Săn Học Bổng - Đích Đến Của Tôi Phải Là Nước Mỹ
Chương 4. Sự phấn đấu của tôi
Những năm tháng đại học
(Tháng Chín năm 2003 đến tháng Bảy năm 2007)
“Cho dù bạn từ đâu tới, cho dù bạn bình thường như thế nào đi nữa, thì với ước mơ, tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Cho dù bạn cảm thấy bản thân mình nhỏ bé nhường nào, bạn vẫn có quyền theo đuổi ước mơ cao quý. Chỉ khi dám ước mơ, bạn mới có cơ hội thực hiện được điều mình mơ ước bằng chính sự nỗ lực của bạn. Nếu như ngay cả ước mơ bạn cũng chẳng dám nghĩ tới, vậy thì chẳng phải là bạn không có mảy may xác suất thành công nào ư?”
Tỉnh ngộ và vùng dậy mạnh mẽ
Con đường phấn đấu bắt đầu từ đây
Thời đại học có hai sự việc mà tôi đáng phải cảm ơn nhất, đó là: Gặp được thầy tốt và bạn hiền. Tôi từng thất bại mấy lần, thế nhưng ông trời vẫn không bỏ mặc tôi, cho tôi cơ hội tiếp tục được đến trường, không những vậy, ông trời còn mang thầy tốt, bạn hiền đến bên tôi. Tôi luôn cho rằng, đây nhất định là phúc phận tôi tu được từ kiếp trước. Người thầy tốt tôi gặp được trong trường đại học chính là cô giáo Trịnh, người thầy thứ ba làm tôi thay đổi trên con đường học tiếng Anh. Cô giáo Trịnh giúp đỡ tôi rất nhiều trên phương diện học tập tiếng Anh, hơn nữa, cô còn thay đổi hoàn toàn nhân sinh quan của tôi. Với tôi, cô giống như một vị nữ thần, luôn ban phát thứ ánh sáng rực rỡ không thể chạm tới – nhưng nó lại tồn tại thật sự. Cô không chỉ đem đến cho tôi tri thức, mà hơn thế, cô còn nuôi dưỡng tinh thần của tôi, tất cả là nhờ vào niềm tin kiên định cùng trái tim nồng ấm của cô. Chính trái tim ấy vẫn luôn ủng hộ tôi không ngừng phấn đấu.
Trước lúc biết cô giáo Trịnh, tôi nghe các anh chị sinh viên năm thứ ba, thứ tư trong trường nói: So với cuộc sống cấp III, cuộc sống ở bậc đại học thoải mái hơn nhiều, các em có thể tham gia vào các đoàn thể xã hội, có thể làm cán bộ trong các tổ chức của sinh viên, và còn có rất nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao khác. Thế nên, nhà trường vừa mới khai giảng chưa được mấy ngày, tôi đã hí hửng kéo bạn học đi đăng ký vào mấy vị trí mới tuyển của các loại đoàn hội như: Câu lạc bộ guitar, câu lạc bộ hip-hop, câu lạc bộ máy tính,… nhưng ngay sau ngày đăng ký, tôi đã biết cô giáo Trịnh.
Đến nay tôi vẫn nhớ như in hình ảnh lần đầu tiên cô giáo bước vào lớp học, mỉm cười chào mọi người, dường như tôi nhìn thấy cả một mùa thu tỏa nắng trong nụ cười đó, cảm giác ấm áp trong lòng. Cô chớp đôi mắt đẹp dịu hiền, tưởng chừng nhìn thấu tâm can chúng tôi. Cô không chỉ có dung mạo xinh đẹp, khiến người khác rung động, mà cô còn có bản lĩnh vững vàng, tính cách giản dị, dễ gần. Giờ học đầu tiên, cô say sưa chia sẻ với mọi người câu chuyện của mình. Cô kể lại lịch sử phấn đấu của mình trong thời gian học đại học và thời gian học cao học theo chương trình trao đổi học viên với Đại học Bắc Kinh, sau đó cô còn kể về ước mơ du học. Kể xong lịch sử phấn đấu, cô bắt đầu chia sẻ cảm nhận của cá nhân cô. Cô nói, đời người cần phải phấn đấu, gặp hoàn cảnh thuận lợi cũng phải phấn đấu, gặp hoàn cảnh đối nghịch thì càng phải phấn đấu nhiều hơn. Vì nhờ phấn đấu, cuộc đời mới trở nên ý nghĩa; không có phấn đấu, con người chẳng khác nào “khối thịt” biết đi. Chỉ có thông qua quá trình phấn đấu, bạn mới có thể thực hiện được kế hoạch và lý tưởng của mình đối với tương lai. Thầy cô cần động viên khích lệ tất cả các bạn sinh viên, dù hoàn cảnh của các bạn như thế nào, thì các bạn cũng cần phải có dũng khí kiên trì đi tới ước mơ của mình, vì chỉ cần chịu khổ, dũng cảm kiên trì, mỗi người đều có khả năng thành công. Những lời cô giáo nói ngày hôm ấy như hồi chuông cảnh tỉnh tôi, có lẽ đây cũng chính là bài giảng mang lại cho tôi nhiều động lực nhất mà tôi từng được nghe trong suốt cuộc đời mình! Trong tích tắc, tôi sực hiểu ra: Thì ra mình luôn cảm thấy cuộc sống của mình mấy năm trở lại đây thật đau khổ, vì mình chưa bao giờ phấn đấu, chỉ biết sống cho qua ngày, ngu dốt dại dột, không có mục tiêu, cũng không có ước mơ. Bây giờ mình muốn thay đổi, vậy thì bắt buộc phải tìm ra mục tiêu, sau đó phấn đấu ngay lập tức!
Hết giờ học, cô giáo bước ra khỏi lớp, tôi vội vã đuổi theo cô ra ngoài giống như đang đuổi theo một chòm sao, tôi hỏi cô rốt cuộc mình phải phấn đấu như thế nào. Cô nhìn tôi, mỉm cười, nói tôi nên bắt đầu từ việc học tốt kiến thức chuyên ngành. Tôi nhanh nhảu hỏi tiếp: Làm thế nào để học giỏi tiếng Anh? Cô đáp lại một câu đơn giản: Làm việc cần làm và kiên trì đến cùng. Cô đi khỏi, một mình tôi trơ trọi ở lại không biết phải làm sao: Ngọn lửa nhiệt huyết đang sục sôi trong con người tôi, nhưng vì chưa có mục đích và phương pháp học tập rõ ràng, nên tôi cảm thấy dù cả người mình tràn đầy sức lực nhưng lại không sử dụng được. Cho dù như vậy, tôi cũng hiểu rõ một điều: Kỳ thực cuộc sống bốn năm trong trường đại học không hề thoải mái, ít nhất là nếu bạn muốn có một cuộc sống thoải mái trong tương lai sau này, thì cuộc sống hiện tại của bạn ở trường đại học ắt sẽ phải không thoải mái. Vì vậy, tôi quyết tâm vứt bỏ ý nghĩ theo đuổi cuộc sống ung dung thoải mái trong những năm tháng đại học, rút tên khỏi tất cả các đoàn hội, hạ quyết tâm bước vào con đường phấn đấu của “thầy tu khổ hạnh” từ đây.
Lần đầu tiên tôi đứng thứ nhất
Cô giáo Trịnh dạy chúng tôi, làm bất cứ việc gì cũng cần phải nắm rõ kế hoạch, vì có kế hoạch rồi mới có mục tiêu, có mục tiêu rồi mới có động lực để làm. Khép lại tuần học đầu tiên, tôi xác định cho mình một mục tiêu ngắn hạn. Lúc đó, tôi cảm thấy tiến trình giảng dạy của nhà trường hơi chậm, nên tự đặt ra cho mình một mục tiêu: Tự học hết bốn cuốn giáo trình Extensive Reading và Intensive Readingtrong một học kỳ. Sau đó, tôi thực hiện đều đặn mỗi tối tự học năm, sáu bài. Vào thời điểm đó, mỗi buổi tối ăn cơm xong, tôi đều rủ cô bạn cùng phòng trong ký túc xá đi tự học, về sau bạn ấy không muốn tối nào cũng đi tự học, nên tôi phải đi khắp nơi tìm bạn học cùng. Tìm tới tìm lui cũng chẳng tìm được người phù hợp, thế là tiến độ tự học của tôi bị chậm lại.
Đúng lúc tôi đang khốn khổ, phần vì không có bạn học cùng liều mạng phấn đấu với tôi, phần vì nghị lực của tôi không đủ mạnh, thì từ vũ trụ bao la bỗng đâu xuất hiện một nhân vật quan trọng trong cuộc đời tôi. Cô ấy là Cá Béo Ướp Muối, người bạn hiền cùng lớp đại học với tôi. Biệt hiệu này bắt nguồn từ bài hát Cá ướp muối của nhóm Mayday – kể từ khi chúng tôi cùng nắm tay nhau đi trên con đường phấn đấu, bài hát này đã cổ vũ chúng tôi không biết bao nhiêu lần, nên chúng tôi đặt cho nhau cái tên là Cá Béo Ướp Muối và Cá Gầy Ướp Muối.
Tôi quen Cá Béo Ướp Muối trong giờ học cầu lông. Vào tiết học cầu lông đầu tiên, chúng tôi xếp hàng, Cá Béo Ướp Muối đứng ngay trước mặt tôi. Tôi trông bạn ấy quen quen, bèn hỏi có phải bạn ấy cũng học khoa tiếng Anh với tôi không, bạn ấy trả lời đúng. Về sau chúng tôi nói chuyện thân mật hơn rồi mới nhận ra cả hai là bạn cùng lớp của nhau. Tôi bảo Cá Béo Ướp Muối, buổi tối tôi không tìm được bạn cùng đi tự học, thành ra không dám đi, vì tôi rất sợ đi một mình về ký túc xá lúc trời khuya (ký túc xá của chúng tôi ở bên ngoài trường). Nghe vậy, hai mắt Cá Béo Ướp Muối sáng bừng lên, Cá Béo Ướp Muối nói bạn ấy cũng đang tìm bạn học. Vừa khéo hai đứa tôi kết hợp thành một cặp. Từ đó trở đi, Cá Béo Ướp Muối trở thành người bạn hiền trên con đường phấn đấu của tôi, cho tới bây giờ cũng đã được tám năm rồi. Cá Béo Ướp Muối là một người vô cùng quan trọng trong cuộc đời tôi, thật khó để miêu tả hết bằng lời. Cô ấy không chỉ là đồng minh lớn nhất mà cũng là tri kỷ tốt nhất. Cô ấy đả kích tôi mỗi khi tôi kiêu căng, ngạo mạn, đồng thời khích lệ tôi mỗi khi tôi chán nản, nhụt chí. Bao nhiêu can đảm và nghị lực của tôi đều có được từ sự động viên, khích lệ của cô ấy. Cá Béo Ướp Muối thường nói với tôi, bọn mình đều là người bình thường, đều là “cá ướp muối”, nhưng, bọn mình là “cá ướp muối” có ước mơ. Điều quan trọng nhất đối với một người đang phấn đấu vì ước mơ là cần phải có can đảm, cần phải có đam mê và trách nhiệm. Không phải bạn cứ ba hoa chích chòe thì sự việc có thể đi tới thành công, bạn bắt buộc phải tự làm mọi việc, và bắt buộc phải làm từ đầu.
Từ khi kết bạn với Cá Béo Ướp Muối, mỗi tối chúng tôi đều cùng nhau đi tự học, bản thân tôi cũng sắp xếp lại kế hoạch tự học của mình. Mục tiêu tự học của tôi vẫn chỉ đơn giản là tự học hết bốn cuốn giáo trình Extensive Reading và Intensive Reading. Lúc đó tôi vẫn chưa hình thành phương pháp tự học hệ thống, nên mới đầu tôi còn không biết phải học thế nào, tôi định đọc một lượt bài khóa, nắm nội dung tư tưởng của bài và làm hết các bài tập, chỉ thế mà thôi. Đại khái đây là lần đầu tiên trong đời, tôi học tập một cách nghiêm túc. Từ nhỏ tới lớn, đây là lần đầu tiên tôi đọc hết sách giáo trình của nhà trường mà không bỏ sót một chữ nào. Sau mỗi buổi tối tự học, tôi đều cảm thấy hưng phấn, trước đó tôi chưa từng có cảm giác này. Mỗi lần hoàn thành một nhiệm vụ đã được đề ra trong bản kế hoạch, tôi đều cảm thấy hài lòng.
Khi phấn đấu, thời gian luôn trôi đi vội vã. Vừa mới bắt đầu vào học chưa được bao lâu, chúng tôi đã bước vào kỳ thi giữa kỳ đầu tiên trong trường đại học. Tôi đã tự học giáo trình một lượt, lên lớp lại được nghe cô giáo giảng lại một lần nữa, có thể nói kiến thức tiếng Anh của tôi cũng khá vững, nên lần thi đó tôi thể hiện không tồi. Bất ngờ nhất là tôi đứng đầu lớp trong bài thi Extensive Reading của cô giáo Trịnh. Tôi nhớ rất rõ, lúc đó cô giáo cầm bài thi của tôi trên tay, nhận xét chữ viết tiếng Anh trong bài thi rất đẹp, bài luận tương đối sâu sắc, hành văn có cảm giác như native speaker.
Lúc đó, tôi đang ngồi dưới lớp, nghe những lời khen này, cảm thấy xốn xang trong lòng, một mặt hy vọng người cô nói đến là mình, nhưng mặt khác lại không dám chắc một trăm phần trăm đó có phải là mình hay không. Một lúc sau, cô nói: “Tôi rất muốn biết bạn này.”Nghe cô giáo đọc tên của mình, tôi bỗng rùng mình như có luồng điện chạy qua, từ từ đứng dậy nói: “Thưa cô, là em ạ!” Cô giáo nhìn tôi, ngỡ ngàng nhận ra tôi chính là “cô bé đuổi theo chòm sao” hỏi chuyện cô hồi đầu năm học, vì thế cô cười nói: “Ồ! Thì ra là bạn à, không sai, bạn ngồi xuống đi.” Quả thật, tôi vô cùng sung sướng, bề ngoài tôi vẫn cố tỏ ra điềm tĩnh, từ tốn gật đầu, rồi ngồi xuống, chứ thật ra trong lòng đã tung hoa cho mình rồi.
Sau kỳ thi giữa kỳ, rất lâu sau tôi không thể bình tâm trở lại. Tôi cầm bài thi của mình xem đi xem lại không biết bao nhiêu lần, đây là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi đứng ở vị trí thứ nhất, trái tim bé nhỏ của tôi không chứa nổi vinh dự này đâu! Ngẫm ra hồi cấp II, cấp III, muốn tìm tên mình trên bảng xếp hạng, tôi đều phải dò từ giữa bảng trở xuống, còn bây giờ? Tên của tôi đứng đầu! Còn có nguồn động viên nào tạo ra sức mạnh lớn hơn thế? Kể từ khi đứng đầu kỳ thi giữa kỳ, tôi càng không thể thu lại nhiệt tình mà mình đã dành cho tiếng Anh. Cũng từ đây, tôi bắt đầu học tiếng Anh một cách điên cuồng, tên của tôi liên tục xuất hiện ở vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng các kỳ thi lớn nhỏ. Bốn năm đại học, không hề có một ngoại lệ.
Học từ vựng như thế nào?
Ngoài việc cùng nhau tự học ra, tôi còn chia sẻ với Cá Béo Ướp Muối chuyện hồi đầu năm học tôi hỏi cô giáo Trịnh phương pháp học tập, cô nói điểm mấu chốt để học giỏi tiếng Anh là “làm việc cần làm và kiên trì đến cùng”. Cá Béo Ướp Muối bị kích động ngay lập tức, bạn ấy hỏi tôi câu “làm việc cần làm” nghĩa là gì, tôi nói tôi cũng không biết. Hai đứa tôi suy nghĩ hồi lâu rồi đưa ra kết luận, một cao nhân như cô giáo Trịnh chắc chắn phải có hẳn một cuốn “sách quý” về học tập, vì thế chúng tôi đánh liều đến hỏi cô một lần nữa. Nhận thấy tấm lòng khao khát học tập của hai đứa tôi không gì so sánh được, cô không nhịn được cười, nói hồi đầu năm học cũng có một bạn nam trong lớp hỏi cô về “sách quý” đó. Chúng ta tạm gọi bạn nam ấy là bậc thầy ngôn ngữ học nhé, vì từ ngày mở môn ngôn ngữ học cho đến giờ, bạn nam ấy luôn phát huy thứ ánh sáng lạ kỳ trong giới ngôn ngữ học. Với sự tham gia của bậc thầy ngôn ngữ học, chúng tôi tạo thành một nhóm học gồm ba người. Lòng nhiệt tình vô hạn của tôi, lại được tiếp thêm sức mạnh bởi những người đồng chí có cùng hướng phấn đấu và sự bồi dưỡng của cô giáo ưu tú, nên các bạn có thể hình dung ra khí thế học tập của tôi lúc đó mạnh mẽ nhường nào.
Nhóm học ba người chính thức được thành lập vào học kỳ II, năm thứ nhất. Cô giáo Trịnh dạy chúng tôi: Từ vựng là nền tảng học tiếng Anh, nếu không biết từ vựng thì đọc không hiểu, nghe không hiểu và cũng không viết được, ngay đến giao tiếp hàng ngày với người khác cũng không biết diễn đạt ra sao. Cho nên, muốn học giỏi tiếng Anh, bắt buộc các bạn phải nắm vững từ vựng trước. Mới đầu học từ vựng, cô quẳng cho chúng tôi mỗi đứa một cuốn từ vựng tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, nói: “Các bạn về học đi nhé, mỗi ngày học thuộc một trăm từ, vị chi một tuần là bảy trăm từ, cuối tuần tôi sẽ kiểm tra các bạn.” Tôi ngẩn tò te, thỏ thẻ: “Cô ơi, ngày trước học cấp III, mỗi ngày bọn em chỉ học mười từ thôi ạ…” Cô đáp: “Bây giờ các bạn đang học đại học, không phải là học cấp III. Học đi, cuối tuần tôi kiểm tra.” Cô đã nói ra rồi thì thể nào cuối tuần cũng sẽ kiểm tra. Vậy nên chúng tôi chỉ còn mỗi nước cố mà học.
Hàng ngày, ăn cơm trưa xong, tôi và Cá Béo Ướp Muối lại vùi đầu học từ vựng. Lần đầu tiên giở sách từ vựng ra, tôi sắp phát khóc, một trăm từ sờ sờ ở bên trong chẳng biết tôi, tôi cũng chẳng biết chúng, làm sao có thể nhớ hết trong vòng một ngày! Lúc đó tôi cho rằng mỗi ngày học một trăm từ vựng, đúng là chuyện hết sức hoang đường, dù cô giáo có đánh chết tôi, tôi cũng chẳng thể nào học được: mới học đến từ thứ bốn mươi đã quên béng từ thứ mười bảy; mới học đến ngày thứ ba đã quên hết số từ vựng đã học hai ngày trước. Sau một tuần bù đầu, kết cục thật thảm hại. Lúc cô giáo kiểm tra, có tới hơn một nửa số từ vựng tôi không biết.
Tôi nói với cô giáo Trịnh, đầu óc tôi bị “trúng độc” rồi, một trăm từ một ngày là quá nhiều, tôi không thể học thuộc được, xin cô có thể giảm bớt mỗi ngày học ít đi một chút không, ví dụ như năm mươi hay tám mươi từ cũng được. Nhưng, cô giáo kiên quyết không cho tôi “thuốc giải”, cũng không nhân từ với tôi, cô nói vẻn vẹn một câu: “Bạn không học thuộc được là bình thường, học đi học lại nhiều lần chính là điểm mấu chốt. Một trăm từ mỗi ngày, không thể ít hơn, tiếp tục học đi nhé.” Bất đắc dĩ, tôi chỉ có thể quay về tiếp tục nhồi nhét từ vựng vào đầu.
Áp lực cũng chính là động lực, quả đúng là đạo lý này. Sang tuần thứ hai, tôi và Cá Béo Ướp Muối quyết định thực hiện cơ chế giám sát lẫn nhau: Sáng sớm học thuộc một lượt một trăm từ vựng, sau bữa trưa kiểm tra chéo, hễ bị đối phương phát hiện ra chưa thuộc từ nào, thì phải khoanh tròn từ đó lại, đọc lại từ đó cùng với ý nghĩa tương ứng của nó trong tiếng Trung mười lần. Làm vậy không những bản thân người mắc lỗi có thể ghi nhớ từ vựng, mà đối phương cũng có ấn tượng sâu hơn về từ đó. Chúng tôi thống nhất sáng sớm hàng ngày học thuộc từ mới, còn buổi chiều và buổi tối đều kiểm tra lại một lượt. Cơ chế học từ vựng như thế, nghe có vẻ máy móc nhưng thực tế lại có hiệu quả đối với cả hai bên. Chúng tôi tuân thủ nghiêm ngặt lời dạy của cô giáo: Học đi học lại nhiều lần chính là điểm mấu chốt. Vì vậy, chúng tôi gần như dành toàn bộ thời gian sau giờ lên lớp vào học từ vựng, hễ có thời gian, chúng tôi lại học lại từ vựng một lần nữa.
Trong thời gian đó, lúc đi, lúc ngồi chúng tôi cũng đều học từ vựng, lúc ăn cơm thì kiểm tra lẫn nhau, ngay cả trong mơ cũng toàn mơ thấy từ vựng. Cá Béo Ướp Muối quen viết từ không biết vào lòng bàn tay, còn tôi quen viết từ không biết vào cuốn sổ tay luôn mang theo bên mình, khi xếp hàng lấy cơm trong canteen, chúng tôi cũng phải chìa tay hay mở sổ ra xem. Lúc đó cuốn từ vựng chẳng khác nào bạn trai của hai đứa tôi, buổi tối đi ngủ chúng tôi cũng ôm cuốn từ vựng ngủ, chỉ tiếc là không thể sống cùng nó suốt đời. Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình hồi ấy vừa giống người máy vừa giống một đứa ngốc, nhưng bản thân tôi lúc đó lại được tận hưởng cảm giác thành tựu vì biết đặt ra mục tiêu và hoàn thành mục tiêu, phát hiện khó khăn và khắc phục khó khăn.
Có cho đi thì sẽ có nhận lại, hai tháng sau, tôi và Cá Béo Ướp Muối dần dần nhận ra, chúng tôi hoàn toàn có thể tiêu hóa một trăm từ vựng mỗi ngày. Không những vậy, tốc độ học thuộc một trăm từ vựng cũng càng ngày càng được rút ngắn: Ban đầu chúng tôi phải mất cả một ngày trời mới có thể thuộc hết một trăm từ vựng, nhưng sau đó chỉ mất một buổi sáng và một buổi chiều, về sau thì chỉ cần hai, ba tiếng đồng hồ là cùng, đến khi học thuộc hết cuốn sách, chúng tôi có thể nhớ kỹ một trăm từ vựng trong vòng một tiếng, có lẽ là vì đầu óc chúng tôi đã quen với cường độ học tập này rồi (tất cả những cụm từ “học thuộc từ vựng” được nói đến ở đây đều đơn thuần chỉ học thuộc từ vựng, tức là nhìn thấy một từ tiếng Anh bất kỳ, bạn có thể lập tức nói ra ý nghĩa thường được sử dụng nhất của nó trong tiếng Trung).
Sau mấy tuần cô giáo kiểm tra từ vựng, để khuấy động “trò chơi”, chúng tôi đưa ra một quy tắc mới: Ai trong ba đứa nói sai một từ sẽ bị phạt một đồng. Đợi đến khi tích đủ năm đồng, người được thưởng sẽ chiêu đãi đối phương món cơm hộp. Tôi và Cá Béo Ướp Muối luôn đứng ở cùng một phe, dù quy tắc đã được đề ra nhưng bất kể ai trong hai đứa tôi giành phần thắng cũng đều chẳng mời bậc thầy ngôn ngữ ăn cơm. Chúng tôi ra sức học từ vựng, không dám thờ ơ bỏ qua bất cứ từ nào.
Để học từ vựng một cách hệ thống hơn, tôi quyết định tiến hành phân chia lại cuốn từ vựng. Cách làm của tôi là: Chia mỗi một trăm từ vựng làm một phần và có đánh dấu, bắt đầu từ từ vựng đầu tiên trong cả cuốn sách. Một trăm từ đầu đánh dấu “(1)”, một trăm từ tiếp theo đánh dấu “(2)”, cứ như vậy cho tới hết cuốn sách thì thôi. Với mỗi phần từ vựng, tôi còn ghi chú tất cả số lần học thuộc cùng với phạm vi số trang từ vựng của phần đó ở ngoài bìa sách, ví dụ: (1), bảy lần, trang 1-18. Muốn học lại phần từ vựng nào, tôi có thể nhanh chóng giở đến phần từ vựng đó, vả lại tôi còn có thể nắm rõ số từ vựng của mỗi phần trong lòng bàn tay.
