẽ tóm được cho cháu một con rõ to. Chú biết một chỗ ở phía bên kia đảo Catalina. Mùa này trong năm mình sẽ câu được cá hanh. Nhiều lắm. Mình sẽ tới đó, OK?”
Raymond làm thinh gật đầu như thể chú đoán rằng chuyện đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Điều này khiến McCaleb rùng mình buồn bã. Ông nhìn Graciela.
“Thứ Bảy này được không? Thuyền thì chưa xong đâu nhưng hai dì cháu cứ tới vào buổi sáng, cả hội mình có thể câu ngoài đê chắn sóng. Nếu muốn thì ở qua đêm cũng được. Có khối chỗ, tha hồ.”
“Ồ thích quá!” Raymond la lên.
“Được,” Graciela nói, “để xem từ giờ đến cuối tuần thế nào đã.”
McCaleb gật đầu, nhận ra sai lầm mình vừa phạm phải. Graciela mở cửa sau chiếc Rabbit chuyển đổi công năng của nàng và chú bé chui vào. Nàng lại gần McCaleb sau khi đóng cửa xe.
“Cho tôi xin lỗi,” ông nói giọng trầm đi. “Chắc là tôi lẽ ra không nên đề nghị như vậy trước mặt nó.”
“Không sao đâu,” nàng nói. “Tôi thích vậy nhưng có thể tôi còn phải thu xếp vài việc, nên phải đợi xem đã. Trừ phi ông muốn biết chắc ngay bây giờ.”
“Không, thế cũng được. Chỉ cần cho tôi biết thôi.”
Nàng lại gần một bước và chìa tay ra bắt.
“Cám ơn ông rất nhiều về tối nay,” nàng nói. “Trước giờ nó rất hay trầm lặng nhưng tôi nghĩ là nó thích, còn tôi thì nhất định là tôi thích.”
McCaleb nắm tay nàng mà bắt nhưng rồi nàng cúi người về phía ông, ngước mặt lên hôn vào má ông. Khi lùi lại, nàng đưa tay lên miệng.
“Lởm chởm quá,” nàng mỉm cười nói. “Ông để râu đấy à?”
“Đang nghĩ đến chuyện đó đây.”
Nghe thế nàng bật cười vì lý do nào đó. Nàng đi vòng quanh xe và ông theo sau để giữ cho cửa mở. Khi đã ngồi vào ghế, nàng nhìn lên ông.
“Ông biết không, ông nên tin vào các ngài,” nàng nói.
Ông nhìn xuống nàng.
“Ý cô là tin thần thánh?”
Nàng gật. Ông gật đầu đáp lại. Nàng nổ máy rồi lái xe đi.
Về lại thuyền, ông đi tới góc phía mạn sau. Cái cần câu vẫn ở nguyên nơi mép thuyền, dây câu vẫn nằm trên mặt nước nơi Raymond bỏ lại. Nhưng khi thu dây vào, McCaleb biết là chẳng có cá nào dính câu. Khi cuối cùng toàn bộ dây đã lên khỏi nước, ông thấy lưỡi câu và chì câu nhưng mồi thì không. Có gì đó dưới kia đã tước mất của ông.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.