Trước khi ôn tập từ vựng, tôi làm ghi chú cho cuốn từ vựng của mình trước, ví dụ chấm tròn biểu thị nhớ sai một lần, gạch chân biểu thị nhớ sai hai lần, ngôi sao biểu thị nhớ sai ba lần. Tôi viết những ghi chú này ở trang đầu tiên của cuốn sách. Lần thứ nhất ôn tập, tôi sẽ vẽ chấm tròn trước từ mình không biết và dùng bút chì gạch nhẹ từ mình biết. Lần thứ hai ôn tập, tôi nhìn vào những từ có chấm tròn trước, nếu có từ nào không biết, tôi sẽ gạch chân từ đó, đọc thầm năm lần; sau đó ôn lại những từ đã được gạch nhẹ bằng bút chì. Nếu phát hiện trong số những từ đã được gạch nhẹ đó có từ nào không biết, tôi sẽ vẽ chấm tròn vào từ đó. Lần thứ ba ôn tập, tôi xem những từ bị gạch chân trước (vì tôi nhớ sai những từ này hai lần), nếu trong đó có từ nào không biết, tôi sẽ vẽ ngôi sao trước từ đó, đọc thầm năm lần; sau đó chuyển sang những từ có chấm tròn, gạch chân từ không biết; cuối cùng tôi ôn lại những từ đã được gạch nhẹ bằng bút chì, nếu có từ nào không biết, tôi lại vẽ chấm tròn vào từ đó. Đến lần thứ tư ôn tập, tôi xem những từ có ngôi sao trước (vì tôi nhớ sai những từ này ba lần), sau đó xem những từ bị gạch chân, rồi đến những từ có chấm tròn, cứ tuần tự như vậy.
Phương pháp này nghe có vẻ rắc rối, phức tạp, nào là chấm tròn, nào là gạch chân, rồi lại còn ngôi sao nữa, nhưng ý nghĩa cơ bản của nó là giúp tôi ghi nhớ sâu từng từ một qua những hoạt động tuần hoàn lặp đi lặp lại, càng là từ không biết càng phải học đi học lại nhiều lần. Về sau việc nắm vững từ vựng trở nên khá đơn giản và hiệu quả: Chỉ cần nhìn vào những từ mang ký hiệu chấm tròn, gạch chân, ngôi sao, tôi sẽ biết ngay đó là kẻ thù lớn của mình, cần phải nhớ thường xuyên ôn tập lại.
Tôi chia sẻ phương pháp học từ vựng của mình với Cá Béo Ướp Muối, bạn ấy tỏ ra rất thích thú, ngay ngày hôm sau Cá Béo Ướp Muối đã vẽ chi chít “hoa hồng liễu xanh” vào cuốn từ vựng của mình. Sau một thời gian kiên trì, Cá Béo Ướp Muối phải công nhận với tôi rằng, phương pháp này quả là có tác dụng. Trong khoảng thời gian còn lại của năm thứ nhất đại học, hàng ngày hai đứa tôi đều sử dụng cơ chế giám sát lẫn nhau trong quá trình học từ vựng, từ đó đạt được hiệu quả cao. Những lúc cô giáo kiểm tra, chúng tôi chưa bao giờ phải mất một đồng cho bậc thầy ngôn ngữ. Học thuộc từ vựng là một việc gian khổ, nên nếu có thể tìm được bạn học cùng, chúng ta không những có thể động viên, khích lệ, giám sát lẫn nhau mà còn có thể “phạt” một bữa cơm để “uy hiếp” bạn mỗi khi bạn muốn buông xuôi nữa. Có thể nói, việc tìm được bạn học đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích. Sang học kỳ II năm thứ nhất, cuốn từ vựng tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 của tôi và Cá Béo Ướp Muối đã trở nên nhàu nhĩ, chúng bị “chia năm xẻ bảy”, “tan nát tơi bời”, đến nỗi long cả bìa, còn chữ nghĩa bên trong cũng bay biến, nhòe nhoẹt hết cả. Chúng tôi không thể không mua cuốn mới về. Dù vậy, hai đứa tôi vẫn không cảm thấy chán, tiếp tục “vẽ vời” lên cuốn sách mới. Chúng tôi cười khúc khích, nói: “Học từ vựng là phải như thế này!”
Có một dạo tôi mê mẩn ngày đêm theo dõi bộ phim My name is Kim Sam Soon (Tên tôi là Kim Sam Soon), tôi nhận ra lúc đi, lúc ngồi trong đầu tôi toàn xuất hiện hình ảnh của Hyun Bin, ngay cả buổi tối đi ngủ, tôi cũng chỉ mơ thấy anh ấy. Nay chuyện học từ vựng cũng tương tự như vậy. Khi học từ vựng trở thành một phần trong cuộc sống của chúng tôi, hàng ngày trong đầu chúng tôi cũng toàn nghĩ đến từ vựng. Ví như khi tôi và Cá Béo Ướp Muối đi tản bộ trong trường và bắt gặp một cây tùng cao lớn bên rìa đường, tôi sẽ đố Cá Béo Ướp Muối “cây tùng” trong tiếng Anh nói như thế nào, sau đó chúng tôi tập hợp toàn bộ số từ vựng tiếng Anh về các loài cây, học lại một lượt. Thêm một ví dụ nữa, khi ăn cơm trong canteen, thấy một bạn sinh viên nữ bàn bên cạnh cười lớn tiếng, chúng tôi sẽ nói ra một loạt từ tiếng Anh miêu tả các kiểu “cười”. Lúc đó, chúng tôi đã đạt đến độ say mê học Anh, như đột nhiên nhớ đến một từ nào đó đã học thuộc mấy ngày trước, nhưng chẳng thể nhớ nổi rốt cuộc đó là từ gì, chúng tôi lập tức buông bát đũa xuống, giở cuốn từ vựng ra tra cứu ngay, tìm bằng được từ đó mới thôi. Mỗi lần các bạn khác nhìn thấy chúng tôi có những cử chỉ, hành động kỳ quặc như vậy, ánh mắt của bọn họ sẽ lộ vẻ ngạc nhiên, khó hiểu hoặc khinh khỉnh giễu cợt, tựa như đang lẩm bẩm: “Lại còn đến mức ấy cơ à.”Lúc đó, chúng tôi đều ương bướng trừng mắt nhìn lại, ngầm nói: “Hừm, cậu thì biết cái thá gì.” Lúc đó, chúng tôi tự tổng hợp rất nhiều từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, và còn nói đùa nhau là “nữ vương tổng hợp từ vựng”. Không ngờ mấy năm sau tới Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới ở Bắc Kinh, chúng tôi mới phát hiện ra ở đó có bán sách từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, hai đứa tôi mua mấy cuốn sách này, trêu nhau bọn mình đúng là có tầm nhìn xa.
“Đặt bút như có nửa thần”, “Xuất khẩu thành nửa bài”
Cô giáo Trịnh thường nói: Học thuộc từ vựng không phải là mục đích sau cùng, điểm số cao trong các kỳ thi cũng không phải là mục đích sau cùng, mà mục đích sau cùng là phải thật sự nâng cao được năng lực tiếng Anh của mình qua các phương pháp học tập khác nhau. Cô dạy chúng tôi: Cảnh giới cao nhất trong học ngôn ngữ là bạn có thể điều khiển được nó, tức là bạn có thể diễn đạt trôi chảy ý nghĩ mình muốn nói ra mà không làm trò cười cho người ta. Cô thấu hiểu sâu sắc đạo lý này, cho nên cùng với việc học từ vựng, cô cũng đôn đốc chúng tôi luyện viết và luyện nói. Ban đầu tôi vẫn cho rằng, để có thể viết được một bài văn tiếng Anh súc tích và ý nghĩa hoặc có thể nói tiếng Anh trôi chảy mượt mà và không vấp váp chút nào giống như cô giáo Trịnh hay cô giáo Ngô thời cấp II là một việc vô cùng khó. Vì vậy, tôi quyết định, để mình cũng trở nên lợi hại như hai cô giáo, tôi nhất định phải rèn luyện bản lĩnh tiếng Anh đạt đến trình độ “đặt bút như có thần” và “xuất khẩu thành thơ”.
Mới đầu, tôi rất phiền muộn về việc luyện viết, vì mỗi lần đặt bút viết, tôi đều cảm thấy miễn cưỡng, gượng gạo, lúc thì tôi không muốn viết, lúc thì tôi không biết viết thế nào. Do bị chi phối bởi tâm trạng, nên kế hoạch viết lách của tôi cũng bị trì hoãn một thời gian dài. Về sau, tôi và Cá Béo Ướp Muối nghĩ, chúng tôi đã dùng cơ chế giám sát lẫn nhau để học thuộc từ vựng, vậy thì tại sao không thử vận dụng cơ chế này vào phương diện rèn luyện kỹ năng viết? Và thế là, hai đứa tôi bắt đầu thực hiện kế hoạch viết văn: Mỗi ngày viết một đoạn văn ngắn khoảng hai trăm chữ trong thời gian quy định, chủ đề tự chọn, có thể viết tin tức thời sự, cũng có thể miêu tả cuộc sống. Ai không hoàn tất bài viết sẽ phải mời đối phương ăn cơm. Khi quy định này được đưa ra, hai đứa tôi lại bắt đầu hoạt động điên cuồng trong vòng quay mới.
Cô giáo Trịnh hướng dẫn chúng tôi: Yêu cầu cơ bản nhất của một bài văn tiếng Anh hay là phải có kết cấu hoàn chỉnh. Phần mở bài phải đưa ra được tư tưởng trọng tâm của cả bài thông qua một câu văn nòng cốt. Mỗi một đoạn luận điểm trong phần thân bài đều phải triển khai rõ ràng, mạch lạc các luận điểm bộ phận, luận chứng, luận cứ và câu chủ đề. Phần kết bài cần nhắc lại một lần nữa trọng tâm của cả bài, và cũng có thể viết mở rộng. Nghe vậy, trong lòng tôi cảm thấy bối rối khó hiểu: “Đây chẳng phải là ba yếu tố cấu thành một bài văn nghị luận trước đây mình từng học trong môn Ngữ văn ư? Sao văn chương tiếng Anh cũng phải viết như thế nhỉ?” Ban đầu tôi cảm thấy kết cấu này chặt chẽ nhưng có vẻ quá cứng nhắc, nên không muốn viết. Cô giáo khuyến khích chúng tôi đọc nhiều bài viết trên một số báo và tạp chí Anh văn, thưởng thức cái gọi là văn bát cổ trong tiếng Anh. Tôi chạy ra tiệm internet đọc mấy bài viết trên trang The New York Times (Thời báo New York), phát hiện ra ngôn ngữ viết của tác giả rất dí dỏm hài hước, hành văn lưu loát uyển chuyển, có cảm giác như mây bay nước chảy, nhưng đến khi tìm hiểu kỹ, thì tôi nhận thấy, quả thật khung xương của bài báo tuân theo kết cấu cô giáo nói.
Từ đó, tôi tuyên bố, muốn đạt được đến trình độ đặt bút viết như có thần giúp, mình phải bắt đầu từ việc nắm vững kết cấu bài văn. Khi có giàn khung tốt rồi, nhìn vào “hình thức bên ngoài” của bài văn, người đọc sẽ cảm thấy ưng mắt, họ dễ dàng nhận ra tư tưởng của người viết thể hiện qua bài văn đó. Nếu bài văn không có kết cấu chặt chẽ, không có đầu không có cuối, câu cú rời rạc, luận chứng, luận cứ không bổ sung cho nhau, thì dẫu người đọc đọc đi đọc lại bao nhiêu lần cũng vẫn cảm thấy lùng nhùng, không hiểu “mô tê” gì cả. Bấy giờ khẩu hiệu của chúng tôi là: Trước hết phải viết được một bài văn có kết cấu hoàn chỉnh, không cần biết câu từ có bóng bảy hay không, luận chứng có mới mẻ hay không, vì sau khi viết xong chúng ta vẫn có thể sửa chữa, bổ sung mà! Hưởng ứng khẩu hiệu của mình, tôi và Cá Béo Ướp Muối bắt đầu đặt bút viết. Mấy bài đầu chúng tôi viết như cơm nguội, bài văn chỉ có mỗi bộ khung cứng nhắc, viết xong ngay đến bản thân mình còn chẳng buồn đọc lại. Nhưng càng về sau, nhờ luyện tập không ngừng, chúng tôi có thể viết ra những bài văn mà bản thân mình cảm thấy chấp nhận được, thậm chí còn hơi hài lòng.
Khi viết văn, tôi không quên nhắc nhở bản thân mình phải vận dụng tối đa những từ mới đã học vào bài viết, vì tôi thường nhớ rất kỹ mỗi từ vựng mình từng sử dụng qua. Ngoài ra, mỗi lần viết bài xong, tôi và Cá Béo Ướp Muối lại ngồi sửa bài cho nhau, chỉ ra lỗi sai của đối phương và góp ý xây dựng. Tôi học được rất nhiều quan điểm và góc độ khác nhau trong việc nhìn nhận, phân tích sự việc từ bài viết của Cá Béo Ướp Muối, ngược lại Cá Béo Ướp Muối cũng học được rất nhiều cách diễn đạt và phương thức cấu tạo câu tiếng Anh trong bài viết của tôi. Chúng tôi kiên trì luyện viết như vậy trong vòng nửa năm. Khi chưa luyện tập, chúng tôi chẳng biết gì, đến khi luyện tập đã vỡ vạc ra nhiều thứ, kết quả mang lại cũng khác. Về sau, mỗi lần thi môn viết, tuy chúng tôi chưa đạt tới mức “đặt bút như có thần”, nhưng ít nhất cũng là “đặt bút có nửa thần”, chúng tôi cấu tứ, viết văn, hoàn thành bài viết, rồi nộp bài một cách nhanh chóng, và đạt điểm số rất cao.
So với luyện viết, luyện nói là một quá trình tương đối gian nan và khó xử. Cô giáo Trịnh dạy chúng tôi: Không có đường tắt giúp nâng cao kỹ năng nói, các bạn chỉ còn cách dũng cảm mở miệng nói thôi. Ban đầu tôi và Cá Béo Ướp Muối rất ngại nói, mỗi khi chúng tôi quyết định bắt đầu nói tiếng Anh từ giây phút này, thì y như rằng một giây sau chúng tôi lại im thin thít, phần vì không biết phải nói những gì, phần vì sợ mình nói sai. Về sau cô giáo gợi ý chúng tôi nên bắt đầu luyện nói từ một việc đơn giản như thuật lại cuộc sống hàng ngày. Vì thế, chúng tôi bắt đầu thử dùng tiếng Anh miêu tả một ngày của mình cho đối phương nghe, ví dụ như nói vào buổi sáng, buổi trưa và buổi tối, bạn làm những việc gì, lên lớp học những bài nào, gặp những ai, học được những kiến thức mới nào và có những cảm nhận mới gì…Vì hàng ngày, tôi và Cá Béo Ướp Muối đều đi học và tự học cùng nhau, nên nội dung câu chuyện cũng từa tựa như nhau, nhờ vậy chúng tôi có thể biết rõ những điều đối phương nói có chính xác và đầy đủ hay không. Khi không biết diễn đạt ý mình muốn nói bằng tiếng Anh như thế nào hoặc khi mắc lỗi sai về ngữ pháp khẩu ngữ, chúng tôi sẽ chỉ ra lỗi sai cho đối phương và cùng nhau giải quyết khó khăn. Trong trường hợp cả hai đứa đều không biết diễn đạt thế nào, chúng tôi sẽ cắm cúi tra từ điển, học cách diễn đạt mới, rồi viết nó vào cuốn sổ tay, đặt nhiều câu bằng cách diễn đạt mới để ghi nhớ sâu hơn. Dùng khẩu ngữ thuật lại cuộc sống một ngày của mình có vẻ là một việc rất đơn giản, thậm chí còn hơi máy móc, nhưng theo tôi, đây là một phương pháp tốt dành cho những người mới bắt đầu luyện nói, vì bạn không cần phải quá lo lắng đến chuyện không biết nói gì, bạn hoàn toàn có thể sử dụng khẩu ngữ tiếng Anh diễn đạt những chi tiết đơn giản, như: “Hôm nay tôi thức dậy lúc bảy giờ sáng, sau khi đánh răng rửa mặt xong, tôi vội vã đi tới trường.”
Đến khi chúng tôi có thể diễn tả cuộc sống hàng ngày một cách thuần thục, thì bước tiếp theo là thử sử dụng khẩu ngữ hình dung về một sự vật hay một nhân vật. Bước thứ hai không giống với bước thứ nhất ở chỗ, chúng tôi phải tự vắt óc suy nghĩ, nhớ lại tất cả những hình dung từ mà mình từng học trước đó. Chúng tôi đưa ra cho đối phương một chủ đề, ví dụ: “Bạn hãy miêu tả mẹ của bạn là một người như thế nào?”, “Bạn hãy hình dung sân trường đại học của chúng ta là nơi như thế nào?”, “Bạn hãy hình dung về người mà bạn thần tượng nhất”… Chúng tôi còn yêu cầu đối phương đưa ra ví dụ trong quá trình nói, ví dụ như: “Bạn hãy đưa ra ví dụ chứng minh vì sao bạn cho rằng mẹ của bạn là một người thầy vĩ đại”, “Bạn hãy đưa ra ví dụ chứng minh vì sao bạn cho rằng bà ấy rất biết quan tâm đến người khác”… Luyện nói đến bước này là tương đối khó, vì muốn hình dung đầy đủ về một sự việc nào đó, bạn buộc phải nắm vững một lượng từ vựng nhất định. Lúc này, tôi mới nhận thức sâu sắc rằng, những từ vựng mình từng học trước đây toàn là từ “chết”, bởi vì tôi không thể sử dụng chúng một cách linh hoạt vào những phút quan trọng. Phương pháp giải quyết vấn đề này của tôi là, vừa tra cứu vừa sử dụng, vừa sử dụng vừa ghi nhớ, nhớ rồi thuộc và sau khi sử dụng đi sử dụng lại nhiều lần thì sẽ ghi nhớ kỹ hơn. Đơn cử như khi tôi hình dung mẹ của tôi là một người phụ nữ “thanh lịch, bình thản, quả quyết, kiên định”, nhưng ban đầu tôi không biết một hình dung từ tiếng Anh nào trong mấy từ này. Vì vậy tôi bắt đầu mở từ điển ra tra cứu, tìm được mấy từ là “gracious, even-tempered, resolute, steadfast”. Thật ra, trước đây tôi cũng học thuộc mấy từ này rồi, nhưng đến khi nói khẩu ngữ, tôi lại chẳng thể nhớ ra để sử dụng. Bởi vậy, tôi nhanh chóng viết chúng vào cuốn sổ tay, mỗi lần nói đến mẹ của mình, tôi luôn có ý thức sử dụng chúng, càng sử dụng càng yêu thích, càng sử dụng càng thành thạo. Dần dần, qua quá trình tích lũy không ngừng và sử dụng đi sử dụng lại nhiều lần, càng ngày càng có nhiều từ “chết” được “sống lại”. Từ đơn hay từ ghép cũng đều như vậy.
Khi nói tiếng Anh trở thành thói quen sinh hoạt, chúng tôi không còn cảm thấy lo lắng như trước đây nữa. Bất kể đi tới xó xỉnh nào trong trường, tôi và Cá Béo Ướp Muối cũng đều nói chuyện oang oang bằng tiếng Anh, chúng tôi coi mỗi một lần đối thoại là một cơ hội tốt để luyện nói. Tôi nhớ có một lần đi dạo phố, hai đứa tôi cũng nói tiếng Anh ở trong trung tâm mua sắm, bình phẩm xem bộ quần áo nào đó có đẹp hay không, đôi giày nào đó có xinh hay không. Nhân viên bán hàng dùng tiếng Trung hỏi chúng tôi có cần giúp đỡ gì không, chúng tôi giả bộ không hiểu, đáp lại người ta: “Sorry, we don’t speak Chinese.” Nhân viên bán hàng nghe xong, quay người chạy mất.
Do hồi cấp II học tiếng Anh, cô giáo Ngô dạy rất giỏi về mặt ký âm và phát âm, nên lúc này tôi không phải lo lắng vấn đề phát âm như thế nào, mà chỉ canh cánh nỗi lo ngữ điệu. Năm thứ nhất cùng Cá Béo Ướp Muối luyện nói, tôi luôn tập trung cao độ, nên cũng không mất nhiều thời gian điều chỉnh ngữ điệu của mình, tôi chỉ mong nhanh chóng nâng cao kỹ năng nói, ít nhất cũng phải đạt tới trình độ không gặp trở ngại trong giao tiếp hàng ngày hay diễn đạt quan điểm cá nhân. Vì học kỳ II năm thứ nhất, tôi kiên trì luyện khẩu ngữ mỗi ngày, cộng thêm việc sử dụng tiếng Anh trong toàn bộ chương trình học của khoa, nên hơn nửa năm sau, kỹ năng nói của tôi được cải thiện rất nhiều, tôi không còn nói ngắc nga ngắc ngứ, ậm à ậm ừ nữa, trái lại còn có chút cảm giác “xuất khẩu thành nửa bài”.
“Chuyến đi đả kích ước mơ”
Vào kỳ nghỉ hè sau khi kết thúc năm học thứ nhất, để tiến thêm một bước trong việc luyện nói và cũng là để ra ngoài thăm thú thế giới rộng lớn này, tôi với Cá Béo Ướp Muối cùng bậc thầy ngôn ngữ cùng nhau đăng ký một lớp luyện nói tiếng Anh của Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới ở Bắc Kinh. Chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ cho lớp luyện nói lần này. Vì lúc đó tôi và Cá Béo Ướp Muối luyện nói quá hăng say, lại có chút “tiếng tăm” trong khoa, mỗi khi nhắc đến chúng tôi, mọi người đều nói: “Chính là hai bạn đi đến đâu cũng nói tiếng Anh sang sảng sang sảng đấy…” Cho nên chúng tôi mặc nhiên nghĩ rằng mình rất giỏi, trước khi đi Bắc Kinh học, trong lòng chúng tôi đều âm thầm hy vọng mình có thể tỏa sáng ở lớp luyện nói.
Đó là lần đầu tiên tôi và Cá Béo Ướp Muối cùng đi Bắc Kinh một mình, ước mơ đến nơi khác học của chúng tôi ngày trước đều chưa trở thành hiện thực, nên chuyến đi lần này coi như là “chuyến đi thực hiện ước mơ”. Lúc ngồi trên tàu hỏa, hai đứa tôi rất phấn chấn tinh thần, gặp ai cũng nói chúng tôi đang đi Bắc Kinh học. Chúng tôi đến Bắc Kinh vào đúng “ngày xông hơi” trong mùa hè ở đây – nắng nóng lên đến đỉnh điểm. Cả người nhễ nhại mồ hôi, nhưng dường như hai đứa không cảm thấy nóng, cũng chẳng cảm thấy mệt, hăm hở đeo chiếc ba lô to đùng đoàng bước lên chuyến xe bus đưa thẳng đến nơi cần đến. Những lần trước đến Bắc Kinh, chúng tôi đều đi theo bố mẹ, nên chẳng phải lo chuyện ăn ở, vì đã có bố mẹ lo hết rồi. Lần này chúng tôi tự đi, chưa có kinh nghiệm gì, đến nơi mới bắt đầu tìm chỗ ở. Thật may mắn, lúc chúng tôi đến căn nhà cho thuê nằm đối diện với Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới đang còn một phòng trống, nên chúng tôi thuê luôn. Buổi tối đầu tiên ở đây, chúng tôi đi thám thính địa hình, đứng ở trước Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới, chúng tôi ngẩng đầu lên nhìn trường trong lòng vô cùng ngưỡng mộ, thầm nghĩ: Bọn mình chính thức bắt đầu “chuyến đi thực hiện ước mơ” trong tâm tưởng.
Sáng ngày hôm sau lên lớp, lúc nào chúng tôi cũng ở trong trạng thái căng thẳng, kích động. Giảng viên tràn đầy nhiệt huyết, dùng tiếng Anh giới thiệu về mình, ngôn ngữ nói dí dỏm hài hước làm cho đám sinh viên ở dưới cười rầm rộ. Trong giờ giao lưu tương tác, các bạn lần lượt đứng lên trên bục giảng phát biểu, từng người từng người một đều nói giọng Mỹ hoặc giọng Anh chuẩn. Bọn họ nói lưu loát, nhưng cũng không thiếu vẻ hài hước, ngữ âm phong phú, ngữ điệu trầm bổng, thầy giáo hết lời khen ngợi. Tôi bỗng nhiên trở nên nhút nhát, rút vội cánh tay nãy giờ vẫn giơ lên, hỏi nhỏ Cá Béo Ướp Muối: “Sao những bạn này đều nói tiếng Anh giỏi thế nhỉ? Hình như bọn họ đều học chuyên ngành tiếng Anh thì phải?” Sau tiết học, chúng tôi hỏi thăm mọi người mới biết, thì ra bọn họ đều không phải là dân chuyên ngành tiếng Anh, hầu hết là sinh viên chuyên ngành vật lý, hóa học hoặc công nghệ thông tin. Chúng tôi bị đả kích vì bọn họ không phải là sinh viên chuyên ngành tiếng Anh nhưng còn nói tiếng Anh giỏi hơn cả những sinh viên chuyên ngành tiếng Anh như chúng tôi. Trong tích tắc “chuyến đi thực hiện ước mơ” lần này biến thành “chuyến đi đả kích ước mơ”.
Chuyến đi tới lớp luyện nói ở Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới lần đó để lại trong tôi nhiều cảm xúc sâu sắc, tôi không những được mở mang tầm mắt, mà còn quen được rất nhiều người thực sự tài giỏi, trong đó có những thầy cô giáo và các bạn cùng lớp. Gặp người giỏi thực sự, tôi mới hiểu: Thì ra đứng thứ nhất, có chút tiếng tăm gì gì đó đều là phù vân, người thực sự giỏi đang ở bên ngoài kia kìa. Trên đường từ Bắc Kinh trở về, tôi rất phiền não, trong đầu cứ miên man suy nghĩ: Trên đời có nhiều người giỏi như thế, cho dù mình nỗ lực thế nào cũng chẳng thể vượt qua được, vì bọn họ quả thật quá giỏi, quá mạnh. Những tế bào muốn buông xuôi mỗi khi chịu đả kích của tôi hồi nhỏ lại bắt đầu hoạt động. Đúng lúc này, Cá Béo Ướp Muối đưa ra một chân lý lớn, bạn ấy nói: “Bọn mình không nên nản chí, vì ‘nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên’. Bọn mình không giỏi hơn người khác, nhưng bọn mình phải giỏi hơn chính mình. Mặc dù bọn mình vẫn còn kém xa những người tài giỏi, nhưng so với chính bản thân bọn mình thì chẳng phải bây giờ bọn mình đã tiến bộ hơn một năm trước rất nhiều rồi sao!”
Tôi bỗng nhiên tỉnh ngộ. Trước đây, hễ gặp khó khăn và đả kích là tôi lại muốn buông xuôi, vì tôi cảm thấy mình đã cố gắng, nỗ lực nhưng rốt cuộc vẫn chẳng bằng người khác, nên tôi chán nản thất vọng, không muốn thử lại lần nữa. Nhưng, cách nghĩ như vậy thật là sai lầm, vì tôi của ngày hôm nay tốt hơn tôi của ngày hôm qua, chứ không nên đem mình so sánh với người khác. Chuyện tôi cần phải học tập người xuất sắc không có gì là sai, nhưng vì tôi và người xuất sắc không có cùng điểm xuất phát, không có cùng phương pháp học tập và cũng không có cùng khả năng, nên tôi không việc gì phải chán nản, thậm chí là mất hết niềm tin vào bản thân mình. Tôi cần phải kiên cường, vượt qua thất bại, một lần không được thì thử lần thứ hai, hai lần không được thì thử lần thứ ba, chỉ cần tiếp tục kiên trì thì tôi sẽ từ từ tiến bộ qua thời gian tích lũy.
Sau khi nghĩ thông tỏ đạo lý này, tôi trở nên tươi tỉnh. Tôi rất biết ơn quá trình học tập ở Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới, biết ơn “chuyến đi đả kích ước mơ” lần đó. Khi bạn có thành tựu nhỏ, sự đả kích ở một mức độ vừa phải có thể giúp bạn nhìn nhận rõ bản thân, đồng thời giúp bạn hiểu rõ hai đạo lý: Một là, phấn đấu là để cho mình trưởng thành, để cho mình trở nên lớn mạnh, chứ không phải là để đi so bì với người khác. Hai là, con đường phấn đấu là con đường không có điểm kết thúc.
Cám ơn năm 2003
Vì học hành nghiêm túc, chăm chỉ nên tôi đã hoàn thành được kế hoạch tự học mà mình đã đề ra ban đầu. Trong học kỳ I năm thứ nhất, tôi tự học hết giáo trình Extensive Reading và Intensive Reading của bốn năm đại học; sang học kỳ II năm thứ nhất, tôi học thuộc toàn bộ từ vựng tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, và còn tạo ra một bước đột phá không nhỏ trên phương diện viết và nói. Vậy là trong năm học thứ nhất, lượng từ vựng của tôi tăng bảy, tám nghìn từ. Trong hai kỳ thi cuối kỳ của năm học, tôi đều đứng thứ nhất toàn khoa – việc chưa từng xảy ra. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhận học bổng loại I, số tiền không nhiều nhưng cũng đủ làm tôi vui mừng đến nỗi suốt đêm không ngủ được. Tôi đưa tiền học bổng cho mẹ như một lời cảm ơn bà. Mẹ bảo tôi, đây là sự đền đáp cho những gì tôi đã bỏ ra, vì năm thứ nhất đại học là lần đầu tiên trong lịch sử tôi học hành nghiêm chỉnh, và thật sự hiểu được ý nghĩa của việc học và phấn đấu, cảm nhận được cảm giác thành công sau những gì mình bỏ ra.
Lúc đó, tôi càng cảm nhận sâu sắc hơn, từ khi bước sang tuổi mười tám, tôi đã là người trưởng thành, điều đó có nghĩa là kể từ đây, tôi phải biết chịu trách nhiệm cho cuộc đời của mình. Làm bất cứ việc gì cũng đều phải gánh chịu hậu quả – hoặc tốt hoặc xấu của nó. Bao nhiêu năm qua, tôi mải mê chơi bời, coi thường việc học, hậu quả là trong kỳ thi đại học, tôi không thể thi đỗ vào ngôi trường đại học mà mình ao ước giống như những người bạn học của mình, đó là cái giá phải trả cho việc làm của tôi. Mẹ luôn nói với tôi, khi sự việc không được như ý muốn, trước hết tôi phải kiểm điểm bản thân, chứ không được trách cứ người khác, oán trách hoàn cảnh một cách mù quáng. Lúc này, tôi bắt đầu xem xét lại bản thân mình trong mười tám năm qua.
Trước đây, mỗi khi không đạt kết quả tốt trong thi cử, tôi thường trách thầy cô dạy không tốt, trách các bạn khác làm ảnh hưởng đến mình trong giờ học, trách đề thi quá khó, quá lệch, trước sau tôi chưa bao giờ suy nghĩ xem liệu đó có phải là do bản thân mình làm chưa đúng hay không. Trước đây, tôi biết rõ mình nên làm gì, nhưng tôi luôn tìm đủ lý do chống đỡ, hoặc là lần lữa không muốn bắt tay vào làm, hoặc là làm qua quýt cho xong. Trước đây, tôi chưa bao giờ tính toán, lên kế hoạch cho tương lai, hàng ngày đều mang thái độ hưởng lạc, sống ngày nào hay ngày ấy, cho dù vào lúc cần kíp, miễn cưỡng phải sắp xếp một kế hoạch học tập, thì tôi cũng coi bản kế hoạch như tờ giấy loại. Trước đây, tôi cũng nói những câu đại loại như “Con xin thề với trời, từ nay về sau con nhất định sẽ…” hết lần này đến lần khác, nhưng ngay ngày hôm sau, tôi lại trơ mặt, quẳng lời thề thốt đi, tiếp tục chơi bời.
Một loạt những thất bại trong quá khứ, cuối cùng cũng khiến tôi tỉnh ngộ. Sự xuất hiện của cô giáo Trịnh giúp tôi tiến thêm một bước trong việc nhìn nhận phương hướng học tập của mình, hiểu được ý nghĩa của phấn đấu. Lần đầu tiên tôi thấu hiểu triệt để, mình cần phải lên kế hoạch học tập, càng cần phải lên kế hoạch cho cuộc đời. Rốt cuộc tôi cũng hiểu ra một đạo lý đơn giản: Không được nói những lời không đứng đắn. Mình đã hứa với bản thân mình thì phải thực hiện bằng được. Nếu mình không thể thực hiện được lời hứa với chính mình, thì sau này làm sao có thể khiến người khác tin tưởng?
Vì vậy, tôi từ từ thử lập kế hoạch cho cuộc sống của mình: Mấy giờ thức dậy, mấy giờ đi ngủ, mấy giờ học từ vựng, mấy giờ đọc sách, hôm nay cần phải hoàn thành nhiệm vụ học hành nào, tuần này cần phải học xong những bài nào, tháng này cần phải học thuộc bao nhiêu từ vựng… Tôi từ từ rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch từ những kế hoạch nhỏ đó. Sau khi có kế hoạch sơ bộ, tôi bắt đầu cuộc sống “quân sự hóa”: Mỗi sáng tôi đi tới trường khi những tia nắng đầu tiên chiếu xuống lòng đường, và buổi tối tôi trở về ký túc xá khi trăng đã lên cao. Dần dần tôi tìm được cảm giác vững chãi và cảm giác thỏa mãn trong học tập. Do trước đây tôi không chịu khó phấn đấu, nên bây giờ tôi không dám bỏ hai chữ “phấn đấu” ở sau, cũng không dám nói mà không giữ lời, không dám coi kế hoạch là tờ giấy loại.
Sau này nhìn lại cuộc sống năm thứ nhất trên trang blog, tôi bình luận: “Lúc chân ướt chân ráo bước vào đại học, tôi giống như cô nhóc vừa mới thò đầu ra thế giới bên ngoài, thấy cái gì cũng đều mới lạ. Tôi thoát khỏi cơn ác mộng của một học sinh dốt, bắt đầu lập chí làm một sinh viên giỏi. Để đạt được thành công, tôi quyết định phấn đấu thực sự từ ngôi trường bình thường, chẳng có tên tuổi này. Mặc dù những thành tựu tôi đạt được chưa có gì nổi bật, song đây là một năm thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi. Vì vậy, tôi phải cảm ơn năm 2003.”
GHI CHÚ NHỎ
Về học thuộc từ vựng
Có rất nhiều phương pháp học thuộc từ vựng khác nhau. Có người thích dùng phương pháp chép lại từ vựng, ví dụ như cô giáo Ngô thời cấp II từng áp dụng phương pháp Fifty times giúp chúng tôi đạt hiệu quả trong việc học thuộc từ vựng. Bên cạnh đó, cũng có người thích học thuộc từ vựng thông qua phương pháp đọc hiểu, tức là viết ra những từ vựng mà bạn không biết khi đọc bài, điều này giúp bạn vừa học được từ mới, vừa hiểu rõ cách dùng dựa vào ngữ cảnh trong bài. Qua những trải nghiệm thực tiễn và đối chiếu so sánh trong một thời gian dài, tôi mới tìm ra phương pháp học thuộc từ vựng phù hợp nhất với mình. Tôi cho rằng, tất cả các phương pháp học thuộc từ vựng đều không có ranh giới rạch ròi phân biệt đâu là phương pháp tốt, đâu là phương pháp tồi hay đâu là phương pháp đạt hiệu quả cao, hiệu quả thấp. Để xem xét một phương pháp học tập nào đó có tốt hay không, chủ yếu là chúng ta phải xem nó được áp dụng với người nào. Mỗi người đều có thói quen học tập khác nhau, chỉ cần bạn tìm ra phương pháp học thuộc từ vựng phù hợp với bản thân mình, và kiên trì đi theo nó, thì đó sẽ là phương pháp học từ vựng tốt nhất. Còn nếu bạn không kiên trì, thì dẫu có phương pháp học từ vựng tốt tới đâu cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì.
Kiên trì và dao động vào năm thứ hai đại học
Cho tới năm thứ hai đại học, tôi vẫn không dám rời chân khỏi con đường phấn đấu. Sau khi nếm trải đả kích trong kỳ nghỉ hè, tôi càng nhắc nhở bản thân mình phải có thái độ học tập thật sự nghiêm túc, phải thử thay đổi dần dần những thói hư tật xấu của mình thuở nhỏ, không được đắc ý quên hình, cũng không được tự ti mặc cảm, mà phải nỗ lực hết mình, không tính toán thiệt hơn. Con đường phấn đấu sau này vẫn còn rất dài, nếu không có một quyết tâm lớn lao, thì làm sao có thể kiên trì đến cùng.
Đối với sinh viên chuyên ngành tiếng Anh, kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 (TEM-4) là một trạm kiểm soát quan trọng đầu tiên trong trường đại học. Kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 diễn ra vào tháng Tư, học kỳ II năm thứ hai. Vì “kẻ thù lớn” đang ở trước mặt, nên tôi chẳng dám học hành chểnh mảng. Bắt đầu vào học kỳ I năm thứ hai, tôi đã xác định cho mình một mục tiêu rõ ràng: Phải đạt hạng “ưu” (từ 80 điểm trở lên) trong kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4.
Giống như trước đây, tôi và Cá Béo Ướp Muối lại đi hỏi cô giáo Trịnh kỹ xảo “diệt rồng”. Cô nói rõ quan điểm: “Không có kỹ xảo, cũng không có đường tắt, các bạn nghiên cứu đề thi các năm trước là được rồi.” Nghe cô giáo nói vậy, chúng tôi liền chạy tới hiệu sách mua tuyển tập đề thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 của các năm. Cô dạy chúng tôi: Phương pháp giành điểm cao trong các kỳ thi là phân tích cấu trúc đề thi, xem đề “khoanh vùng” những nội dung nào, đánh giá độ khó, sau đó giải quyết từng phần của đề thi. Nghe lời cô, trước tiên, tôi dành mấy tiếng đồng hồ làm một đề thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 cũ nhất mà không tính đếm thời gian. Sau khi làm xong, tôi nhận thấy phần nghe và phần đọc tương đối khó đối với mình, vì vậy tôi quyết định tập trung sức lực vào hai phần thi làm tôi bị mất nhiều điểm nhất đó.
Sau khi đề ra kế hoạch ôn tập sơ bộ, tôi lại chạy đến hiệu sách mua tài liệu ôn tập. Trong hiệu sách bày la liệt các thể loại tài liệu ôn tập tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 với những cái title câu khách, nào là “Cuốn sách duy nhất được tổ chuyên gia tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 giới thiệu”, nào là “Vượt qua kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4”. Tôi nhấc cuốn này lên đặt cuốn kia xuống, đắn đo không biết chọn cuốn nào thì hơn. Đúng lúc đó, đột nhiên tôi nhớ ra một câu chuyện kể về một học sinh nghèo ở vùng sâu vùng xa, không mua được tài liệu ôn thi đại học, hàng ngày bạn ấy học đi học lại cuốn sách giáo khoa mà mình có cho đến khi thuộc nhuần nhuyễn các kiến thức trong đó, và cuối cùng bạn ấy đã thi đỗ một trường đại học xuất sắc dựa vào chính những kiến thức bạn ấy học được từ cuốn sách đó.
Nghĩ đến đây, tôi cho rằng, có lẽ việc lựa chọn cụ thể một cuốn sách ôn tập là cuốn này hay cuốn kia cũng không có tính quyết định đến sự thành bại của kỳ thi, mà quan trọng là mình cần phải nắm được tinh thần của cuốn sách, làm hết các bài tập, hiểu tại sao mình làm đúng cũng như làm sai. Nếu không nghiên cứu sách vở kỹ càng, thì dẫu có mua tới mười cuốn sách ôn tập, nổi hứng làm mỗi chỗ một ít rồi ném sang một bên, cũng chẳng có tác dụng gì nhiều. Nói tóm lại một câu, tài liệu ôn thi “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Tôi quả quyết chọn sách luyện thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 của Nhà xuất bản Giáo dục Ngoại ngữ Thượng Hải. Tôi chọn bộ sách này vì kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 do trường Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải ra đề, lúc đó tôi cho rằng tập đề thi của họ xuất bản sẽ có hiệu quả hơn chút ít (đây đơn thuần là ý kiến chủ quan của tôi).
Luyện nghe như thế này
Phần thi đầu tiên và cũng là phần thi chiếm điểm số rất lớn trong kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 là thi nghe, vì vậy tôi đặt trọng tâm của kế hoạch ôn tập vào phần nghe. Trước đây, tôi chưa bao giờ luyện nghe một cách hệ thống, hồi cấp II, cấp III chúng tôi cũng có giờ luyện nghe trên phòng máy, tuy nhiên mỗi lần lên lớp, các bạn đều chăm chú luyện nghe, còn tôi lúi húi chơi điện tử bên dưới, nên không có tiến bộ gì. Sau này, tôi luyện nghe dưới hình thức xem phim Mỹ cùng mẹ. Nhưng, thật ra, cách làm đó cũng không hẳn là luyện tập, mà chỉ là mưa dầm thấm đất. Bởi vậy, có thể nói, tôi bắt đầu luyện nghe một cách hệ thống từ khi chuẩn bị cho kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 vào năm thứ hai đại học.
Tôi cũng chưa bao giờ làm quen với bài nghe tin tức trong phần thi nghe của kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, nên đương nhiên phải coi đây là một phần quan trọng trong những phần quan trọng cần công phá. Tôi và Cá Béo Ướp Muối quyết định bắt đầu nghe tin tức trên đài phát thanh nước ngoài từ đây. Lúc đó, chúng tôi chưa có đài xịn như bây giờ, chiếc đài loại nhỏ chúng tôi đang sử dụng thu nhiều tạp âm của các chương trình phát thanh trong nước. Vì thế, hai đứa tôi quyết định ra cửa hiệu mua một cái đài tử tế có thể thu được các kênh nước ngoài. Hai đứa xăm xắn bước vào cửa hiệu, cảm giác như mình đang chấp hành nhiệm vụ, rồi hướng đến khu vực bán đài, trực tiếp hỏi nhân viên bán hàng: “Bọn em muốn nghe chương trình phát thanh nước ngoài, ví dụ như kênh VOA, BBC, thì nên mua loại đài nào?”Nhân viên bán hàng giới thiệu cho chúng tôi hai chiếc đài được sản xuất từ Đức, một chiếc nhỏ gọn, tinh xảo, còn một chiếc to như cục gạch. Chúng tôi hỏi về điểm khác biệt giữa hai chiếc đài, nhân viên bán hàng cho biết, một chiếc tiện mang đi mang lại nhưng tín hiệu nghe đài không rõ, một chiếc bắt tín hiệu rất rõ nhưng không tiện mang theo, vả lại không đẹp mắt nữa. Tôi nghĩ bụng: Đã đến thời khắc quan trọng này rồi, thì còn cần gì đẹp? Vì thế, chúng tôi cắn răng mua hai cái đài to như cục gạch đó về. Đấy là lần đầu tiên tôi đầu tư cho việc học nhiều tiền đến thế.
Sau khi có đài trong tay, tôi nhanh chóng dò băng tần và thời gian phát sóng của kênh VOA, tôi phát hiện ra VOA phát chương trình thời sự bắt đầu từ sáu giờ đến tám giờ sáng hàng ngày. Vì vậy, tôi và Cá Béo Ướp Muối hẹn nhau cùng luyện nghe vào sáu giờ sáng hàng ngày. Mấy ngày đầu, mới sớm ra tôi chẳng thể nào bò dậy, uể oải ngó đầu nhìn ra ngoài cửa sổ thấy bên ngoài là một mảng màu tối đen như mực, thời tiết mùa đông lạnh đến đông cứng. Thế rồi tôi lại chui vào trong chăn, nhẩm tính: “Có chăn ấm đệm êm chẳng nằm, lại còn muốn chạy đi luyện nghe trong gió rét? Thế chẳng phải là mi tự chuốc lấy phiền phức ư? Cứ ngủ nướng cái đã…” Mỗi lần như vậy, trong tôi lại vang lên một giọng nói khác gắt lên: “Mi còn muốn ngủ nướng ư? Kế hoạch mà mi đã đề ra lại sắp biến thành tờ giấy loại rồi? Mi nói mà không giữ lời? Muốn ngủ nướng ư? Đợi sau này mi chết đi rồi, thì tha hồ mà ngủ! Còn nhiệm vụ của ngày hôm nay bắt buộc phải hoàn thành trong ngày hôm nay! Mau dậy đi!” Nghĩ đến đây, tôi liền nhảy “phịch” xuống giường, vội vàng đánh răng rửa mặt, thu dọn cặp sách, ôm đài xuống dưới tầng.
Mới đầu nghe chương trình phát thanh, tâm trạng của tôi rất buồn bực, bởi vì tôi không nghe được một câu nào hoàn chỉnh. Phát thanh viên nói quá nhanh, tôi chỉ nghe ra một vài từ, và suy đoán nội dung bản tin qua chuỗi từ vựng đó. Sau một tuần, không có tiến triển gì. Tôi rầu rĩ hỏi Cá Béo Ướp Muối: “Cậu nghe có hiểu gì không? Tớ chẳng hiểu người ta nói cái gì? Phát thanh viên nói như bắn súng liên thanh ý, ngay cả ngắt nghỉ cũng không có.” Tình trạng của Cá Béo Ướp Muối cũng không hơn gì tôi. Hai đứa vác bộ mặt thiểu não tới hỏi cô giáo. Cô nói: “Các bạn không những phải nghe bằng trái tim mà còn phải kiên trì nghe, dần dần sẽ hiểu.” Tôi ấm ức: “Lần nào cô giáo cũng bảo là phải kiên trì, nhưng mình chẳng có chút tiến triển nào, rốt cuộc phải kiên trì bao lâu nữa đây?”
Sau đó, tôi chạy tới chỗ bậc thầy ngôn ngữ than thở, ngày nào tôi cũng luyện nghe, vậy mà nghe vẫn không hiểu. Bậc thầy ngôn ngữ hỏi tôi: “Cậu luyện nghe được bao lâu rồi?” Tôi đáp: “Hơn một tuần rồi còn gì.” Cậu ta tỏ ra coi thường tôi: “Vừa mới nghe được hơn một tuần mà cậu đã mơ tưởng cao xa, mong hiểu hết lời người ta nói? Không phải cậu xuất hiện ảo giác đấy chứ? Nghe không hiểu là bình thường, còn nghe mà hiểu được mới là bất bình thường đấy. Nếu bây giờ cậu nghe hiểu hết lời người ta nói, thì còn cần luyện tập làm gì nữa?” Quả là một câu nói đánh thức người trong mộng! Bây giờ nghe không hiểu, chứng tỏ tôi còn cần nhiều thời gian để tiến bộ, chứng tỏ tôi cần phải nỗ lực kiên trì luyện nghe không ngừng cho đến ngày tôi có thể nghe hiểu mọi điều người ta nói!
Sau khi hiểu rõ đạo lý này, tôi tự ngồi xuống xem xét lại bản thân, phân tích nghiêm túc nguyên nhân tại sao mình nghe không hiểu. Từ đó tôi nhận ra, đối với tôi, có hai nguyên nhân dẫn tới tình trạng này: Nguyên nhân thứ nhất, là tôi không biết những cách dùng từ hay cách diễn đạt trong chương trình phát thanh; nguyên nhân thứ hai, là nói một cách khách quan, tôi luyện nghe còn quá ít nên chưa quen tốc độ nói của phát thanh viên. Tổng kết nguyên nhân rồi, bước tiếp theo chính là việc khắc phục. Tôi nghĩ tới nghĩ lui, cho rằng phương án khắc phục nguyên nhân thứ nhất là tiếp tục học từ vựng, và tích lũy phương thức diễn đạt. Nếu như nói ban đầu học từ vựng tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, tôi chỉ chú trọng đến số lượng, chứ chưa chú trọng đến chất lượng, thì bây giờ, tôi cần phải ghi nhớ cả những từ ghép, đoản ngữ được kết hợp từ từng từ đơn lại với nhau. Còn phương án khắc phục nguyên nhân thứ hai thì như ý kiến cô giáo đưa ra cho tôi: Kiên trì luyện nghe và nghe bằng trái tim.
Phương án “nghe bằng trái tim” đó, nói thì dễ, làm mới khó. Vì khi nghe bằng trái tim, tôi cần tuân thủ nguyên tắc: không được vừa nghe vừa nói chuyện, không được vừa nghe vừa nhìn sách, không được vừa nghe vừa để ý nhất cử nhất động của mọi người xung quanh. Khi nghe, nhất định phải toàn tâm toàn ý tập trung vào nghe và chỉ nghe thôi. Nghe bằng trái tim tức là phát thanh viên nói một câu, trong đầu mình sẽ có phản ứng nhanh nhất xem anh ta đang nói những từ nào, và những từ đó có nghĩa là gì. Lúc đó, tôi thử qua rất nhiều phương pháp khác nhau, sau cùng tôi nhận ra, đối với tôi, phương pháp đọc theo có hiệu quả hơn cả. Đọc theo có nghĩa là sau một đến hai giây phát thanh viên nói ra một câu, tôi lập tức nói lại câu tôi vừa nghe được. Nếu tôi có thể đọc theo được có nghĩa là tôi có thể hiểu được tám, chín mươi phần trăm ý nghĩa diễn đạt của câu nói đó. Còn nếu tôi không đọc theo được, thì thông thường là vì tôi không nghe rõ người ta đang nói gì.
Tuy tôi đã tìm được phương pháp luyện nghe phù hợp với mình, nhưng mỗi lần nghe tôi vẫn cảm thấy rất khó khăn, vất vả, vì lúc mới luyện nghe kiểu này, tôi không đọc theo được người ta: Phát thanh viên nói với tốc độ nhanh, còn tôi không những chậm mà nói còn chậm hơn, cho nên thời gian đầu tôi chỉ đọc theo kiểu “bì bà bì bõm” – bản thân tôi cũng không biết mình đang nói gì. Nhưng, trải qua thời gian luyện tập liên tục hơn ba tháng, tôi đã có tiến bộ: Tôi có thể đọc theo người ta rất nhiều câu, ngay cả tốc độ nói của tôi cũng nhanh hơn trước rất nhiều. Vào một sáng nọ, tâm trạng của tôi rất tốt, tôi mở đài lên, vừa đi đánh răng vừa nghe VOA. Bấy giờ, tôi đột nhiên phát hiện ra mình nghe hiểu rồi! Tôi còn nhớ lúc đó VOA phát bài phát biểu của tổng thống Mỹ, tôi nghe hiểu từng từ, không hề nhầm lẫn! Lúc đó, tôi sướng quá, suýt chút nữa nuốt cả kem đánh răng xuống bụng.
Sau khi có tiến bộ rõ rệt khi nghe đài VOA, tôi thử chuyển sang nghe đài BBC. Lúc đó, BBC phát sóng chương trình chào hỏi vào khung giờ từ bốn đến năm giờ chiều. Mới đầu tôi không nghe quen giọng Anh của các phát thanh viên bên đài BBC, nhưng về sau tôi vẫn kiên trì nghe tiếp, tôi vận dụng song song nguyên tắc kiên trì và phương pháp đọc theo để công phá BBC.
Nếu như nói, nghe chương trình phát thanh tiếng Anh là phương pháp tôi luyện Extensive Listening, thì phương pháp luyện Intensive Listening của tôi là nghe giáo trình Step by step (Nhập môn nghe tiếng Anh) của Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hoa Đông. Lúc đó, tôi chọn bộ giáo trình này không vì bất kỳ một lý do nào đặc biệt, tôi quyết định mua bộ sách này chỉ vì nó dùng cho cả giáo viên và sinh viên, sách được chia làm bốn tập với các mức độ từ dễ đến khó, từ nông đến sâu. Cô giáo dạy chúng tôi: Sách vở “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, sau khi chọn được một cuốn sách, các bạn cần phải hiểu thấu nó. Cho nên, từ ngày đầu tiên mua giáo trình Step by step (Nhập môn nghe tiếng Anh), tôi và Cá Béo Ướp Muối đã quyết định nghe thấu giáo trình này! Cả bộ sách luyện nghe này có tất cả bốn tập, năm thứ hai đại học tôi nghe tập một và tập hai, còn hai tập ba và bốn tôi chia ra nghe vào năm thứ ba và năm thứ tư đại học.
Phương pháp nghe của tôi rất đơn giản. Mỗi ngày nghe một phần nhỏ, làm bài tập trước, luyện Intensive Reading sau. Khi làm bài tập: Tôi nghe một lượt trước, điền đáp án, rồi nghe lại một lần nữa, kiểm tra đáp án của mình, sau đó đối chiếu đáp án của mình với đáp án người biên soạn đưa ra trong sách. Nếu đúng thì tiếp tục làm câu tiếp theo; còn nếu sai, thì nghe lại một lần nữa, tiện thể tìm hiểu xem mình nghe sai ở chỗ nào. Sau khi biết tại sao mình nghe sai, tôi lại tiếp tục làm sang câu khác; nếu không biết tại sao mình nghe sai, tôi sẽ nghe lại cho đến khi nào tìm ra lỗi sai mới thôi. Khi luyện Intensive Reading: Nếu nghe hiểu rồi, tôi cần nghe lại nhiều lần nữa để nắm chắc bài nghe, cố gắng ghi nhớ cách phát âm của từng từ vựng, nhất là cách phát âm những từ mà mình ít sử dụng. Nếu nghe không hiểu, tôi càng phải nghe lại nhiều lần, nếu nghe đi nghe lại mà vẫn thật sự không hiểu, tôi sẽ mở phần nguyên văn ra xem rốt cuộc đó là câu nào, sau đó phân tích nguyên nhân tại sao mình nghe không hiểu, là do không biết từ đơn, không biết từ ghép, không hiểu bối cảnh tri thức, hay là do nối âm nuốt âm? Đối với vấn đề không biết từ đơn – từ ghép, tôi chép lại những từ không biết đó, học thuộc bất cứ lúc nào; đối với vấn đề không hiểu bối cảnh tri thức, tôi tích lũy dần dần từng tí một; đối với vấn đề phát âm, tôi nghe đi nghe lại nhiều lần, ghi nhớ cách phát âm của từ đó. Bất luận là về nối âm hay nuốt âm, tôi đều phải cố gắng nhớ kỹ cách phát âm vào trong đầu, đến lần sau nghe lại mới có thể nhận biết một cách nhanh chóng và chính xác.
Sau khi hoàn tất quá trình làm bài tập và luyện Intensive Reading, tôi gấp cuốn sách lại, nhắm mắt và nghe lại một lượt. Phương pháp nghe lúc này cũng giống như phương pháp nghe chương trình phát thanh: Nghe bằng trái tim (Phải nhắm mắt lại, không được nhìn vào nguyên văn bài nghe. Bằng không gọi là đọc, chứ chẳng phải là nghe). Trong lúc luyện nghe, bạn nhất định phải thật chú tâm, cảm giác sau khi nhắm mắt lại, nghe một câu nào đó dường như mình có thể tưởng tượng ra câu đó được gõ trên màn hình máy tính. Bạn cần vận dụng phương pháp này nghe mãi cho đến khi nghe hiểu từng từ vựng, thì có thể khép lại phần luyện tập này.
Lúc luyện nghe, tôi phải mang đài bên mình, vì mỗi đoạn nghe đều phải nghe đi nghe lại nhiều lần, nên tôi luôn phải tua đi tua lại băng cassette nhiều lần, làm lãng phí rất nhiều thời gian. Về sau để luyện nghe hiệu quả hơn, tôi ra cửa hiệu mua một cái máy đọc lại, tiết kiệm được không ít thời gian, lại còn có động lực học. Cũng may, trước khi bước vào kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 năm thứ hai đại học, tôi đã kịp thời tìm được phương pháp luyện nghe phù hợp nhất với mình. Lúc đó, để ôn tập tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, mỗi ngày, tôi nghe VOA từ sáu giờ ba mươi phút đến tám giờ sáng, nghe BBC từ bốn đến năm giờ chiều, buổi tối dành hai tiếng luyện Intensive Reading theo giáo trình Nhập môn nghe tiếng Anh. Cho đến khi thi xong tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, tôi cũng vẫn không bỏ thói quen này, tôi duy trì ba năm cho đến khi tốt nghiệp đại học mới thôi. Trình độ nghe của tôi cũng đạt được những sự tiến bộ vượt bậc kể từ khi ấy.
Cùng với những tiến bộ trong việc công phá kỹ năng nghe, tôi cũng tiến hành công phá kỹ năng đọc. Phần đọc cũng chiếm điểm số khá lớn trong bài thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, nhưng tôi không bỏ một lượng thời gian và công sức vào luyện đọc tương đương như luyện nghe. Vì, thứ nhất, từ cấp II đến cấp III, tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm Anh văn nổi tiếng, tôi tự nhận thấy trình độ đọc hiểu của mình rất tốt, cho nên tôi hoàn toàn xem nhẹ việc luyện đọc. Tiếc rằng lúc đó, tôi không hiểu được đạo lý, đọc hiểu văn chương không có nghĩa là bạn có thể làm đúng bài thi. Thứ hai, trước đây tôi từng làm ngẫu nhiên mấy bộ đề thi đọc hiểu tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, sai be bét, nên trong lòng sinh ra tâm lý chống đối. Cảm giác của tôi lúc đó giống như thế này, trên mặt trận nghe không ngừng vang lên những tiếng kèn lệnh chiến thắng, còn trên mặt trận đọc lại liên tục thất bại thảm hại. Lúc đó, tôi vạch kế hoạch luyện nghe và học từ vựng theo tiến độ từng ngày, chỉ có luyện đọc là theo tiến độ mỗi tuần, thậm chí là theo tiến độ hai tuần một.
Mãi đến mấy tuần trước khi diễn ra kỳ thi, tôi mới mang tất cả số đề thi chuyên ngành tiếng Anh cấp 4 ra nghiên cứu cẩn thận mấy bộ, nhưng cũng không có hiệu quả rõ rệt. Về phần thi viết, do từ năm thứ nhất đại học, tôi thường xuyên luyện viết theo các chủ đề, nên cũng không mất quá nhiều thời gian ôn tập phần này. Mấy tuần trước khi thi, tôi chỉ viết mấy bài theo đề thi của các năm trước để tìm cảm giác. Còn các phần khác trong kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 như, điền từ/cụm từ vào chỗ trống và ngữ pháp, tôi tìm hiểu dần dần qua quá trình nghiên cứu đề thi trong bộ sách luyện tập của trường Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải.
Hai tuần trước khi thi là thời điểm cực kỳ quan trọng, vì phải tổ chức thi thử. Mỗi buổi tối, tôi và Cá Béo Ướp Muối đều đến phòng tự học, tập thi thử. Chúng tôi sử dụng đề thi của các năm trước, từ phần nghe đến phần viết tất cả đều được tiến hành giống y như kỳ thi thật. Tần suất tổ chức thi thử là hai ngày một lần: Ngày thứ nhất, thi thử, đánh giá cho điểm lẫn nhau; ngày thứ hai, phân tích bài thi thử trước đó. Để tăng thêm độ khó cho mấy lần thi thử cuối cùng, trừ phần thi nghe ra, còn lại chúng tôi đeo tai nghe đang mở nhạc trong quá trình làm các phần thi khác, điều này có tác dụng mô phỏng những âm thanh hỗn tạp trong phòng thi, làm tăng khả năng chống nhiễu của bản thân.
Thi xong tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, tôi cảm thấy mình làm bài không được tốt cho lắm, một là vì cuộn băng phát trong phần thi nghe xảy ra vấn đề làm lãng phí hơn chục phút, nên tôi làm phần thi nghe không như dự kiến; hai là vì tôi gần như không có cảm giác gì đối với đề thi đọc, tôi toàn chọn đáp án dựa vào ngữ cảm, đến lúc so sánh đáp án đề thi cùng các bạn trong lớp sau khi thi xong, tôi còn chẳng nhớ ban nãy mình chọn đáp án nào, nên không dám chắc điều gì. Ngày thứ hai sau khi kết thúc kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, tôi lại kéo Cá Béo Ướp Muối đi tự học.
Trong thời gian chờ đợi kết quả kỳ thi, chúng tôi luôn ở trạng thái lo lắng, bất an. Rất lâu sau, khi chúng tôi sắp quên hẳn chuyện thi cử tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, thì nhà trường lại đưa ra bảng điểm. Tôi đạt hạng “ưu”, điểm thi của tôi cao hơn nhiều so với dự kiến, cuối cùng tôi cũng có thể thở phào được rồi. Kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 là kỳ thi tiếng Anh tổng hợp đầu tiên có quy mô tương đối lớn mà tôi từng tham gia trong thời gian học đại học, tôi đã thực hiện được mục tiêu ban đầu mà mình đã đề ra, trong lòng cảm thấy mãn nguyện. Nhưng mỗi khi có một chút ý nghĩ rằng bản thân mình rất giỏi, tôi lại nghĩ đến “chuyến đi đả kích ước mơ” trước đây, nghĩ đến cao thủ trên thế giới nhiều như mây, vì vậy tôi lập tức an phận. Tôi không dám dừng chân trên mỗi chặng đường phấn đấu, vì trong lòng tôi hiểu rõ, tương lai còn có rất nhiều mục tiêu đang chờ tôi công phá từng cái một, tương lai còn có rất nhiều con đường đang chờ tôi in từng dấu ấn vững chãi lên trên đó.
Thất bại – Lựa chọn – Dao động – Từ bỏ
Sau khi vượt qua kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 vào học kỳ II năm thứ hai đại học, tôi và Cá Béo Ướp Muối nhanh chóng chuyển mục tiêu của mình sang kỳ thi GRE (kỳ thi đầu vào cao học của các trường đại học ở khu vực Bắc Mỹ). Thật ra, tôi có mong muốn ra nước ngoài từ rất lâu rồi. Hồi cấp II, tôi thích koala, lại cộng thêm tính cách cổ linh, tinh quái, nên bạn bè đặt cho tôi cái tên là “Koala Xiaowu”. Thuở đó, tôi thường ước mơ sau này sẽ có một ngày, tôi có cơ hội tới Australia, tận mắt nhìn thấy con koala bằng da bằng thịt, vuốt ve, ôm ẵm nó. Sau này lớn lên, tôi càng muốn biến ước mơ ra nước ngoài thành hành động cụ thể, nhờ sự động viên, khuyến khích của cô giáo Trịnh và Cá Béo Ướp Muối, đến năm thứ hai đại học, tôi chính thức đặt chuyện đi du học vào “chương trình nghị sự” hàng ngày của mình. Tôi luôn nghĩ: Hồi thi đại học, mình không thể thi đỗ một trường đại học ở nơi khác, đó là một sự hối hận, sau này thi cao học, mình không những phải đi khỏi chỗ này, mà còn phải đi khỏi đất nước này tới một nơi xa hơn, mở rộng tầm mắt ra thế giới rộng lớn hơn, thu hoạch nhiều kiến thức phong phú hơn.
Tuy lúc đó tôi đã xác định mục tiêu đi du học, nhưng vì tôi học chuyên ngành tiếng Anh, nên ra nước ngoài học sẽ gặp phải vấn đề chuyển ngành, cụ thể là phải chuyển sang một chuyên ngành mới – điều này thì tôi vẫn chưa nghĩ ra. Có một thời gian tôi cảm thấy rất hoang mang, và cũng không có động lực học như trước đây nữa, tôi chỉ bận tâm suy nghĩ rằng: Sớm muộn gì cũng phải đi du học, sớm muộn gì cũng phải thi GRE, mà chứng chỉ GRE có hiệu lực những năm năm, bây giờ mình thi đỗ rồi thì đỡ được một nỗi lo sau này.
Trước giờ mọi người vẫn nói GRE là “đỉnh núi Chomolungma” trong các kỳ thi tiếng Anh, bất kỳ một kỳ thi tiếng Anh nào cũng không thể bì với GRE về độ khó của từ vựng và độ biến hóa của đề thi. Vừa nghĩ đến điều này, tôi lại cảm thấy sợ sệt, chạy đi xin kinh nghiệm của cô giáo Trịnh. Nhưng, lần này ngay cả cô cũng không thể giúp được gì cho chúng tôi, vì năm xưa cô thi GRE thế hệ cũ. Sau những cải cách mạnh mẽ, GRE thế hệ mới mang một diện mạo hoàn toàn mới. Tôi thầm nghĩ: Mình không hỏi được kinh nghiệm gì từ chỗ cô giáo, vậy thì đi hỏi các chị khóa trên vậy. Bởi vậy, có một thời gian, mỗi buổi tối trở về ký túc xá, tôi và Cá Béo Ướp Muối đều chạy sang tòa nhà ký túc xã nữ của các chị sinh viên năm thứ ba, thứ tư, hỏi: “Các chị cho bọn em hỏi, có chị nào ở đây từng thi GRE chưa ạ? Các chị có thể cho bọn em một vài lời khuyên ôn tập được không ạ?” Phần lớn những người được hỏi đều nhìn chúng tôi như người ngoài hành tinh, chỉ có số ít sinh viên tốt bụng muốn nói chuyện hỏi chúng tôi một câu: “GRE là gì cơ?”
Bất đắc dĩ, tôi và Cá Béo Ướp Muối ngồi xuống nền nhà nghĩ: Thì ra, ở trường bọn mình, phần lớn sinh viên đều nghĩ sau khi tốt nghiệp sẽ tranh thủ tới những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải tìm công việc tốt, hoặc có thể thi đỗ cao học ở các thành phố lớn, rất ít người nghĩ tới chuyện ra nước ngoài (lúc đó chuyện đi du học còn chưa phổ biến). Cho nên hai đứa tôi thật sự đơn thương độc mã trong trận chiến với kỳ thi GRE. Tôi động viên Cá Béo Ướp Muối: “Cậu đừng sợ, vạn sự khởi đầu nan, bọn mình phải kiên trì. GRE có khó thế chứ khó nữa thì nó cũng chỉ là một kỳ thi mà thôi. Mà đã là thi cử thì nhất định phải có cấu trúc đề thi, bọn mình bám vào đó ôn tập, giống như kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, bắt đầu từ từ vựng nhé.”
Vì thế, chúng tôi mới có lần đầu tiên tiếp xúc thân mật với cuốn sách bìa đỏ (sách từ vựng GRE). Trước đây, tôi vẫn nghe mọi người nói từ vựng GRE rất khó, rất “biến thái”, nhưng tôi chưa từng gặp qua. Lần đầu tiên mở cuốn sách bìa đỏ ra, cuối cùng tôi cũng biết thế nào là “biến thái” thật sự. Tôi đưa mắt nhìn, cả cuốn sách có gần tám nghìn từ vựng, mà tôi không biết lấy mấy từ. Không những là không biết từ vựng, ngay cả ý nghĩa Trung văn của những từ đó cũng cổ quái hiếm thấy. Tôi tiện tay mở mấy trang ra xem, trong số từ vựng bắt đầu bằng chữ A có: “Thầy dòng”, “thuật giả kim”, “lời tiên tri”, “thầy bói” – sao lại thần bí thế? Trong số từ vựng bắt đầu bằng chữ C có: “Xác chết đã thối”, “nhân mã”, “sĩ quan chỉ huy một trăm quân lính”, “đội thập tự chinh”… Xem đến đây, tôi đóng sập cuốn sách lại, vỗ vai Cá Béo Ướp Muối, hỏi: “Này, cậu xác định bọn mình mua đúng sách đấy chứ?”
Sự thật chứng minh, chúng tôi mua đúng sách, có điều độ khó, độ rộng, độ biến hóa của từ vựng trong GRE khiến người ta thật khó có thể tin được. Tôi nghĩ bụng: Hay là đi mua bộ đề thi của các năm trước về coi thử, dù sao cũng nên ngó qua xem đề thi thế nào, vì mình rất tò mò muốn biết rốt cuộc những từ vựng “biến thái” đó xuất hiện trong bài thi dưới hình thức như thế nào. Nghĩ là làm, tôi chạy ra hiệu sách tìm mua tuyển tập đề thi GRE. Sau khi chạy khắp các hiệu sách, tôi sững sờ – các hiệu sách lớn đều không bán tuyển tập đề thi GRE. Chủ một hiệu sách cho tôi biết, sau một thời gian dài bày bán tuyển tập đề thi GRE mà không ai có nhu cầu, họ không nhập tuyển tập đề thi GRE về nữa. Cả một thành phố rộng như thế này, thế mà muốn mua một bộ đề thi cũng không mua được, làm tôi thấy rất khó chấp nhận.
Ngày tháng sau đó, tôi như người mất hết sức sống, đứng trước một kỳ thi lớn, đầy gian nan, phức tạp, tôi căn bản không biết mình phải bắt tay hành động thế nào. Về sau, tôi nghiến răng nghiến lợi, quyết định đăng ký một lớp luyện thi GRE của Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới, hy vọng sau khi tới Bắc Kinh, tôi có thể mua được tài liệu ôn tập, tìm được phương pháp ôn tập. Lúc đó, tôi đăng ký kỳ thi GRE diễn ra vào tháng Mười năm 2005, nên mọi người gọi là kỳ thi 10G. Tháng Năm năm đó, tôi gấp rút ghi tên đăng ký một lớp luyện thi cấp tốc của Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới ở Bắc Kinh vào tháng Bảy. Giờ nghĩ lại, tôi thấy thật ra trước khi vào lớp luyện thi, tôi đã rất chán nản rồi, tôi thừa biết mình dành mấy tháng ngắn ngủi ôn tập cho một kỳ thi khó khăn như thế, chắc chắn là không đủ, nhưng bản thân tôi lại không chịu chủ động cố gắng, mà toàn tâm toàn ý đặt hy vọng rằng lớp luyện thi cấp tốc đó sẽ giúp tôi vượt qua cửa ải này. Trước khi lên đường đi Bắc Kinh, tôi mới xem cuốn sách bìa đỏ được hai ba lần, tôi chủ yếu “xem”, chứ chưa “thuộc”. Ngoài ra, tôi chẳng biết tí gì liên quan đến đề thi GRE.
Một ngày hè tháng Bảy năm 2005 cũng như ngày hè một năm trước, một lần nữa tôi lại đi tàu hỏa tới Bắc Kinh, một lần nữa tôi lại cảm nhận được cái “ngày xông hơi” độc nhất vô nhị của mùa hè Bắc Kinh, và cũng một lần nữa tôi lại ngồi trong phòng học rộng lớn của Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục Phương Đông Mới quen thuộc. Hơn một tháng tiếp theo đó, thầy cô luân phiên giảng bài điền từ/cụm từ vào chỗ trống, tìm từ đối nghĩa, đọc hiểu, viết luận, toán học, trong khi tôi vẫn chưa chuẩn bị gì cả về tâm lý lẫn kiến thức. Thầy cô đứng trên bục giảng, cảm xúc dạt dào, họ khôi hài kể lại những câu chuyện triết lý nhân sinh nhằm cổ vũ ý chí của sinh viên, từng câu, từng lời thầy cô nói đều dội vào màng nhĩ của tôi. Đối diện với những người thầy, người cô tận tâm tận lực truyền đạt kiến thức như thế, tôi cảm thấy vô cùng áy náy và tự trách mình đã không chuẩn bị gì. Có một thầy giáo nói: Hàng năm đi dạy, thầy nhận thấy trong các lớp học khác nhau ở các khu vực khác nhau có tới hàng trăm hàng nghìn sinh viên ôm giấc mơ đi du học, nhưng chỉ chưa đến một phần mười trong số đó có thể vượt qua những thử thách chất chồng, cuối cùng thực hiện được giấc mơ đi du học vượt trùng dương. Theo tính cách thường ngày của tôi, nghe thấy câu này, nhất định tôi sẽ kiêu ngạo cho rằng: Chắc chắn mình nằm trong số mười phần trăm đó. Ấy vậy mà, lúc đó tôi lặng lẽ nói với chính mình: Mười phần trăm đó chắc chắn sẽ không có phần của mình. Hoàn thành khóa học, tôi mua một chồng tài liệu học tập, làm một đống sổ tay học tập, mang những “thành quả chiến đấu” đó trở về quê hương. Lần thứ hai chịu đả kích, lần thứ hai tỉnh ngộ, tôi ý thức được rằng, mình còn có rất, rất nhiều chỗ yếu kém, mình còn có rất, rất nhiều bài tập cần phải làm…
Tháng Tám năm đó, tôi đặt ra cho mình một kế hoạch “điên rồ” là công phá kỳ thi GRE trong vòng hai tháng. Tôi cho thêm dấu ngoặc kép vào hai chữ “điên rồ”, vì đây vốn dĩ là một ý nghĩ “điên rồ”, nhưng sau cùng tôi chẳng “điên”, mà cũng chẳng “rồ”. Ngược lại, tôi nhận thức rất rõ, mình đang chuẩn bị làm một con thiêu thân lao đầu vào lửa, bất kể ngày đêm. Trong kế hoạch hai tháng, đáng lẽ tôi có thể ôn tập thêm các phần điền từ/cụm từ vào chỗ trống, tìm từ đối nghĩa, đọc hiểu và viết luận, nhưng tôi lại đánh trống rút lui: Chỉ làm một phần ba cuốn điền từ/cụm từ vào chỗ trống, làm một nửa cuốn tìm từ đối nghĩa, và mới luyện viết được tất cả bốn bài trong hai phần thi viết. Còn phần đọc hiểu thì càng thảm hơn, cả một cuốn đọc hiểu, tôi mới ôn được ba bài mà thôi.
Trước đó, tôi cũng vẫn phấn đấu nhưng chưa bao giờ cảm thấy mệt mỏi, vậy mà kỳ nghỉ hè năm thứ hai đại học này lại làm tôi cảm thấy mệt mỏi từ thể xác cho đến tinh thần. Bước vào phòng thi, tôi còn cảm thấy hơi hối hận, tôi nghĩ lẽ ra mình không nên đăng ký thi GRE sớm thế này, đến thời gian ôn tập cũng chẳng có. Nhưng, thật ra trong lòng tôi hiểu rõ, than trách không có đủ thời gian ôn tập chỉ là một cái cớ thiếu sức thuyết phục bao biện cho mình mà thôi. Kết quả kỳ thi còn đau khổ hơn những gì tôi nghĩ. Tôi cho rằng, thất bại đầu tiên của tôi trong kỳ thi GRE là thất bại ở tâm trạng tiêu cực. Tôi chẳng những không chủ động tích cực ứng chiến, mà trong lòng còn chuẩn bị sẵn tâm lý chịu thua, suốt ngày nghĩ những câu nản chí như: “Khó thế này thì mình tiêu đời rồi.” Không những vậy, tôi còn hồn nhiên cho rằng, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, lớp luyện thi cấp tốc có thể giúp tôi chiếm lĩnh đỉnh núi này. Nhầm lớn. Ngay từ đầu tôi nên hiểu: Trên con đường phấn đấu, tôi chỉ có thể dựa vào chính bản thân mình. Để có thể thực hiện được mục tiêu sau cùng, tôi phải thực sự bỏ tất cả công sức ra, chứ không phải bất cứ thứ nào khác.
Kết thúc kỳ thi GRE, những điều trước đó tôi hoang mang, nay lại càng hoang mang hơn. Tôi nghĩ: Vốn dĩ ngôi trường mình đang theo học không phải là một trường đại học nổi tiếng trong nước, lần này lại thi cử chán ngắt, thêm vào đó, mình còn không biết tí gì về việc xin đi du học, rốt cuộc phải chuẩn bị những tài liệu gì, quy trình làm hồ sơ du học như thế nào, phải học chuyên ngành nào, làm sao mới có thể nhận được học bổng, mình hoàn toàn không biết. Cho nên, sau những băn khoăn, do dự, tôi quyết định từ bỏ ý nghĩ đi du học. Thời gian đó, lúc nào tôi cũng bị mọi người chế giễu, từ bạn học cho tới thầy cô đều hỏi tôi: “Ơ? Dạo trước khí thế lắm cơ mà, bây giờ sao rồi? Rốt cuộc là nội lực không đủ hay là thùng rỗng kêu to?”
Tôi cảm thấy khó chịu trong lòng, có điều tôi không cảm thấy khó chịu bởi những lời châm chọc của người khác, mà tôi cảm thấy khó chịu bởi tôi không hiểu tại sao mình có thể dễ dàng từ bỏ ước mơ du học đến thế. Tôi sợ mình lại trở về trạng thái sa ngã, không có chí tiến thủ giống như thuở nhỏ; sợ mình lại yếu đuối, không chịu nổi sự đả kích vì thất bại giống như thuở nhỏ. Tôi phiền muộn vì biết rõ trong lòng mình có một ước mơ cao xa, thế mà tôi lại không nhìn rõ đường đi của nó. Và điều khiến tôi phiền muộn hơn là học xong năm thứ hai đại học, Cá Béo Ướp Muối đột nhiên chuyển trọng tâm cuộc sống từ chịu khó học tập sang tích lũy kinh nghiệm làm việc. Cô ấy đã quyết định sau khi tốt nghiệp sẽ đi làm mấy năm trước đã, đợi đến khi tích lũy đủ kinh nghiệm làm việc mới nghĩ tới chuyện có đi du học nữa hay không. Đối với tôi mà nói, tin này khác nào sét đánh giữa trời quang. Tôi vốn đã bó tay chịu trói, nay người bạn duy nhất cùng chí hướng phấn đấu cũng bỏ tôi đi. Vậy là, tôi phải chiến đấu một mình thật rồi.
Tôi bắt đầu suy nghĩ, tất cả những gì tôi làm, rốt cuộc là đúng hay sai. Tôi có nên bắt chước người khác, an phận thủ thường, học theo lịch trình của nhà trường, tham gia các hoạt động ngoại khóa, tranh giành làm cán bộ lớp, mở rộng mối quan hệ, để tính toán tìm việc làm sau khi ra trường không? Sau này tốt nghiệp, tôi phải làm gì? Liệu tôi có nên ở lại thành phố này, tìm một công việc nhẹ nhàng, rồi gả vào một gia đình tốt, hưởng thụ cuộc sống vui vẻ nhàn nhã trong vốn thời gian hữu hạn của cuộc đời mình? Nghe những điều này có vẻ hợp tình hợp lý, nhưng tại sao tôi luôn cảm thấy không cam lòng, luôn cảm thấy cuộc sống không nên dừng lại ở đây, luôn cảm thấy mình chỉ có một lần được sống, không nên đi theo dấu chân người khác, cảm thấy mình nên để lại những dấu ấn riêng trong cuộc đời của mình, để lại những dấu ấn ngoạn mục, đáng nhớ, đáng thán phục, để đến khi chuẩn bị rời xa thế giới này, ít ra trong lòng tôi cũng không có gì phải hối tiếc.
Tôi lấy cuộn băng Nhập môn nghe tiếng Anh trong máy đọc lại ra rồi bỏ album của Phạm Vĩ Kỳ vào, ngân nga hát theo bài Ước mơ ban đầu hết lượt này đến lượt khác. Con người là vậy đấy, khi trong lòng có tâm sự, thì nghe bài hát nào cũng đều cảm thấy bài hát đó đang kể câu chuyện của mình. Tôi suy ngẫm về lời bài hát, cảm thấy sự kiêu ngạo lúc đầu của mình đã bị hiện thực đánh gục rồi, tôi hiểu mình phải cố gắng, nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể đi đến phương xa. Sau này ước mơ của tôi trở nên xa vời, tôi bèn đi tìm đôi cánh tàng hình có thể ban cho mình sức mạnh. Vào lúc chán chường sau khi bị thất bại, tôi cảm nhận rõ sức nặng của sự cô độc, tôi bắt đầu hoài niệm về những tháng ngày tôi và Cá Béo Ướp Muối cùng sát cánh phấn đấu trước đây. Nhớ hai đứa cùng đi trên một con đường, cùng phấn đấu, vui vẻ trong suốt một thời gian dài như thế, và tin rằng lúc xuyên qua cơn gió, vượt qua khúc quanh, trái tim của chúng tôi vẫn luôn hướng về nhau giống như trước kia.
Tôi hỏi chính mình, rốt cuộc tôi phải làm thế nào, rốt cuộc tôi phải lựa chọn ra sao, tôi thật sự nên từ bỏ? Hay nên tiếp tục kiên trì? Nếu từ bỏ, thì tiếp sau đây tôi phải làm gì; nếu kiên trì, liệu điểm kết thúc đó có đường ra không? Tôi không biết, thật sự không biết… Từ khi lên đại học, đây là lần đầu tiên, tôi cảm thấy hoang mang, sợ hãi, cô độc và không biết xoay sở thế nào.
Tôi kết thúc năm học thứ hai trong im lặng. Năm đó, tôi tròn hai mươi tuổi. Năm đó, tôi đạt hạng “Ưu” trong kỳ thi Tiếng Anh chuyên ngành cấp 4, thực hiện được một tâm nguyện nhỏ của mình. Nhưng, cũng chính năm đó, tôi đau khổ vì kỳ thi GRE, tôi có cảm giác mất mát, trống rỗng vì ước mơ của mình bị vỡ vụn. Trong kỳ thi GRE lần đó, tôi làm kẻ đào ngũ từ đầu đến cuối, một mặt trong lòng tôi muốn thi dựa vào vốn kiến thức mà mình đã tích lũy được trước đó, mặt khác tôi không chịu luyện tập một cách thật sự, nghiêm túc dưới áp lực nặng nề. Đến cuối cùng, người chịu thiệt vẫn là mình. Vì vậy, tôi hiểu rõ một đạo lý: Luyện tập và tích lũy luôn luôn là con đường đúng đắn, đừng bao giờ nghĩ tới chuyện chui qua kẽ hở, vì vốn dĩ chẳng có kẽ hở nào có thể chui qua, cũng đừng bao giờ nghĩ tới chuyện đi đường tắt, vì vốn dĩ chẳng có đường tắt nào có thể đi qua. Sau này tôi và Cá Béo Ướp Muối rất ít khi đi tự học cùng nhau, mặc dù bạn ấy trở thành “gương làm việc”, còn tôi trở thành “gương học tập”, nhưng chúng tôi vẫn là những người bạn tốt nhất của nhau. Chúng tôi đi trên những con đường khác nhau, theo đuổi những ước mơ khác nhau, nhưng cùng mang một trái tim đồng cảm. Tôi thật lòng tin rằng, mai này sẽ có một ngày nào đó, hai con đường của chúng tôi sẽ có điểm giao nhau.
GHI CHÚ NHỎ
Về luyện nghe
Giống như phương pháp học thuộc từ vựng, chúng ta cũng có vô số phương pháp luyện nghe: Có người thích luyện nghe bằng phương pháp ám tả, có người lại thích luyện nghe bằng phương pháp xem phim như phim truyền hình Mỹ chẳng hạn. Tôi cho rằng, không có phương pháp nào là tốt hoàn toàn, cũng không có phương pháp nào là xấu hoàn toàn. Bạn nên lựa chọn cụ thể một phương pháp dựa vào thói quen học tập của mình. Quan trọng nhất là bạn cần lựa chọn phương pháp luyện tập phù hợp nhất và kiên trì theo đuổi nó. Phương pháp luyện nghe của tôi là luyện Intensive Listening theo giáo trình Nhập môn nghe tiếng Anh và chương trình phát thanh tiếng Anh.
Phương pháp này rất phù hợp với tôi. Nhờ vậy, khi kiên trì luyện tập suốt ba năm trời, tôi đã đạt được bước tiến lớn trong việc nâng cao kỹ năng nghe. Nhưng, liệu rằng phương pháp này có thật sự phù hợp với bạn không? Câu trả lời là có thể có mà cũng có thể không, bởi vì không có một phương án nào có thể làm chuẩn cho tất cả mọi người. Bạn cần thu nhận và học tập phương pháp của tôi một cách có chọn lọc, có phản xạ. Bạn chỉ có thể từ từ tìm ra một phương pháp luyện nghe thuộc về mình, phù hợp với mình thông qua quá trình không ngừng thực hành, không ngừng thử nghiệm.
Về lựa chọn tài liệu học tập
Lựa chọn tài liệu học tập cũng giống như lựa chọn phương pháp học tập, quan trọng là các bạn “thấy vừa mắt”. Các bạn cần phải hiểu rõ một đạo lý: Khi chọn tài liệu học tập, bất kể bạn dùng cuốn sách nào, mua ấn bản nào, mua sách của nhà xuất bản nào, điểm quan trọng nhất là phải tìm hiểu thấu đáo cuốn sách đó. Tôi sử dụng cuốn Nhập môn nghe tiếng Anh, và nghe đài VOA, đài BBC, điều đó không có nghĩa chúng là con đường duy nhất giúp bạn nâng cao kỹ năng nghe, cũng không có nghĩa bạn chỉ cần sử dụng chúng là hoàn toàn có thể nâng cao kỹ năng nghe của bạn, đặc biệt, điều đó càng không có nghĩa các tài liệu khác không thể đạt được hiệu quả tương tự hay tốt hơn tài liệu này. Sau khi tìm được tài liệu mình thích và phù hợp với mình, bạn cần kiên định sử dụng chúng, cho đến khi nghiên cứu thấu triệt cuốn sách đó rồi, bạn mới đi mua cuốn sách khác. Nếu bạn không nghiên cứu nghiêm túc cuốn sách đó, không nắm rõ những gì viết sẵn trong cuốn sách đó trong lòng bàn tay, thì cho dù bạn sử dụng ấn bản vô địch do thượng đế biên soạn, thiên đường xuất bản, cũng chưa chắc có hiệu quả.
Khi luyện nghe, ngoài mấy loại tài liệu kể trên ra, tôi chưa từng sử dụng một loại tài liệu nào khác, nên tôi không có quyền bàn luận về tính hiệu quả của các loại tài liệu đó. Kỳ thực, chỉ cần bạn sử dụng tài liệu nghe do native speaker thu âm, chỉ cần bạn kiên trì luyện tập, thì nhất định sẽ thấy hiệu quả. Chúng ta cần làm rõ một vấn đề liên quan đến luyện nghe: Mấu chốt của việc luyện nghe là ở “kiên trì”, chứ không phải là bạn nghe cái gì.
Hơn nữa, bây giờ đang là thời đại số hóa, gần như tất cả tài liệu đều được đưa lên mạng, bạn có thể download rất nhiều tài liệu dưới định dạng digital chẳng hạn. Tuy nhiên, bạn cũng đừng nghĩ rằng, bạn xài tám tiếng đồng hồ của mình lên mạng download 6G dữ liệu digital tức là bạn “nỗ lực” luyện nghe. Nếu bạn download về bỏ không, hoặc tùy tiện nghe một lượt cho xong chuyện, thì dẫu bạn download được 60G đi chăng nữa, cũng chẳng có tác dụng gì. Trọng tâm của việc “luyện nghe” là “luyện” trong “luyện tập”, “tôi luyện”, “huấn luyện” và “thục luyện”. Bạn không “luyện”, mà chỉ lừa dối bản thân làm ra vẻ luyện nghe, thì chẳng ăn thua gì.
Cuối cùng, tôi muốn nói rằng, ngôn ngữ là một loại kỹ năng. Bạn không thể nâng cao kỹ năng trong ba bốn ngày, càng không có chuyện, bạn có thể tìm ra “đường tắt” trong “truyền thuyết” gì gì đó. Không khổ công, kiên trì rèn luyện bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, tối thiểu là từ ba tháng trở lên, thì sẽ không có hiệu quả rõ rệt. Bởi vậy nếu muốn tìm phương pháp đúng, muốn tìm tài liệu chuẩn, bạn hãy tôi rèn lỗ tai của mình ngay từ bây giờ nhé!
Bước ngoặt và quyết định trong năm thứ ba đại học
Đại học Bắc Kinh cứu rỗi tôi
Trước khi kết thúc năm thứ hai đại học, có một tin “động trời” ập đến, phá tan cuộc sống trầm lặng của tôi. Có người trong khoa nói rằng trường chúng tôi có một chương trình trao đổi sinh viên với Đại học Bắc Kinh, sinh viên nào nhận được cơ hội trao đổi này có thể tới khoa tiếng Anh của trường Đại học Bắc Kinh học tập nửa năm vào học kỳ I năm thứ ba. Tôi và Cá Béo Ướp Muối vẫn luôn khao khát được đến một vùng đất khác học, huống hồ đây lại là Đại học Bắc Kinh – nơi chúng tôi chỉ dám nghĩ tới trong mơ! Khi nhà trường chính thức bắt đầu tiếp nhận đơn xin đi học, hai đứa tôi quả quyết nộp đơn, rồi thành khẩn chờ đợi tới một ngày kia cả hai đều được đến Đại học Bắc Kinh học. Hôm đơn xin đi học của chúng tôi được phê chuẩn, hai đứa cùng ôm chầm lấy nhau, hét to: “Đại học Bắc Kinh! Chúng tớ tới đây!”
Thế là khi học kỳ I năm thứ ba còn chưa bắt đầu vào học, tôi và Cá Béo Ướp Muối đã đi tàu hỏa tới Bắc Kinh nhập trường. Sân trường Đại học Bắc Kinh quả là rất rộng, rất đẹp, đâu đâu cũng là cảnh, cũng là người. Hai đứa tôi hứng lên mua hai chiếc xe đạp, đạp xe lượn khắp sân trường. Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy “nhất tháp hồ đồ” (tháp Bác Nhã, hồ Vị Danh và đồ thư quán Bắc Đại), nhìn thấy Học viện Quản lý Quang Hoa, nhìn thấy giảng đường một trăm năm tuổi nổi tiếng, nhìn thấy đội ngũ tiếp đón tân sinh viên hùng hậu của các câu lạc bộ, nhìn thấy canteen có đủ loại đồ dùng dụng cụ đặc sắc… trong trường Đại học Bắc Kinh. Được tận mắt nhìn thấy tất cả những thứ này, tôi thật sự quá phấn khích, kéo hai tay Cá Béo Ướp Muối, nói: “Cá Béo Ướp Muối này, bọn mình phải phấn đấu! Phải phấn đấu! Phải phấn đấu nhé!”
Hồi mới vào học, ngày nào tôi cũng cảm thấy rất căng thẳng, tôi và Cá Béo Ướp Muối chui xuống góc cuối cùng của lớp học, hàng ngày lên lớp, chúng tôi chủ yếu quan sát là chính, chẳng dám chủ động giơ tay phát biểu, cũng chẳng dám tham gia thảo luận. Chúng tôi cảm thấy thầy cô giảng bài nhanh như gió, còn không khí lớp học thì cực kỳ sôi nổi, chỉ cần lơ đãng một tí là đã bỏ qua rất nhiều điểm quan trọng của bài học. Chúng tôi học bở hơi tai mới hết một tiết, thế mà lại phải vội vã đạp xe sang khu giảng đường khác học tiết khác. Sau một tuần, tôi cảm thấy quá mệt mỏi, vừa không theo kịp tiến độ học tập của mọi người, vừa không thể tiêu hóa hết kiến thức đã học.
Kết thúc tuần học đầu tiên, cả tôi và Cá Béo Ướp Muối đều cảm thấy hơi chán nản, chúng tôi cùng ngồi lại phân tích một cách nghiêm túc nguyên nhân hai đứa không theo kịp tiến độ học tập của các bạn trong lớp, và thấy rằng nguyên nhân chủ yếu ở đây là do chúng tôi chưa chuẩn bị thật kỹ bài học trên lớp. Chúng tôi mới bắt đầu học vào tháng Chín, đến tháng Mười đã phải thi GRE, cho nên lúc đó, chúng tôi đặt rất nhiều tâm tư và thời gian vào kỳ thi GRE, hàng ngày đều bị nó làm cho kiệt quệ. Mãi đến khi thi xong GRE, chúng tôi mới bắt đầu toàn tâm toàn ý vào việc học. Lúc đó, tất cả các môn học mà tôi chọn đều nằm trong chương trình học của khoa tiếng Anh, còn Cá Béo Ướp Muối xác định mục tiêu của mình là đi làm, nên bạn ấy chọn mấy môn học của Học viện Quản lý Quang Hoa để làm nền tảng cho việc tìm việc sau này.
Vậy là hàng ngày hai đứa tôi hoạt động ở những khu giảng đường khác nhau, học chương trình học khác nhau, tuy nhiên chúng tôi vẫn hẹn nhau cùng ăn cơm trưa và cơm tối, buổi tối chúng tôi vẫn cùng nhau tự học, khi đói chúng tôi còn thường mua đồ ăn đêm về ký túc xá cùng ăn, vừa ăn vừa xem phim Khang Hy đến rồi, ăn xong lại tiếp tục chong đèn mãi đến rạng sáng mới đi ngủ. Thời gian đó, do tôi học hăng quá nên dẫn đến đồng hồ sinh học không đi theo quy luật, mặc dù vậy, hàng ngày tâm trạng của tôi vẫn rất tốt, bởi tôi chịu ảnh hưởng từ môi trường tích cực xung quanh mình. Dần dần, lên lớp, tôi bắt đầu len lên ngồi bàn đầu, tích cực tham gia thảo luận cùng các bạn trong giờ học và phát biểu quan điểm của mình, lúc nghỉ giải lao giữa giờ, tôi cũng mạnh dạn chạy lên hỏi bài thầy cô giáo. Kết thúc một học kỳ, tôi cảm thấy mình học được rất nhiều kiến thức về mặt chuyên ngành.
Ngoài những tiến bộ trong học tập ra, còn có một vài chuyện diễn ra ở Đại học Bắc Kinh mà có lẽ cả đời này tôi cũng không thể nào quên. Chuyện thứ nhất là, tôi gặp anh Thành Long trong một lần nhà trường chiếu phim Thần thoại ở giảng đường một trăm năm tuổi. Lúc đó, anh đứng trên sân khấu chỉ cách chỗ tôi ngồi chừng hai mét, mặc bộ đồ màu trắng mà mọi người vẫn thường mặc những lúc luyện tập thái cực quyền, tóc đen nhánh, và nụ cười thân thiện luôn thường trực trên môi. Chuyện thứ hai là, cũng trong một buổi chiếu phim, tôi đã gặp anh Lý Liên Kiệt, anh còn biểu diễn một đoạn võ thuật ở ngay tại đó làm tôi cảm thấy rất “đã” mắt. Chuyện thứ ba và cũng là chuyện quan trọng nhất mà tôi từng trải qua là tôi có may mắn tham gia vào chương trình “Khai mạc diễn đàn nhân vật kinh tế của năm” được tổ chức tại Đại học Bắc Kinh vào cuối năm 2005, ở đó tôi gặp Phan Cương, chủ tịch Tập đoàn Doãn Lợi và Lưu Tường, quán quân Olympic. Tôi còn may mắn bốc trúng phần thưởng dành cho khán giả, được bước lên sân khấu và được họ tặng một hình Bé Phúc, Lưu Tường ký tặng tôi ngay tại đó. Bên cạnh đó, tôi còn nghe bài diễn thuyết của Lý Ngạn Hoằng và Mã Vân tại buổi khai mạc diễn đàn, và có đặt câu hỏi cho Lý Ngạn Hoằng. Về sau, CCTV2 phát sóng chương trình này, rất nhiều câu hỏi ở hiện trường hôm đó đều bị cắt, chỉ riêng câu hỏi của tôi được phát sóng, mẹ gọi điện từ nhà lên, xúc động nói với tôi rằng, bà nhìn thấy tôi trên tivi.
Những chuyện như gặp người nổi tiếng, được tặng chữ ký hay được lên tivi đều không quan trọng, cảm xúc quan trọng nhất mà tôi cảm nhận được sau khi tham gia các hoạt động này là thế giới thật rộng lớn.
Ngày trước học tập và phấn đấu ở thành phố của mình, tôi chỉ biết thế giới bên ngoài rất lớn, phong cảnh bên ngoài rất đẹp, hy vọng sớm được ra ngoài xông xáo, ngoài ra không biết rốt cuộc thế giới bên ngoài đặc sắc như thế nào. Sau tất cả những gì trải qua ở Đại học Bắc Kinh, thế giới ấy mới thật sự hình thành trong đầu tôi, hình ảnh của nó hiện lên chân thực trước mắt tôi như thế này: Chính tai tôi nghe anh Thành Long nói: “Nếu có ước mơ, bạn hãy dũng cảm nắm bắt nó”; chính tai tôi nghe anh Lý Liên Kiệt chia sẻ anh đã thay đổi nhân sinh quan sau khi chứng kiến thảm cảnh sóng thần ở Maldives; chính tai tôi nghe Mã Vân kể anh kiên định vượt qua từng bước đi gian nan như thế nào trên con đường sáng lập Tập đoàn Alibaba bắt đầu từ khi anh tốt nghiệp đại học chuyên ngành tiếng Anh; chính tay tôi nhận cuốn Cạnh tranh kinh doanh ở Thung lũng Silicon do đích thân Lý Ngạn Hoằng trao tặng và nghe anh kể làm sao anh từ bỏ tất cả những gì mình đang có ở Mỹ để trở về nước gây dựng cơ nghiệp, không sợ khó, không sợ khổ, thực hiện lời hứa của anh với chính bản thân mình từng chút một.
Trước đây tôi cũng biết đến những câu chuyện này, có điều bản thân tôi chưa từng trải qua những việc tương tự. Cảm giác gặp trực tiếp nghe danh nhân diễn thuyết khác hẳn cảm giác nghe họ nói trong đĩa CD. Những người có mặt tại khán đài luôn có cảm xúc xúc động, thật khó diễn tả bằng lời. Tất cả các danh nhân đều truyền tải một thông điệp chung: Họ cũng từng là những người rất đỗi bình thường, cũng từng băn khoăn, do dự, cũng từng thất bại và cũng từng gặp phải những sự đả kích, khó khăn trắc trở rất lớn, nhưng họ vẫn kiên trì theo đuổi ước mơ của mình, trước sau không hề dao động. Họ chưa bao giờ để ý đến những gian khổ và thất bại trước mắt, cũng chưa bao giờ để ý đến chuyện người khác cười nhạo và chế giễu mình, họ chỉ ôm trọn ước mơ, ngày ngày miệt mài đặt từng dấu chân vững chãi trên con đường tiến về phía trước. Để rồi cuối cùng có một ngày, họ thành công.
Danh nhân nghĩ như vậy, và những sinh viên Đại học Bắc Kinh ở xung quanh tôi cũng nghĩ như vậy. Mẹ thường nói: “Hầu hết những người xuất sắc trở nên xuất sắc là vì họ từng phấn đấu. Con không nên chỉ nhìn vào những ánh hào quang lấp lánh bên ngoài con người họ ngày hôm nay, con cần phải học tập sự cần cù chịu khó mà họ đã bỏ ra ngày hôm qua. Con nên nhớ, đằng sau mỗi người thành công chắc chắn còn có một câu chuyện mà mọi người vẫn chưa biết đến.” Tôi nghĩ, sở dĩ những sinh viên Đại học Bắc Kinh có thể đỗ vào trường này chính là nhờ vào những nỗ lực họ đã bỏ ra ban đầu. Khi tôi trốn học, ôm quả cầu lông ra ngoài đánh cầu lông, bọn họ đang học; khi tôi nằm bò trước máy điện tử chơi trò giải phóng mặt bằng thỏa thê mê mệt, bọn họ đang học; khi tôi ngủ gật, viết thơ, truyền giấy trong giờ học, bọn họ đang học; khi tôi bùng giờ lớp học thêm, ngày ngày giết thời gian ở tiệm internet, bọn họ đang học. Và quan trọng hơn là, bọn họ cũng từng phiền muộn, từng gặp trắc trở, từng hoang mang, và cũng từng thất bại, nhưng dù thế nào, bọn họ cũng vẫn tiếp tục kiên trì. Để rồi cuối cùng họ thành công.
Nhưng còn tôi? Những lựa chọn khó khăn mà tôi gặp trước mắt đã là gì? Dù so sánh với những đại minh tinh hay là so sánh với những người dân bình thường đi chăng nữa, chút khó khăn đó của tôi, thật chẳng đáng nói đến. Chỉ vì một thất bại nhỏ trong kỳ thi GRE mà tôi muốn từ bỏ ước mơ du học mà mình ấp ủ bấy lâu ư? Nếu từ bỏ, tôi có thể đi được bao xa trên con đường du học? Cho dù tương lai tôi thật sự được ra nước ngoài, thì với tư tưởng này, liệu tôi có thể kiên trì trong bao lâu? Áy náy, hổ thẹn, tôi cảm thấy mình thật sự quá yếu đuối.
Vào cuối học kỳ, tôi quen rất nhiều bạn cùng học ở Đại học Bắc Kinh. Họ không những chăm chỉ chịu khó, mà còn có định vị và quy hoạch rất rõ ràng cho cuộc đời của mình. Bất kể mục tiêu của họ là gì, khi nói chuyện cùng họ, tôi cũng đều cảm nhận rất rõ sự kiên định đang cháy trong họ. Họ hỏi tôi muốn làm gì sau khi tốt nghiệp, tôi do dự hồi lâu, rồi mới lí nhí trả lời là tôi muốn đi Mỹ học cao học, lúc đó thật sự tôi rất sợ họ sẽ cười nhạo tôi. Nhưng không, họ làm tôi ngạc nhiên bởi họ không những không cười nhạo, ngược lại còn khích lệ tôi cần phải kiên trì theo đuổi ước mơ của mình. Họ bảo tôi, cho dù bạn từ đâu tới, cho dù bạn bình thường thế nào đi nữa, thì về ước mơ, tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Cho dù bạn cảm thấy bản thân mình nhỏ bé nhường nào, bạn vẫn có quyền theo đuổi ước mơ cao quý. Chỉ khi dám ước mơ, bạn mới có cơ hội thực hiện được ước mơ bằng chính sự nỗ lực của mình. Nếu như ngay đến cả ước mơ bạn cũng chẳng dám nghĩ tới, vậy thì chẳng phải là bạn không có mảy may xác suất thành công nào ư?
Tôi chợt tỉnh ngộ. Thì ra, từ trước tới giờ, tôi vẫn luôn có thái độ lệch lạc: Do ban đầu thi đại học, tôi không đỗ được vào một ngôi trường nổi tiếng trong nước giống như những người bạn học của mình, nên tôi vẫn luôn cảm thấy rất tự ti, kể cả khi tới Đại học Bắc Kinh học rồi, tôi cũng vẫn ngại ngùng, nói với mọi người rằng, tôi chỉ là sinh viên diện trao đổi mà thôi. Mặc dù ở trường của tôi, tôi đứng thứ nhất toàn khoa, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy mình còn kém xa những bạn học tại ngôi trường danh giá này. Bởi vậy, tôi không thể nào thoát khỏi sự trói buộc của tâm lý tự ti ấy, khi có ước mơ đi du học, tôi cũng vẫn không thể dũng cảm theo đuổi nó, ở sâu thẳm đáy lòng mình, tôi không tin mình thật sự có thể làm được. Nhưng, sau thời gian học tập ở Đại học Bắc Kinh, cuối cùng tôi cũng hiểu ra, những hối hận và thất bại trong quá khứ không thể thay thế cho tương lai, cũng không thể quyết định tương lai. Phấn đấu không bao giờ là muộn. Chỉ cần hạ quyết tâm, lấy hết dũng khí theo đuổi ước mơ, thì tôi vẫn có cơ hội thực hiện được ước mơ của mình giống như các bạn khác! Sau những gì trải qua ở Bắc Kinh, tôi hiểu rằng, ước mơ của mình thuộc về mình, chỉ có mình mới có quyền nói “Có” hay “Không” với nó. Việc mình có thể thực hiện được ước mơ hay không, căn bản không được quyết định bởi sự phủ định hay hoài nghi của người khác.
Tuy tôi chỉ học ở Đại học Bắc Kinh bốn tháng, nhưng điều đó đã giúp tôi xây dựng lại nhân sinh quan và giá trị quan của mình. Tôi cho rằng tất cả những gì tôi đã trải qua ở Đại học Bắc Kinh đã cứu rỗi tôi, cứu rỗi ước mơ của tôi. Nó không những giúp tôi kiên định theo đuổi những ý nghĩ mình đặt ra trước đây, mà nó còn khiến tôi ngộ ra nhiều đạo lý mà tôi vốn dĩ không hiểu. Bởi vậy, tôi biết ơn Đại học Bắc Kinh, biết ơn môi trường đó đã cho tôi tầm nhìn, can đảm và cả sự tự tin.
Mùa đông năm ấy rời xa Bắc Kinh, tôi đưa ra hai quyết định vô cùng quan trọng: Một là, tuyệt đối không được nhắc lại hai chữ “Từ bỏ”; hai là, thi cao học trước rồi mới đi du học. Không sai, tôi muốn thi cao học vào một trường đại học tốt hơn ở trong nước, một mặt cho tôi đủ thời gian suy nghĩ rõ ràng tất cả những nghi hoặc trong lòng về việc đi du học, mặt khác tôi có thời gian tích lũy kinh nghiệm, “nếm mật nằm gai”, lấy việc học cao học ở một ngôi trường tốt trong nước làm bàn đạp cho việc nộp hồ sơ xin vào một trường đại học hàng đầu của Mỹ! Cho dù con đường này rất dài, rất rắc rối, rất gian nan và rất vất vả, cho dù tôi không biết rốt cuộc làm vậy tôi có thể đi hết con đường này hay không, nhưng tôi quyết định thử dũng cảm một lần. Nếu không thử, thì làm sao tôi biết được mình có thể đi hết con đường hay không?
Thi cao học: Đã thi phải thi trường tốt nhất – Học viện Phiên dịch Cao cấp, tôi tới đây!
Sau khi xác định cho mình mục tiêu thi cao học, tôi không còn cảm thấy hoang mang nữa, cảm giác cô độc và cảm giác trống rỗng trước đó cũng lập tức biến mất. Để chào mừng cuộc sống mới, tôi chạy ra tiệm internet, lên trang Sina, lập một cái blog, đặt tên là Nơi cư trú của Koala Xiaowu. Thời điểm đó, blog mới nổi lên, tôi quyết định chạy theo trào lưu của thời đại, ghi chép quá trình phấn đấu của mình qua phương thức viết blog. Tôi nhắc nhở bản thân mình, lần này phải nỗ lực thực sự. Tôi cũng hứa với bản thân mình rằng, từ nay về sau trong lòng phải tin tưởng vào chính mình, tin tưởng vào ước mơ của mình, bất luận người khác nói gì hay làm gì, bất luận gặp khó khăn, trở ngại hay thất bại gì, cũng đều phải kiên trì. Tôi ghi nhớ thật kỹ tất cả những gì mình đã trải qua và đã cảm nhận được tại Bắc Kinh, lúc nào cũng dặn mình: Tuy con đường du học gian nan, trắc trở, nhưng chỉ cần kiên trì không từ bỏ mục tiêu, nhất định sau này sẽ có một ngày mình đạt được ước nguyện! Việc cần làm hiện giờ là coi con đường học cao học ở trong nước giống như “đường vòng cứu nước”, chỉ khi đặt được một bước đi vững chắc này, mình mới có thể thực hiện được ước mơ đi du học!
Từ đây, tôi bắt đầu chọn trường thi cao học. Vì tôi học chuyên ngành tiếng Anh, nên tôi quyết định chọn thi cao học vào một trường đại học ngoại ngữ. Thông thường sinh viên chuyên ngành tiếng Anh có ba hướng thi cao học chủ yếu: Phiên dịch, văn học và ngôn ngữ học. Tôi hoàn toàn không có hứng thú với hai phương hướng phía sau, tôi chỉ có hứng thú với hướng đi thứ nhất, vì vậy tôi xác định học cao học tiếng Anh theo chuyên ngành tiếng Anh phiên dịch. Theo bảng xếp hạng các trường đại học ngoại ngữ trong cả nước lúc bấy giờ, chuyên ngành phiên dịch của trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh đứng thứ nhất. Tôi nghĩ, không thi thì thôi, đã thi thì phải thi trường tốt nhất. Bởi vậy nên, tôi dứt khoát xác định mục tiêu thi cao học của mình là Học viện Phiên dịch Cao cấp thuộc trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh.
Người xưa nói, biết mình biết ta trăm trận trăm thắng. Muốn thành công trong một lần ra trận, nhất định phải bắt đầu từ việc nghiên cứu kỹ “tình hình quân địch”, cho nên tôi quyết định trước hết phải bắt tay tìm hiểu Học viện Phiên dịch Cao cấp. Lần đầu tiên ra tiệm internet, tôi tra ra rất nhiều thông tin liên quan đến Học viện Phiên dịch Cao cấp, Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh. Đúng là không tra không biết, tra ra thì giật nảy mình, Học viện Phiên dịch Cao cấp không hổ danh là học viện đứng đầu cả nước về chuyên ngành tiếng Anh, tỷ lệ học viên trúng tuyển vào trường rất thấp. Tôi nhảy vào các diễn đàn thi cao học ngó nghiêng, thấy mọi người đều bàn luận thi cao học Học viện Phiên dịch Cao cấp cực kỳ khó, mỗi năm có mấy chục nghìn thí sinh đăng ký dự thi, nhưng chỉ có mấy chục người may mắn trúng tuyển. Tôi báo cho Cá Béo Ướp Muối biết số liệu khủng khiếp ấy, thế mà bạn ấy vẫn còn cổ vũ tôi: “Từ khi thành lập Học viện Phiên dịch Cao cấp đến nay, số người thi đỗ vào trường này cũng lên tới một nghìn tám trăm người rồi đúng không? Những người trúng tuyển đó cũng là con người, trong đó không thiếu gì con gái, bọn họ đều là những cô gái khả ái, chứ cũng chả phải là ‘Diệt Tuyệt sư thái’. Bọn họ có thể thi đỗ, cậu dựa vào đâu mà nói mình không thể thi đỗ?” Lời Cá Béo Ướp Muối nói đã tiếp cho tôi rất nhiều sức mạnh. Tôi lập tức phấn chấn lên: “Đúng vậy, người khác có thể thi đỗ, cớ sao mình lại không thể thi đỗ? Mình nhất định phải có lòng tin vào bản thân, không thể bị kẻ địch dọa chết khiếp trước khi mở màn khai chiến được.”
Vào tháng ba, học kỳ II năm thứ ba đại học, để hiểu ngọn ngành về Học viện Phiên dịch Cao cấp và cũng là để nắm bắt thông tin thi cử, tôi cất công đi tàu hỏa đến Bắc Kinh một lần nữa, khảo sát tình hình thi cao học vòng hai của Học viện Phiên dịch Cao cấp năm đó, và tôi cũng muốn nhân cơ hội này học hỏi kinh nghiệm ôn tập của các học viên cao học và các anh chị sinh viên tham gia thi vòng hai. Chuyến đi đó có thu hoạch rất lớn, ngoài việc các tiền bối cởi mở chia sẻ kinh nghiệm ra, bọn họ còn bảo tôi, quá trình nâng cao kỹ năng dịch rất cực khổ, điểm quan trọng nhất là cần phải kiên trì luyện tập không ngừng nghỉ. Bọn họ đều nói, thật ra thi vào Học viện Phiên dịch Cao cấp cũng không khó như mọi người đồn đoán, chẳng qua là rất ít người có thể kiên trì ôn tập mà thôi.
Trên chuyến tàu trở về thành phố của mình, tôi luôn trăn trở suy nghĩ: Có lẽ thi vào Học viện Phiên dịch Cao cấp cũng không khó như mình nghĩ, nó vẫn nằm trong tầm với của mình, giống như đạo lý trèo lên mái nhà: Tuy rằng mái nhà rất cao, nhưng nếu bạn cố gắng đi bằng mũi chân, thì nhất định sẽ trèo lên được. Tôi không ngừng khích lệ bản thân: Thời gian vô cùng quý báu, một khi đã hạ quyết tâm rồi, đã đưa ra lựa chọn rồi, thì tuyệt đối không được tiêu phí thời gian lo lắng những chuyện đâu đâu, không được suốt ngày suy nghĩ, bị đả kích rồi dao động bởi những câu hỏi đại loại như: “Rốt cuộc mình có thi đỗ được không?” – vì những sự hoài nghi này chẳng những không có bất kỳ giá trị thực tế nào, mà ngược lại còn ăn mòn niềm tin của mình. Kẻ địch đang ở trước mắt, nhất định phải nói với bản thân mình rằng: Thi, nhất định thi đỗ, vấn đề là phải thi như thế nào! Dành tâm trí suy nghĩ xem mình nên thi “như thế nào” còn hơn là suy nghĩ xem mình “có đỗ không”!
Sau khi chính thức bước vào giai đoạn ôn thi cao học, tôi cũng tiến hành ôn tương tự như khi tham gia các kỳ thi khác. Trước tiên, tôi tìm hiểu một lượt đề thi cao học của các năm, làm rõ cấu trúc đề thi và nội dung thi, sau đó lập kế hoạch ôn tập. Tôi nghe các học viên đang học cao học trong Học viện Phiên dịch Cao cấp nói, đọc tạp chí The Economist (Nhà kinh tế học) rất có ích cho kỳ thi, vì thế tôi mua từ Bắc Kinh về rất nhiều số đã phát hành của The Economist. Hàng ngày, tôi dành ba đến bốn tiếng buổi sáng đọc các bài viết trong cuốn tạp chí liên quan đến một số nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Anh, Nga, và luyện dịch. Lúc mới bắt đầu đọc cuốn tạp chí này, tôi cảm thấy lối hành văn bên trong vừa dài dòng vừa lủng củng, còn những câu tôi dịch ra thì vừa kỳ cục vừa trúc trắc. Về sau, qua một người bạn cùng ôn thi cao học, tôi được biết, nếu mình không biết dịch, thì có thể đọc English Digest (Trích dịch Anh văn), vì cuốn này trích dẫn một số bài viết hay trên các tập san nước ngoài rồi dịch sang tiếng Trung, ngoài ra họ còn phân tích tổng kết những câu mang thông tin trọng điểm. Tôi liền chạy ngay ra hiệu sách mua bản hiệu đính của cuốn English Digest, luyện dịch Trung – Anh, Anh – Trung hết bài này đến bài khác.
Bắt đầu từ tháng Ba, tôi sắp xếp thời gian của mình như sau: Sáng sớm mỗi ngày nghe đài luyện Extensive Listening và luyện đọc, sau đó đọc tạp chí The Economist. Buổi trưa học từ vựng, buổi chiều luyện dịch Trung – Anh, Anh – Trung dựa theo cuốn English Digest. Buổi tối luyện Intensive Listeningtheo cuốn Nhập môn nghe tiếng Anh và ôn tập ngữ pháp. Tôi không ngờ, luyện dịch còn vất vả hơn cả luyện nghe hay luyện nói. Mới đầu luyện dịch, tôi dịch mỗi câu đều rất chật vật, nghĩ nát óc mới dịch được một bài mà mình tự cảm thấy là rất tốt, hí hửng mở cuốn English Digest (Trích dịch Anh văn) ra, đối chiếu bản dịch của mình với bản dịch trong sách, rồi sau đó tôi vỡ mộng. Bất luận là về dùng từ hay là về cấu trúc câu, bản dịch của họ đều đúng, đều hay. Mất một thời gian dài, tôi luẩn quẩn suy nghĩ: Những bài dịch trong English Digest là của một người dịch ra hay là kết quả làm việc chung của cả một tập thể? Sau mỗi lần bị đả kích, niềm tin của tôi lại tụt xuống đáy, tôi không khỏi cho rằng, dịch thuật là một con đường vừa gập ghềnh khúc khuỷu vừa không có điểm cuối, dù mình luyện tập bao nhiêu lâu cũng vẫn không đạt tới trình độ dịch của cao nhân.
Cuối tháng Tư, tôi học rất mệt, tôi nghĩ mình đọc báo, đọc tạp chí, nghe đài, luyện dịch cũng được một thời gian dài rồi, vậy mà vẫn không thấy thành quả đâu. Tôi nhớ, ngày trước ôn thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 4 và GRE, tôi đều có thể làm đề thi, dù đúng dù sai cũng có một đáp án đúng rõ ràng ở đó. Học từ vựng cũng như vậy, trong lòng tôi biết rất rõ là mình học thuộc từ vựng rồi hay là chưa. Còn ôn thi vào Học viện Dịch thuật Cao cấp là phải nâng cao kỹ năng dịch, mà việc nâng cao kỹ năng dịch lại tiến triển rất chậm, không thể có hiệu quả trong ngày một ngày hai. Huống chi, dịch thuật là thứ mỗi người một ý, có thể dịch thế này, mà cũng có thể dịch thế kia, bạn cảm thấy mình dịch rất hay rồi nhưng vẫn luôn có cách dịch hay hơn thế, đó chính là ý nghĩa của câu: “Không có tốt nhất, chỉ có tốt hơn.” Thế nên, lúc đó tôi cảm thấy càng học càng chán.
“Triết học của chàng ngốc”
Một hôm, tôi nhận được tin nhắn của anh bạn tham gia thi cao học vòng hai vào Học viện Phiên dịch Cao cấp mà tôi quen hồi ở Bắc Kinh vào tháng Ba. Anh ta phấn khởi báo tin cho tôi biết, anh ta và bạn gái đều trúng tuyển Học viện Phiên dịch Cao cấp. Trong khoảnh khắc đọc mẩu tin nhắn đó, tôi vừa mừng cho họ, vừa lo cho mình, tôi nghĩ tầm này sang năm, liệu mình được treo tên trên bảng vàng giống như hai người bọn họ không? Nhìn đống tài liệu ngổn ngang trước mặt còn chưa đọc hết, rồi còn cuốn sổ tay ghi chi chít những bài dịch xanh xanh đỏ đỏ, tôi bật khóc. Dưới áp lực nặng nề, con người ta trở nên yếu đuối như vậy đấy.
Tôi ngẫm nghĩ, từ khi vào đại học cho đến bây giờ, tôi vẫn luôn đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với bản thân mình, yêu cầu mình phải bù đắp cho những thiếu sót trước đây, yêu cầu mình phải hoàn toàn tạm biệt con người không có chí tiến thủ là tôi ngày trước, yêu cầu mình phải thay đổi số phận của mình bằng chính sự phấn đấu, nỗ lực. Vì vậy, tôi xác định cho mình từng mục tiêu một, càng ngày mục tiêu càng cao hơn, càng khó hơn. Mục tiêu thi đỗ vào Học viện Phiên dịch Cao cấp là mục tiêu lần đầu tiên gây áp lực cho tôi, khiến tôi cảm thấy không thể thở nổi suốt một thời gian dài. Tuy đợt thi GRE cũng rất khổ sở nhưng ít ra tôi không vì thi trượt GRE mà không được đi học. Còn lần thi cao học này không đơn thuần là mục tiêu đi học tiếp, mà nó còn chở cả kỳ vọng và ước mơ của tôi đối với tương lai. Nếu không thi đỗ cao học, có thể sau này tôi không thể đi du học, không thể thực hiện được những lý tưởng tiếp theo. Tôi đột nhiên cảm thấy mục tiêu vào Học viện Phiên dịch Cao cấp cao như thế, ngộ nhỡ mình trượt chân té ngã, chẳng những ngã gãy chân, mà còn tổn thương ý chí của mình. Vì quá coi trọng nó, quá để tâm đến nó, nên tôi trở thành người nặng về được-mất, thậm chí tôi còn chẳng thể hoàn thành kế hoạch đơn giản của mỗi ngày, thành ra “run theo mục đích”.
Lần đầu tiên tôi suy sụp tinh thần kể từ khi học đại học đến nay.
Những lúc tâm trạng không tốt, tôi và Cá Béo Ướp Muối thường thích tới một quán trà nằm đối diện cửa phía Đông của trường, ngồi uống trà và nói chuyện, dốc bầu tâm sự. Quán trà chia làm hai tầng, tầng trên và tầng dưới, không gian yên tĩnh. Chúng tôi chọn một chỗ ngồi cố định ở tầng dưới. Ở đó có ánh đèn ấm áp, và một cái xích đu được làm từ cây mây nguyên chất. Lần này tâm trạng xuống dốc, tôi lại hẹn Cá Béo Ướp Muối đến quán trà trò chuyện. Tôi nói với bạn ấy rằng, tôi có một chút chán nản, sợ mình thi không đỗ. Bạn ấy hỏi, không phải trước đây tôi rất có lòng tin ư? Sao đột nhiên lại cảm thấy mình thi không đỗ? Tôi nói tôi ôn tập rất lâu rồi, nhưng chẳng có tiến triển gì cả, tôi hoài nghi hay là mình đặt ra mục tiêu quá cao, liệu mình có nên suy nghĩ chuyển sang thi trường khác hay không. Cá Béo Ướp Muối nói: “Cậu có biết tại sao chàng ngốc có thể thành công không? Vì chàng ngốc quá ngu ngốc, cho nên bất kể chàng ta có làm được việc hay không, bất kể người khác cười nhạo chàng ta ra sao, bất kể gặp bao nhiêu khó khăn, chàng ta vẫn chỉ làm việc như một thằng ngốc không hơn không kém. Còn người thông minh thì quá thông minh, nên sẽ luôn suy nghĩ xem mục tiêu trước mắt của mình có đúng hay không, có phương pháp nào tốt hơn hay không, có đường tắt rút ngắn thời gian hay không. Cuối cùng người thông minh chọn hết con đường này rồi lại đến con đường khác, với mỗi một con đường, anh ta chỉ vừa mới đi được một đoạn đã lại chuyển sang đường khác, cho nên anh ta quanh quẩn ở chỗ không xa. Trong khi chàng ngốc lại đi suốt một con đường, tuy chàng ta đi với tốc độ chậm, nhưng chàng ta luôn kiên trì. Sau cùng, chàng ngốc đến đích trước người thông minh. Thật ra, triết học thành công của chàng ngốc không có gì phức tạp khó hiểu, cũng không có gì cao siêu thâm thúy, mà chỉ có hai chữ, đó là ‘kiên trì’.” Cá Béo Ướp Muối luôn nghĩ ra rất nhiều ví dụ thiết thực để hình dung về tình huống hiện tại của tôi. Nghe bạn nói, tuy ngoài miệng tôi vẫn đáp “Cậu nói hay thật đấy”, nhưng trong lòng lại cảm thấy rất áy náy, vì tôi biết mình đang thiếu tinh thần kiên gan của chàng ngốc kia.
Lúc đó, tôi nghĩ, mỗi người chúng ta đều tự cho mình thông minh, cho mình nhất định biết vận dụng phương án thông minh hơn vào giải quyết sự việc hiện tại. Rồi, cả những con người cho rằng mình không đủ thông minh cũng làm mọi cách để cho mình trở nên thông minh hơn. Vì vậy, chúng ta đổi hết con đường này sang con đường khác, hết phương pháp này sang phương pháp khác, hết kế hoạch này sang kế hoạch khác, làm việc gì không có đầu mà chẳng có cuối, không kiên trì làm bất kỳ một việc nào, đến cuối cùng tất cả đều thất bại. Tôi bảo Cá Béo Ướp Muối: “Cậu thấy có nực cười không, tớ luôn oán trách bản thân mình không thể thành công, luôn lo sợ về con đường tương lai, sợ tương lai không được như những gì mình mong muốn, nhưng thật ra, tớ chưa làm gì cả, nên tất nhiên sẽ chẳng có tương lai.”
Đúng vậy, tôi chưa làm gì cả, tôi mới chỉ luyện dịch trong vòng ba mươi ngày từ tháng ba cho đến tháng tư. Tôi vẫn chưa nỗ lực kiên trì trong một thời gian dài, thì dựa vào đâu mà hy vọng tương lai chóng đến? Mỗi ngày tôi đều cảm thấy không đủ thời gian, mỗi ngày tôi đều cảm thấy nhiệm vụ quá khó khăn, mỗi ngày tôi đều lãng phí số thời gian ít ỏi còn lại lo lắng về tương lai, căn bản không dành thời gian cho những nỗ lực thiết thực, vậy thì tương lai có thể đến không? Đương nhiên là không thể!
Trong tích tắc, tôi nghĩ thông rồi! Tôi lập tức lấy cuốn sổ tay ra, dùng bút viết một câu như thế này: “Tôi chỉ mong những điều tốt đẹp nhất sẽ đến trong tương lai, và xác định cho mình kế hoạch chắc chắn nhất, chứ tuyệt đối không lãng phí thời gian lo lắng những chuyện đâu đâu, vì tôi biết rằng, chỉ cần tôi tự hứa với bản thân mình sẽ thay đổi thực tế, thì tương lai của tôi sẽ không chỉ là một giấc mơ.” Sau đó, tôi còn đăng câu nói này lên blog, mỗi lần mở blog ra, dòng chữ này lại đập vào mắt tôi, nhắc nhở tôi, cảnh cáo tôi phải dành thời gian cho những nỗ lực hiệu quả, chứ đừng khóc gió than mây khi chưa chịu làm gì hết!
Mạnh Tử nói không sai: “Trời trao nhiệm vụ cao cả cho người nào đó, ắt phải làm khổ tâm trí của anh ta, làm vất vả gân cốt của anh ta, làm đói bụng của anh ta, làm khốn khổ thân xác của anh ta, và làm đảo lộn hành vi của anh ta trước tiên. Sở dĩ ngài làm vậy là vì muốn tâm ý của anh ta bị chấn động, tính tình của anh ta trở nên kiên nhẫn, và bồi đắp khả năng của anh ta”. Để thực hiện những lý tưởng lớn lao sau này, ngay từ bây giờ tôi phải “bồi đắp khả năng” của mình qua những thử thách này. Cũng giống như trước đây, tôi từng ngộ ra rất nhiều đạo lý qua kỳ thi cấp III và đại học, ngay lúc này, kỳ thi cao học cũng đang dạy tôi hiểu ra nhiều đạo lý hơn. Vì vậy, tháng Tư, tôi quyết định tiếp tục thực hiện tất cả những kế hoạch mà mình đã đề ra, thử làm việc mình cần làm với thái độ vui vẻ, tích cực, không nông nổi nữa, không băn khoăn nữa, kiên trì theo đuổi ước mơ ban đầu.
Dịch thuật: Từ “Môn đồ” lột xác thành “Cao thủ võ lâm”
Sau khi tâm trạng chuyển biến tốt lên, ngày nào tôi cũng cắm đầu học rất chăm. Tôi cũng không suy nghĩ quá nhiều đến những thứ không cần thiết, cứ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của từng ngày. Quả nhiên, có cho đi thật sự thì sẽ có nhận lại, sau hơn ba tháng liên tục cố gắng và tích lũy, cuối cùng tôi cũng nhận thấy mình có tiến bộ trên phương diện dịch thuật. Cảm nhận lớn nhất là, lúc dịch từ tiếng Anh sang tiếng Trung, tôi biết diễn đạt “hợp tình hợp lý”: Câu mình dịch ra không còn lủng củng, lúc đọc lên còn có cảm giác bắt sóng tin tức nhanh. Trong quá trình dịch song ngữ, tôi dần dần biết cách phá bỏ giới hạn và sự bó buộc của cấu trúc câu trong ngôn ngữ nguồn đối với ngôn ngữ đích, vận dụng những từ ghép tiếng Anh vừa mới tích lũy được trước đó vào bài dịch.
Qua việc ôn tập nhiều, tôi rút ra hai nhận định về phương diện dịch thuật.
Thứ nhất, dù là dịch thẳng hay là dịch ý cũng đều được quyết định bởi độ chính xác và độ giống của bài dịch: Nếu bài dịch ra chính xác hơn, trung thực hơn so với nguyên gốc và giống với nguyên gốc hơn, thì đó là dịch thẳng; còn ngược lại là dịch ý. Nhưng, do hai loại ngôn ngữ là tiếng Hán và tiếng Anh rất khác biệt, cho nên yêu cầu cơ bản về dịch thẳng cũng tương tự như yêu cầu cơ bản về dịch ý, người ta thường kết hợp hoàn hảo hai yêu cầu này lại với nhau, đây cũng chính là một phương pháp dịch khá phổ biến trong giới dịch thuật hiện nay. Tuy nhiên, việc kết hợp giữa dịch thẳng và dịch ý, nói thì dễ, làm mới khó, muốn kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai phương pháp này, muốn truyền tải hay hơn ý nghĩa của nguyên văn, chúng ta bắt buộc phải không ngừng tìm tòi, học hỏi dần dần qua thực tiễn. Ban đầu, tôi luyện dịch một cách máy móc, hoặc là tôi dịch thẳng, hoặc là tôi dịch ý, đến khi hiểu được cách kết hợp giữa dịch thẳng và dịch ý, nhìn lại những thứ mình dịch ra, tôi thấy chúng mới trúc trắc làm sao. Về sau luyện dịch hơn nửa năm, qua việc so sánh, đối chiếu, phân tích giữa bài dịch của mình và bài dịch tham khảo, tôi mới dần dần tìm được cảm giác dịch thuật.
Thứ hai, phiên dịch là việc thật sự rất khó. Đó là sự thật. Nó vừa đòi hỏi bạn phải có một trình độ hiểu biết nhất định về hai loại ngôn ngữ, vừa đòi hỏi bạn phải có một lượng kiến thức nhất định về rất nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, lịch sử, văn học. Nếu không, thứ bạn dịch ra, hoặc là đọc lên rất kỳ cục, hoặc là đọc lên rất rối rắm, không đạt đến độ giống như nguyên văn. Cho nên, có hai điểm cơ bản nhất cần phải làm để nâng cao kỹ năng phiên dịch: Một là, nắm vững kỹ năng nâng cao hai loại ngôn ngữ; hai là tích lũy kiến thức. Bất kỳ điểm nào trong hai điểm trên cũng đều là một công trình đồ sộ, và cũng đều mất rất nhiều thời gian xây đắp. Mỗi khi tôi cảm thấy mình bỏ ra rất nhiều nhưng chẳng nhận được bao nhiêu tiến bộ, tôi lại nghĩ đến học giả Lâm Ngữ Đường. Ông là chuyên gia dịch thuật tôi kính trọng nhất, cả đời ông đều dốc sức vào văn học, ngôn ngữ học và dịch thuật học, ông dùng thời gian của một đời người mới vươn tới đỉnh cao. So với một dịch giả như ông, những việc tôi làm còn quá nhỏ bé.
Phiên dịch rõ ràng là rất khó, nhưng tại sao có người có thể dịch hay, còn có người lại dịch không hay? Tôi nghĩ, người dịch không hay có lẽ vì trình độ chưa tới. Cũng như luyện công, nhân vật thuộc hàng sư tổ trong tiểu thuyết võ hiệp thường tu hành trong hang núi, còn các nhân vật nhỏ bé lại sa vào những cuộc chiến ác liệt trong chốn giang hồ. Khi người khác đang mải đấu đá nhau, “nhân vật lớn” chuyên tâm tu luyện, cuối cùng cũng mất một thời gian rất dài mới luyện thành võ công cái thế. Tôi nghĩ, luyện dịch cũng giống như đạo lý luyện công. Càng khó làm thì càng phải dày công khổ luyện, tôi nóng lòng mong đợi thành công giống như trước đây là không đúng. Nếu nói mục tiêu của tôi là trở thành võ lâm cao thủ, thì ngay lúc này, tôi cần phải nhẫn nại, bỏ nhiều tâm tư suy xét kỹ càng về nó, bỏ nhiều thời gian cày cuốc nghiêm túc nó, mới có thể từ môn đồ lột xác thành cao thủ võ lâm.
Bởi vậy, tôi mua rất nhiều sách song ngữ của các tác phẩm văn học nước ngoài nổi tiếng về đọc giống như hồi cấp II, cứ có thời gian rảnh là tôi lại nghiên cứu xem người ta đi “ngao du” giữa hai loại ngôn ngữ như thế nào. Lúc đó, tôi mua rất nhiều sách, bất luận là văn học hay tạp chí cũng đều là sách song ngữ Anh Hán. Thời gian trước đây được dùng vào việc học từ vựng, nay đều được chuyển sang đọc sách song ngữ, lúc đọc sách tôi sẽ ngầm dịch trong đầu, sau đó xem bản dịch của người ta. Kể cũng lạ, sau khi đọc nhiều dịch phẩm, trong lòng tôi xuất hiện một loại cảm giác gọi là “chỉ khả ý hội, bất khả ngôn truyền”. Dần dần, tôi cũng không tùy tiện dịch một câu mà chưa suy nghĩ kỹ càng giống như trước đây nữa, bởi vì sau này đối chiếu giữa bản dịch vội và bản dịch tham khảo, tôi hiểu mình không được xem nhẹ vấn đề chuẩn xác và văn phong của bản dịch chỉ vì muốn dịch nhanh. Tôi cũng hiểu mình không được hoàn thành nhiệm vụ một cách qua loa cho xong mà cần phải bỏ nhiều thời gian hơn đắn đo, cân nhắc bản dịch. Mỗi ngày luyện dịch, tôi đều nhắc nhở bản thân mình: Mục tiêu của mình không phải là xem trình độ của mình hơn kém người ta bao nhiêu, mà chủ yếu là ngày hôm nay mình học được bao nhiêu kỹ xảo, tích lũy được bao nhiêu kiến thức, chỉ có như vậy mình mới có thể tiến dần từng bước, từ từ tiến bộ, từ từ tự tin, đi từng bước vững chắc trên con đường phía trước.
Trái tim rộng lớn bao nhiêu thì võ đài rộng lớn bấy nhiêu
Vào kỳ nghỉ hè năm thứ ba đại học, tôi cảm thấy mình đã đạt được tiến bộ rất lớn trên phương diện dịch thuật, nên quyết định đặt trọng tâm ôn thi cao học vào các phần khác. Cũng trong kỳ nghỉ hè này, tôi lại làm một chuyến đến Bắc Kinh tham gia một lớp học thêm chính trị ôn thi cao học. Một mình tôi thuê một căn phòng nhỏ ở khu Hải Điến, sống cùng một nhóm con gái Bắc Phiêu dễ mến. Trong số họ, có người vừa mới tới Bắc Kinh tìm việc, có người đã phấn đấu nhiều năm ở Bắc Kinh, có người đến Bắc Kinh thi cao học, cũng có người đến Bắc Kinh lập nghiệp, mỗi người đều có một câu chuyện riêng, nhưng đều không ngừng theo đuổi ước mơ và kiên trì đứng vững khi không ngừng va chạm với cuộc sống. Trong chuyến đi này, tôi quen được rất nhiều người bạn, nhất là những người bạn cùng ôn thi cao học như tôi. Sau này rời xa Bắc Kinh, họ vẫn luôn động viên, khích lệ tôi rất nhiều. Sự xuất hiện của những người bạn đó giúp tôi cảm nhận được rằng, có lẽ thời gian quen biết dài hay ngắn không quan trọng bằng việc mối quan hệ bạn bè tốt hay xấu. Tình bạn cũng giống như tình yêu, đều dựa vào duyên phận. Trong số những người đi qua cuộc đời chúng ta, có một vài người đúng là càng đi càng xa, lâu ngày không gặp, đến khi gặp nhau cũng chỉ hỏi han dăm ba câu; còn một vài người khác có cùng mục tiêu phấn đấu và cùng lý tưởng cuộc đời thì dù có cách xa bao nhiêu, cũng vẫn quan tâm, động viên nhau, càng ngày càng trở nên thắm thiết.
Sau khi từ lớp học thêm trở về, tôi càng thêm kiên định về sự lựa chọn của mình, nên nội tâm cũng rộng lớn hơn rất nhiều. Mùa hè sân trường vắng vẻ, yên tĩnh, một mình tôi đi đi lại lại, hóa ra lại thành “kị sĩ cô độc” đúng nghĩa. Cũng giống như câu nói, cô độc là cái giá phải trả cho tự do. Tôi không sợ cô độc, không sợ một mình đi tự học và cũng không còn cảm thấy cô đơn quạnh quẽ những khi ở một mình, vì trong lòng tôi có ánh sáng của ước mơ, có hy vọng, có kế hoạch cho tương lai. Mỗi ngày tôi học mười bốn tiếng đồng hồ, nhưng trước sau tôi không cảm thấy mệt, ngược lại tôi còn cảm thấy vui vẻ và hưng phấn, chỉ mong sao buổi tối sau khi ký túc xá tắt hết điện, tôi vẫn có thể chong đèn thêm hai, ba tiếng nữa. Cá Béo Ướp Muối vẫn thường xuyên cổ vũ tôi: “Cá Gầy Ướp Muối, cậu thực sự không biết cậu có sức mạnh lớn như thế nào đâu.” Cô ấy bảo tôi, rồi sẽ có một ngày tôi thành công, nên tuyệt đối không được buông xuôi, bởi vì người buông xuôi là người hèn nhát.
Suốt cuộc đời tôi khó có thể quên năm thứ ba đại học. Từ chuyến đi đến Đại học Bắc Kinh lần đó, tôi rút ra mấy điều tâm đắc. Thứ nhất, con người không nên bị bó buộc bởi hoàn cảnh. Nếu ở vào hoàn cảnh tiêu cực, bạn nên chủ động thử thay đổi hoàn cảnh, chứ không phải bị hoàn cảnh làm cho thay đổi. Còn một khi không thay đổi được hoàn cảnh, thì bạn cần phải nỗ lực thay đổi thái độ của mình, mở ra một lối đi trong nghịch cảnh bằng thái độ tích cực của mình. Có một câu nói rất hay rằng: Đừng thích ứng với hoàn cảnh sinh tồn của bạn một cách mù quáng, vì rất có thể bản thân hoàn cảnh đó không phù hợp với sự phát triển của xã hội này. Thứ hai, con người cần vượt ra ngoài đám đông xung quanh, có tư tưởng và ước mơ của riêng mình. Tư tưởng và ước mơ của đám đông là tư tưởng và ước mơ thuộc về quần chúng, nên dù tốt dù xấu cũng đều không liên quan đến mình. Bạn cần hấp thụ những thứ tích cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những thứ tiêu tực, nhụt chí. Bạn là một cá thể độc lập trong đám đông, lúc nào cũng phải có ước mơ của riêng mình, mục tiêu của riêng mình. Bất luận thế nào, bạn cũng phải giữ cho đầu óc tỉnh táo. Bạn cần nhìn rõ bản thân mình, lấy ưu điểm bù khuyết điểm.
Sau khi trở về từ Đại học Bắc Kinh, tôi hiểu được thế nào là xuất sắc hơn. Bằng sự cố gắng, nỗ lực sau này, tôi nhận ra mình có thể đạt tới trình độ xuất sắc đó, không có trình độ cao tới mức không thể với tới được giống như mọi người nói. Mặt khác, tôi cũng nhận ra, dù mình là một sinh viên đại học bình thường đến từ một ngôi trường chẳng có chút tiếng tăm gì, thì mình cũng vẫn có quyền ước mơ, và cũng vẫn có cơ hội theo đuổi ước mơ, miễn là mình dám nghĩ dám làm. Đó gọi là “trái tim rộng lớn bao nhiêu, võ đài rộng lớn bấy nhiêu”. Vào học kỳ II năm thứ ba, nhờ việc nhà trường bố trí giảng dạy môn dịch và bản thân nghiêm túc ôn tập, nên tôi đã đạt được những tiến bộ rất lớn về phương diện dịch thuật. Nếu như năm thứ tư không xảy ra chuyện được chuyển tiếp cao học, chắc chắn tôi vẫn sẽ tiếp tục ôn tập theo phương án ôn thi cao học của mình: Ôn tập, thi cao học, sau đó chờ kết quả. Nhưng vì sau này được chuyển tiếp cao học nên tất cả kế hoạch của tôi đều bị đảo lộn, để rồi cuối cùng tất cả nỗ lực của tôi trong việc ôn thi cao học cũng chẳng được chứng thực. Tuy vậy, tôi vẫn khắc cốt ghi tâm năm thứ ba đại học.
GHI CHÚ NHỎ
Về các loại sách phục vụ công việc dịch thuật
Dịch thuật khó như vậy chắc chắn phải có kỹ xảo giống như luyện võ – tức là sẽ có những bộ sách quý để mọi người học theo. Trên thị trường hiện có vô số sách vở bàn về kỹ năng dịch, lý luận dịch, ở mỗi một lĩnh vực dịch thuật khác nhau lại có một hệ thống quy tắc nhỏ cần phải tuân theo. Vì lúc đó, tôi muốn thi cao học vào Học viện Phiên dịch Cao cấp của trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh, nên tôi chỉ đọc một cuốn sách mang tính kỹ năng, đó là cuốn Giáo trình giản lược phiên dịch Anh Hán do thầy Trang Dịch Truyền ở Học viện Phiên dịch Cao cấp biên soạn. Tôi cho rằng, chỉ cần chọn mấy cuốn sách tương tự như vậy là đủ, đọc hiểu, đọc thấu, sau đó phải vận dụng những kỹ năng trong sách vào quá trình luyện tập thực tế của mình. Nếu bản thân bạn không luyện dịch, mà chỉ học kỹ năng suông, thì chẳng khác nào bạn chỉ đọc cuốn “sổ tay tuyệt kỹ dạy đi xe đạp”, nhưng không thử đi. Dù kỹ xảo thâm thúy đến đâu, đạo lý đúng đắn đến đâu, cũng đều phải phát huy ánh sáng của nó qua thực tiễn luyện tập.
Về “kiên trì một cách lý trí” với “cố chấp một cách mù quáng”
Ở đoạn trên, tôi có nói đến “sự kiên trì của chàng ngốc”. “Chàng ngốc” là chỉ người không bận tâm suy nghĩ nhiều đến những điều không cần thiết, mà chỉ đơn thuần làm việc mình cần làm. Khi gặp khó khăn, chúng ta dễ dao động hoặc thay đổi mục tiêu, có thể là vì ta sợ phiền phức, sợ thất bại, không muốn bỏ công sức, thì giờ hoặc lười biếng. Nhưng thực ra, dù bạn chọn con đường nào đi nữa, thì bất cứ lúc nào bạn cũng có thể gặp khó khăn, trở ngại trên con đường đó, giống như câu “whole-packege-deal” mọi người vẫn thường nói vậy. Bất luận sự việc có khó đến đâu, thì chỉ cần kiên trì là được, sẽ luôn luôn có một ngày bạn có thể giải quyết được sự việc. Bạn cũng có thể thay đổi mục tiêu, nhưng tôi hy vọng mỗi bước đi của bạn đều tiến về phía trước, chứ không phải là chạy trốn.
Cái gọi là “kiên trì” là chỉ sự kiên trì lý trí, cụ thể là bạn cần phân tích, đánh giá một cách khách quan về điều kiện, hoàn cảnh của mình, từ đó xác định cho mình và cho cuộc đời của mình một mục tiêu đúng đắn, hợp lý. Nếu bạn cảm thấy mình đã xác định được một mục tiêu hợp lý rồi, thì bạn hãy đương đầu với những khó khăn, trở ngại, tiếp tục tiến bước; còn nếu bạn nhận thấy mục tiêu mà mình đã xác định không được hợp lý, thì hãy điều chỉnh cho phù hợp, sau đó tiếp tục tiến về phía trước. “Kiên trì” ở đây không phải là “sự cố chấp mù quáng”, ví dụ như biết rõ là mình đã đi vào ngõ cụt nhưng vẫn không chịu quay đầu lại – cũng như điểm khác biệt giữa “biết chất vấn” và “tự làm khó mình, “quan trọng hóa vấn đề”, “bệnh đa nghi”.
Về “đường vòng cứu nước”
Tôi quyết định, sau khi tốt nghiệp đại học, tôi sẽ ở lại trong nước học cao học rồi mới đi du học, tôi nghĩ đây là một phương án hay tương tự như “đường vòng cứu nước”. Bởi, lúc đó tôi không biết tí gì về việc xin đi du học, tôi cứ tưởng rằng chỉ có sinh viên của các trường đại học nổi tiếng mới có thể gửi hồ sơ vào một trường đại học tốt ở nước ngoài, tưởng rằng mình có thể bù cho điểm trừ về xuất phát điểm là một trường đại học bình thường bằng cách học cao học tại một trường đại học giỏi ở trong nước. Nhưng trên thực tế, thứ hạng hay danh tiếng của các trường đại học, tuy cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc xin đi du học, nhưng nó không phải là nhân tố quyết định, không phải chỉ có sinh viên những trường đại học đứng đầu bảng xếp hạng các trường đại học trong cả nước mới có thể được nhận vào các trường đại học của nước ngoài, càng không phải là sinh viên của những trường đại học bình thường thì không được nhận vào một trường đại học tốt.
Thật sự, nhân tố đóng vai trò quyết định đến việc xét duyệt hồ sơ du học là trình độ tổng hợp xuất sắc của bạn. Trình độ xuất sắc của bạn được thể hiện qua tất cả các tài liệu mà bạn nộp cho trường bên kia, các tài liệu đó bao gồm – nhưng cũng không giới hạn – bản trần thuật cá nhân/viết bài văn mẫu (thể hiện lý lịch cá nhân, lý do xin đi nhập học và trình độ viết tiếng Anh của bạn), sơ yếu lý lịch (thể hiện kinh nghiệm làm việc/thực tập của bạn), điểm thi chứng chỉ ngoại ngữ du học (tức là GRE/GMAT, TOEFL/IELTS,… thể hiện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Anh), thư giới thiệu (thể hiện tố chất nhân phẩm và kỹ năng chuyên nghiệp của bạn), bảng điểm (thể hiện thành tích học chuyên ngành của bạn)… Đôi khi những tài liệu này còn có tác dụng bổ sung bù đắp cho nhau, ví dụ, mặc dù bạn đến từ một ngôi trường xếp hạng bình thường ở trong nước, nhưng nếu bạn có kinh nghiệm làm việc xuất sắc hoặc là được một người có uy tín viết thư giới thiệu, thì điều đó có thể nâng cao khả năng trúng tuyển của bạn.
Vì thế, ngoài con đường lớn dẫn thẳng đến thành Roma ra, không phải chỉ có một con “đường vòng cứu nước”. Nếu như trường học hoặc thành tích học tập của bạn không quá nổi trội, thì bạn cũng có thể bù đắp bằng nhiều cách khác nhau như, tối ưu hóa sơ yếu lý lịch, tìm người tài giỏi viết thư giới thiệu. Có thể lấy lý lịch cá nhân của tôi làm mẫu chẳng hạn, mặc dù nó cũng không phải là con đường duy nhất.
Trăm vị cuộc đời năm thứ tư đại học
Khúc biến tấu chuyển tiếp Cao học
Ngày 17 tháng 9 năm 2006 là ngày đầu tiên bắt đầu năm học thứ tư, chúng tôi vinh dự trở thành những sinh viên đàn anh, đàn chị. Vào ngày đầu tiên khai giảng năm học mới này, toàn trường tổ chức đại hội động viên sinh viên tốt nghiệp dành cho sinh viên năm cuối, chủ đề chung là tìm việc làm, thi cao học và động viên tinh thần cho toàn thể sinh viên. Cũng trong đại hội động viên, thầy giáo nói chính sách chuyển tiếp cao học của cả nước có thay đổi, năm nay cả ba khoa ngoại ngữ trong trường chỉ được lấy tất cả chín bạn chuyển tiếp sinh cao học, trong đó khoa tiếng Anh được năm người, hai mươi bạn có thành tích học tập đứng đầu khoa đều có tư cách nộp đơn xin chuyển tiếp cao học. Mọi người lập tức bàn tán xôn xao thông tin này. Bố mẹ và các bạn học xung quanh tôi đều cho rằng đây là một cơ hội rất tốt, bọn họ khuyên tôi nên thử nộp đơn. Vì vậy, tôi quyết định nộp đơn xin chuyển tiếp cao học, đồng thời tiếp tục cố gắng duy trì kế hoạch ôn thi cao học của mình trong thời gian chờ đợi nhà trường xét duyệt. Ngờ đâu, cuộc sống ôn thi cao học bình lặng của tôi trước đó bắt đầu nổi sóng gió từ ngày hôm ấy.
Từ hôm nộp đơn xin chuyển tiếp cao học, ngày nào tôi cũng chạy đi chạy lại giữa văn phòng khoa, phòng làm việc của nhà trường và phòng giáo vụ tìm thầy cô giáo viết thư giới thiệu, tìm nơi in bảng thành tích, và tìm lãnh đạo xin chữ ký, trong nhiều ngày liên tục tôi không thể ăn cơm đúng giờ, buổi tối cũng không thể ngủ yên giấc. Trải qua mỗi khó khăn, trở ngại bất ngờ ập đến, tôi cảm nhận được từng cung bậc cảm xúc mong đợi, lo lắng, thất vọng, buông xuôi, phẫn nộ, tranh thủ từng phút từng giờ, và vui mừng khôn xiết. Tất cả những cảm xúc đó đều góp phần tạo nên năm vị đắng, cay, chua, ngọt, mặn của cuộc đời. Nửa tháng ngắn ngủi đó tưởng như dài chín năm. Đa phần các trường đều sắp xếp đợt thi vòng hai cho những sinh viên được chuyển tiếp học vào khoảng giữa tháng Mười, nhưng lúc đó đã là cuối tháng Chín rồi mà tôi vẫn suốt ngày bận bịu làm các loại giấy tờ, thủ tục, không thể chuyên tâm ôn thi vòng hai.
Một hôm tôi đi tìm bố khóc lóc tỉ tê, tôi nói cuộc sống của mình dạo này rất “điên loạn”, có quá nhiều việc cần phải làm mà chẳng biết kết quả cuối cùng sẽ như thế nào, rất có thể tôi không những không được chuyển tiếp cao học mà còn lỡ dở việc ôn thi bình thường, có quá nhiều thứ khiến tôi không thể kiểm soát được, tôi nói tôi hối hận vì đã nộp đơn xin chuyển tiếp cao học. Sau khi nghe tôi kể lể, bố yên lặng ngẫm nghĩ rồi nói: “Hay là bố đưa con đi thảo nguyên chơi một lần nhé, được không?” Tôi ngạc nhiên, đưa cặp mắt đỏ hoe nhìn bố. Bố hỏi tôi có muốn đi không, tôi nói tôi không biết. Vì vậy, bố nói dứt khoát như chém đinh chặt sắt: “Thôi được rồi, bố thấy con cũng không có chủ kiến gì, vậy thì nghe lời bố đi. Chúng ta đi, bây giờ xuất phát! Tới thảo nguyên ở một tối rồi sáng mai lại về. Hai bố con mình tự lái xe đi du lịch một chuyến cho con cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn. Con thật sự quá mệt mỏi rồi.” Bố mau chóng gọi điện cho người của công ty xin nghỉ, rồi thu dọn hành lý. Tôi mụ mẫm cả người, hỏi lại: “Thật hả bố? Bây giờ mình đi luôn?”
Một tiếng sau, chúng tôi đã bắt đầu lái xe chạy trên con đường cao tốc dẫn tới thảo nguyên. Trên xe chỉ có ba người, gồm tôi, bố tôi và hướng dẫn viên du lịch tư nhân. Bố mỉm cười xoa đầu tôi, nói: “Có thể coi đây là tour du lịch VIP dành cho hai người là bố và con gái bố đấy.” Tôi nhìn nụ cười của bố, nước mắt cứ thế trào ra. Và thế là tôi khóc suốt dọc đường đi, tôi muốn khóc cho hết những uất ức, tủi hờn trong lòng. Tôi nhìn bầu trời, ngỡ ngàng bởi màu xanh da trời trong vắt của nó, ở trong thành phố tôi chưa bao giờ nhìn thấy một màu xanh thuần khiết như thế. Bố mở rất nhiều bài hát về thảo nguyên cho tôi nghe, nghe những bài hát đó luôn làm cho tâm trạng con người trở nên thư thái, rộng mở. Khi xe chạy men theo sườn núi, bố vừa lái xe vừa nói với tôi: “Con nhìn ngọn núi xa xa kia, một lát nữa chúng ta sẽ đi đến đó.” Tôi ngẩng đầu nhìn, hít vào một hơi thật sâu, thầm nghĩ: Ngọn núi đó cao và xa thật đấy, cũng giống như cuộc đời mỗi người luôn có những ngọn núi cao nối đuôi nhau chạy dài, đợi ta vượt qua.
Xe chạy rất lâu, rồi cuối cùng cũng đến được thảo nguyên. Bố tìm cho tôi một đoàn ngựa, hướng dẫn tôi cưỡi ngựa. Chúng tôi cưỡi ngựa đến một cái Ngao Bao, hướng dẫn viên du lịch nói ở đây có một truyền thuyết: Cầm ba hòn sỏi đi vòng quanh Ngao Bao ba vòng theo chiều thuận rồi đi ngược lại ba vòng, sau đó cầu nguyện một điều ước, ném sỏi vào Ngao Bao, tâm nguyện sẽ trở thành hiện thực. Tôi lượm sỏi và cũng bắt đầu đi vòng quanh Ngao Bao, vừa đi vừa khóc, nói hết những điều trong lòng mình muốn nói cho Ngao Bao nghe. Sau đó, tôi ném sỏi vào Ngao Bao, cúi người cầu nguyện: “Xin thần linh cho con có tâm trí kiên cường để con có thể vượt mọi chông gai, bước đi trên con đường mình đã chọn.”
Trở về trại, đoàn chúng tôi ngồi quây quần bên đống lửa ăn món thịt dê đặc sản và nhảy múa, ca hát. Tôi chơi “thả ga” suốt một buổi tối. Tôi nghĩ từ khi vào đại học, dường như tôi đã biến thành một người hoàn toàn khác, không còn phóng túng, không còn mải chơi như trước đây nữa, đây là lần xả hơi đầu tiên của tôi trong ba năm trở lại đây. Hơn mười hai giờ đêm, lửa trại sắp tàn, mọi người đều mệt, ba người chúng tôi về lều của người Mông Cổ nghỉ ngơi. Ban đêm ở thảo nguyên quả thật rất lạnh, tôi nằm xuống thảm, đắp bao nhiêu lớp chăn, mà vẫn trằn trọc, không sao ngủ được.
Đột nhiên bố vỗ vỗ người tôi từ phía sau, khẽ nói: “Dậy đi con, bố con mình lái xe trên thảo nguyên!”Tôi cúi đầu nhìn đồng hồ, cũng gần một giờ sáng rồi. Tôi nói: “Hả? Bây giờ sắp một giờ sáng rồi mà bố!” Bố cười bí hiểm, nói chắc nịch: “Dậy đi, bố đưa con đi tìm một cảnh giới…” Tôi ngây ngô không hiểu: “Cảnh giới gì ạ?” Bố đáp: “Ở sâu trong thảo nguyên có cảnh giới gọi là…” Tôi chưa kịp hỏi thêm, thì đã bị bố kéo ra khỏi lều.
Một giờ sáng, không khí rất lạnh. Bố lái xe chở tôi từ khu lều của người Mông Cổ trên thảo nguyên chạy thẳng ra đường quốc lộ trong đêm tối. Tôi vẫn ở trong trạng thái ngơ ngác, vì không biết bố muốn làm gì, nhưng khuôn mặt bố toát lên vẻ hào hứng, đắc ý. Ban đêm có rất ít xe cộ qua lại trên đường quốc lộ, thi thoảng chúng tôi mới gặp một, hai chiếc ô tô tải đi ngược lại. Mỗi khi phía trước có một chiếc xe chạy tới, bố đều chuyển đèn xe từ đèn chiếu xa thành đèn chiếu gần. Sau khi bố chuyển đèn xe, đối phương cũng sẽ làm như vậy. Cho dù người lái xe bên kia không làm vậy, bố vẫn lịch sự chuyển đèn xe. Bố nói: “Con xem, đó là sự ngầm hiểu và tôn trọng lẫn nhau giữa người với người khi đi đường trong đêm tối. Cho dù họ không làm vậy, thì con cũng nên làm vậy, vì đó là việc làm đúng. Bất luận người khác đối xử với con như thế nào, con cũng phải làm những việc đúng đắn.”
Xe chạy trên đường quốc lộ ước chừng hơn chục phút rồi rẽ vào sâu trong thảo nguyên. Bố đột nhiên dừng xe lại, nói: “Con thử lái xe nhé.” Tôi thích lái xe của bố nhất, nghe lời đề nghị đó, tôi hăng hái nhảy vào ghế lái xe. Nhưng, sau khi xe khởi động tôi bắt đầu cảm thấy sợ hãi, vì thảo nguyên đang được bao bọc trong màn đêm đen kịt, không có phương hướng, không có đường đi. Đi xe ở đây giống như là đi xe trong một đường hầm tối om om. Tôi cố banh mắt nhìn ra đằng xa, nhưng vẫn không nhìn rõ đường. Tôi căng thẳng, kêu tướng lên:“Bố, con phải lái qua chỗ nào đây? Trời tối quá, con không nhìn thấy đường!” Bố ngồi ở ghế phụ xe, nhẹ nhàng dùng tay trái lái vô-lăng, nói: “Con không cần nhìn ra xa thế đâu, con cúi đầu nhìn ngay chỗ đèn xe chiếu xuống, chỉ cần nhìn vào chỗ cách xe năm mét về phía trước, tự nhiên con sẽ tìm thấy đường đi.” Tôi bèn thu tầm mắt lại, nhìn xuống mặt đất gần nơi đèn xe rọi xuống, quả nhiên tìm được đường đi.
Chạy xe một hồi lâu, chúng tôi đỗ lại trên thảo nguyên, tắt đèn, tắt ga, chỉ mở nhạc trong xe, bố bật bài Vẻ đẹp ban đêm của thảo nguyên cho tôi nghe. Hai giờ sáng, tôi nằm trên mui xe, xung quanh là một màu đen, u tịch, chỉ có tiếng nhạc, tiếng hít thở và tiếng gió thổi nhè nhẹ, đây là lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận được không gian yên tĩnh, tịch mịch và tối đen như mực, chìa bàn tay ra không nhìn thấy năm ngón. Tôi ngẩng đầu nhìn màn đêm, ở đây sao đầy trời. Cũng lâu lắm rồi tôi chưa ngẩng đầu ngắm sao, sự rối ren, phức tạp của chốn đô thị thậm chí còn khiến con người quên đi mất vẻ đẹp của bầu trời ban đêm. Những ngôi sao trên thảo nguyên đều rất sáng, tôi có cảm giác chúng ở rất gần mình, gần đến mức tưởng chừng như tôi có thể đưa tay với tới được. Tôi và bố bắt đầu tìm các chòm sao, chúng tôi tìm được chòm sao Bắc Đẩu và chòm sao Orion lâu ngày chưa nhìn thấy… trong phút chốc ngắm nhìn trời sao, lòng tôi mở rộng ra. Bây giờ tôi viết những cảm nhận đó vào đây, có lẽ bạn không thể tưởng tượng được, nhưng hễ nhắm mắt lại, tôi lại có thể mường tượng lại rõ ràng những cảm xúc đó.
Sáng hôm sau, chúng tôi lái xe quay trở lại thành phố. Không khí trong thành phố vẫn ngột ngạt, giao thông vẫn tắc nghẽn, nhưng tâm trạng của tôi không giống như vậy. Chuyến đi tới thảo nguyên quả là đã xoay chuyển cục diện, mang tới vận may cho tôi, vào lúc tháng Chín trắc trở sắp sửa qua đi, tôi được chuyển tiếp cao học, tiếp theo đó tôi lập tức triển khai công tác chọn trường. Vì vốn dĩ mục tiêu thi cao học của tôi là Học viện Phiên dịch Cao cấp thuộc trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh, cho nên ngôi trường đầu tiên tôi chọn là Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh, ngoài ra tôi còn chọn Học viện Ngoại ngữ số hai Bắc Kinh – một ngôi trường cũng rất mạnh về chuyên ngành tiếng Anh. Sau khi chọn được trường, tôi bắt đầu chuẩn bị tài liệu cho một vòng chiến đấu mới, download mẫu đơn xin nhập học, điền thông tin, in ấn, chỉnh sửa và in lại lần nữa. Sau đó tôi đựng tất cả thư xin học, bảng điểm, thư giới thiệu, bản sao các loại giấy tờ, chứng thực… và cả niềm hy vọng chan chứa trong lòng vào một phong thư khổ lớn, cùng bỏ vào trong hộp thư màu xanh, gửi đến phương xa.
Gửi hồ sơ xong, tôi lại bắt đầu nôn nóng chờ đợi. Cuối tháng Chín, tôi vẫn chưa nhận được bất cứ thông tin gì liên quan đến việc thi vòng hai. Lúc đó, tôi chẳng còn lòng dạ nào mà học, toàn bộ việc ôn tập đã bị dừng lại, hàng ngày tôi đều sống trong tâm trạng lo lắng, phiền muộn. Đến khi Học viện Phiên dịch Cao cấp, Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh thông báo về đợt thi vòng hai thì đã là đầu tháng Mười rồi, thời gian thi được ấn định vào ngày 11 tháng Mười. Tôi giở cuốn lịch ra xem, chỉ còn có mười ngày ôn tập, cảm giác trời sắp sập đến nơi. Nhưng, tôi cũng chẳng hơi đâu mà bận tâm suy nghĩ nhiều chuyện như thế, tôi chuyển toàn bộ tài liệu ôn tập về nhà, chuẩn bị lợi dụng kỳ nghỉ Quốc khánh kéo dài bảy ngày để ở nhà ôn tập. Đầu tiên, tôi lên mạng nghiên cứu nội dung thi vòng hai của Học viện Phiên dịch Cao cấp, và nhận thấy đề thi có ba phần: Dịch nghe, dịch nhìn và phỏng vấn (năm đó chúng tôi thi vòng hai như vậy, không biết bây giờ có còn thi như vậy nữa không). Trước đó, tôi chưa ôn tập một phần nào. Bắt đầu từ ngày thứ nhất trong kỳ nghỉ Quốc khánh, cứ sáu giờ sáng hàng ngày tôi thức dậy, nghe bản tin trên VOA luyện phần dịch nghe, buổi chiều và buổi tối luyện phần dịch nhìn, mãi đến hai giờ sáng mới đi ngủ. Luyện tập ròng rã bảy ngày trời, cổ họng, mắt, đầu và cả người tôi đều đau như muốn nổ tung ra. Tối ngày thứ tám, tôi ngồi tàu hỏa đi Bắc Kinh, trong tay vẫn ôm khư khư cuốn The Economist (Nhà kinh tế học) luyện dịch nhìn.
Khi cuốn lịch được lật sang ngày 11 cũng là lúc tôi phải đối mặt với kỳ thi cao học vòng hai vào Học viện Phiên dịch Cao cấp, Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh. Tôi coi kỳ thi này là thời khắc quyết định vận mệnh của mình, vì Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh là nơi tôi hướng đến từ rất lâu rồi, tôi rất rất coi trọng nó, cảm giác lần thi này chứa đựng tất thảy ước mơ của tôi trong tương lai. Nhưng sự thật tàn khốc là tôi chỉ có mười ngày chuẩn bị, bất luận là về khách quan hay về tâm lý chủ quan, tôi đều cảm thấy mình chưa chuẩn bị chu đáo. Quả nhiên không nằm ngoài dự liệu, tôi thiếu mấy điểm nữa mới với tới được ngôi trường lý tưởng của mình.
Nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi cho rằng lần thất bại đó cũng không hẳn là một trải nghiệm tồi tệ. Mẹ nói, bất cứ những gì con trải qua đều có ý nghĩa của nó, con phải biết học hỏi kinh nghiệm từ trong những trải nghiệm thành công, đồng thời rút ra bài học từ trong những trải nghiệm thất bại. Có lẽ tôi cũng xác định trước rằng mình không có duyên với trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh. Chả là, nếu như lúc đầu tôi thi đỗ Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh, thì sẽ không có tất cả những chuyện sau này. Như đoạn trên tôi có nói, thay đổi một quân cờ cũng có nghĩa là thay đổi cả bàn cờ. Nên dù có nuối tiếc nhưng tôi không hối hận.
“Phạm Tiến thi đỗ”
Mấy ngày sau đó ở Bắc Kinh, tôi ngơ ngác như người mất hồn: Không thi đỗ Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh, còn Học viện Ngoại ngữ số hai Bắc Kinh vẫn chưa có tin tức gì, không biết mình có cơ hội thi vòng hai vào trường này hay không. Tôi gọi điện đến hỏi, lần nào nhà trường cũng trả lời là chờ đợi. Tôi không nhớ rõ mấy ngày hôm đó mình sống như thế nào, tôi bắt đầu hoài nghi lựa chọn chuyển tiếp cao học liệu có đúng đắn không, bắt đầu suy nghĩ nếu như không được chuyển tiếp cao học, mình cứ chỉn chu ôn tập theo mục tiêu đã định có phải tốt hơn không. Tôi muốn lên mạng xem đợt thi cao học vòng hai của Học viện Ngoại ngữ số hai Bắc Kinh sẽ thi những gì, nhưng lúc đó, tôi thật sự không cho nổi cái gì vào đầu. Mỗi ngày tôi đều cảm thấy sợ hãi, vì không biết tương lai sẽ xảy ra chuyện gì. Điện thoại di động của tôi liên tục réo, gửi đến hết tin mừng này đến tin mừng khác: Những bạn học khác được chuyển tiếp cao học lục tục trúng tuyển các trường Đại học Bắc Kinh, Đại học Nhân dân Trung Quốc, Đại học Phúc Đán, Đại học Sơn Đông,… chỉ còn mình tôi là vẫn ở trong trạng thái lơ lửng. Nhìn khuôn mặt tiều tụy của mình ở trong gương, tôi cố động viên bản thân bằng câu “Trời trao nhiệm vụ cao cả cho ai…” nhưng tất cả những sự động viên, khích lệ ấy đều chẳng có tác dụng.
Một mình tôi lên tàu điện ngầm ra ngoài giải tỏa cảm xúc, ngồi trên tàu tôi vẫn không ngừng nghĩ ngợi lung tung, trong lòng có rất nhiều lời không biết nói cùng ai: Tôi không dám nói với bố mẹ, vì không muốn để họ lo lắng cho tôi; tôi cũng không dám nói với bạn học, vì không muốn làm ảnh hưởng đến tâm trạng ôn thi cao học của họ. Đang suy nghĩ mông lung như vậy, tôi bật khóc, mọi người ở trên tàu nghĩ tôi bị điên. Đúng lúc đó, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ số máy lạ. Tôi nhấc máy, vì sóng kém, đầu dây bên kia nói có nhiều tạp âm, nên tôi chỉ nghe loáng thoáng câu được câu chăng: “Ban tuyển sinh cao học Học viện Ngoại ngữ số hai Bắc Kinh… hồ sơ của bạn… bước đầu thẩm xét… ngày 15… thi vòng hai… mời bạn kiểm tra thông tin trên mạng…” Trong phút chốc nghe được tin này, tôi như được tiêm một liều dope, lập tức đứng phắt dậy, xuống trạm xe gần nhất, xộc thẳng vào một tiệm internet, lên mạng kiểm tra thông tin. Là thật, đúng là thật rồi! Ông trời không tuyệt đường của con người! Hôm đó là vào ngày 13, hai ngày sau sẽ là đợt thi cao học vòng hai vào Học viện Phiên dịch Cao cấp! Tôi thu dọn hành lý nhanh như chớp, từ khu Hải Điến chuyển đến khu Triều Dương.
Tất cả những việc diễn ra sau này đều thuận lợi đến mức khó tin. Mặc dù chưa có bất kỳ sự chuẩn bị nào, nhưng nhờ vào thái độ tích cực, tôi đã thể hiện xuất sắc trình độ của mình trong đợt thi cao học vòng hai vào Học viện Ngoại ngữ số hai Bắc Kinh. Tuy lúc đó vẫn chưa biết kết quả thi, nhưng tôi tin chắc rằng mình thắng. Hôm sau về đến nhà, tôi cảm thấy tất cả những gì mình đã trải qua trong mấy ngày vừa rồi ở Bắc Kinh tựa như một giấc mơ, cảm thấy tất cả vừa xa xôi vừa chân thật. Sau đó là thời gian chờ đợi dài lê thê. Ngày biết kết quả, tôi vẫn đang miên man ngủ. Không biết tôi đã ngủ được bao lâu rồi, bỗng nhiên nghe thấy tiếng chuông điện thoại, tôi uể oải, ngáp ngắn ngáp dài, cầm lấy điện thoại, đầu dây bên kia là một giọng nữ trong trẻo, nói: “Chào bạn, tôi là người đại diện cho ban tuyển sinh cao học Học viện Ngoại ngữ số hai Bắc Kinh, tôi gọi điện thông báo cho bạn một tin là bạn đã trúng tuyển.” Tôi không dám tin vào tai mình. Tôi ném điện thoại đi, chạy như bay đến trước chiếc máy vi tính, quả nhiên tìm được tên của mình trong danh sách trúng tuyển cao học đăng tải trên website của nhà trường. Tôi đưa tay gạt vội giọt nước mắt ướt nhòe khóe mi để nhìn màn hình cho rõ, nhưng nước mắt lại ào ào tuôn rơi.
Lần đầu tiên tôi hiểu được cảm giác “Phạm Tiến thi đỗ”.
Viết đến đây, tôi thấy mình hơi lố, nào có phải là tôi đỗ Đại học Harvard, Đại học Yale gì cho cam, chuyện bé tí xíu như thế mà cũng có thể làm tôi kích động đến vậy. So với những sinh viên xuất sắc vừa được chuyển tiếp nghiên cứu sinh tại Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, tôi chỉ là một tiểu tử vô danh, thành tích ít ỏi đó có đáng kể gì. Nhưng, đối với cá nhân tôi mà nói, vào lúc tôi nghĩ rằng mình phải nhìn lại tất cả mọi thứ từ những sự thất bại thuở nhỏ cho đến sự đốn ngộ thời đại học và cả những đả kích liên tiếp xảy ra sau này, lại có một niềm vui bất ngờ hiện ra ở trước mắt mình, nên tôi không thể nén được niềm vui. Cuối cùng sau những cố gắng, nỗ lực trong bốn năm đại học, tôi đã thực hiện được nguyện vọng hồi đi thi đại học năm đó là thi đỗ một trường đại học ở nơi khác. Và quan trọng hơn là, bằng chính sự nỗ lực của mình, tôi đã đặt bước chân đầu tiên trên con đường đi đến mục tiêu lớn hơn: Du học!
Đột nhiên, tôi cảm thấy tất cả những gì mình đã bỏ ra trước đây đều xứng đáng. Ba năm trước đó ngày nào tôi cũng thức dậy vào lúc sáu giờ sáng, phấn đấu từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn, khi người khác chơi, tôi học; khi người khác dạo phố, tôi học; khi người khác chìm trong giấc ngủ, tôi học; khi người khác nghỉ ăn tết, tôi học. Cuộc sống có phần đơn điệu, tẻ nhạt, nhưng trước sau tôi không quá xót xa cho bản thân mình. Kể ra, lúc đó tôi cũng thật ngu ngốc, tôi chỉ tâm tâm niệm niệm là mình phấn đấu vì ước mơ, nên hàng ngày cứ ra sức phấn đấu. Nhớ dịp trung thu năm thứ hai đại học, nhà nhà đoàn viên, ngay cả những người bạn từ tỉnh khác đến đây học cũng túm năm tụm ba ăn uống linh đình, thế mà tôi không về nhà ăn bữa cơm đoàn viên cùng mọi người, một mình ở trong phòng tự học. Phòng học trở nên yên tĩnh, vắng vẻ, tôi vừa ngắm nhìn những tràng pháo hoa nở bung giữa màn đêm, vừa lẩm nhẩm học từ vựng, cảm thấy mình rất hạnh phúc. Lúc đó, mỗi ngày tôi đều đặt ra cho mình một kế hoạch kín mít, nếu có thể hoàn thành nhiệm vụ của một tuần, tôi sẽ tự thưởng cho mình một buổi chiều chủ nhật lên thư viện xem một bộ phim, còn buổi tối vẫn tiếp tục tự học như thường. Đáng, tất cả đều thực sự xứng đáng!
Tiếp xúc thân mật với tổ phụ đề Vườn địa đàng
Lúc bấy giờ ở trên mạng đang thịnh hành câu nói: Cuộc sống của người được chuyển tiếp cao học giống như heo, cuộc sống của người đi làm giống như chó, còn cuộc sống của người ôn thi cao học thì chẳng bằng heo, cũng chẳng bằng chó. Quả nhiên, sau khi được chuyển tiếp cao học, tôi sống một cuộc sống giống như heo, không phiền muộn về chuyện ôn thi cao học, cũng không có những áp lực tìm việc sau khi tốt nghiệp. Cuối cùng sau bốn năm đại học, lần đầu tiên tôi cũng biết thế nào là cảm giác buổi sáng muốn ngủ đến mấy giờ thì ngủ. Không những vậy, tâm hồn ham chơi của tôi bị bó buộc suốt bốn năm qua cũng được hồi sinh. Tôi lên mạng chat chit, xem phim truyện, lùng phim Hàn, chơi game online, hát karaoke… Tất nhiên là phải thật “rình rang” để tự thưởng cho mình.
Có lẽ con người cần phải mất một thời gian rất dài mới có thể từ trạng thái sa ngã vươn đến trang thái phấn đấu, nhưng chỉ cần một cái chớp mắt là ta cũng có thể từ trạng thái phấn đấu rớt xuống trạng thái sa ngã. Tuần đầu tiên sống như con heo, tôi cảm thấy rất ổn. Tuần thứ hai, cảm thấy thoải mái. Tuần thứ ba, cảm thấy tự tại. Tuần thứ tư, cảm thấy bất an… Mặc dù tôi vẫn phải đối diện với kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8, đối diện với việc làm khóa luận và bảo vệ khóa luận vào học kỳ II năm thứ tư, nhưng tôi không muốn nói lời tạm biệt cuộc sống nhàn rỗi này quá sớm, tính lười biếng vô tình kéo tôi ngày một rời xa con đường phấn đấu.
Khi tôi đang tự thưởng cho mình một kỳ nghỉ lớn, vui chơi không biết chán, thì có một sự vật mới lạ bước vào cuộc sống của tôi, đó là tổ phụ đề. Thật ra, tôi bắt đầu mê phim Âu Mỹ từ hồi cấp II, vì lúc đó tôi thường xuyên cùng mẹ xem các bộ phim điện ảnh lớn của Mỹ chiếu trên Rạp hát trung thực và CCTV6. Về sau, nhà tôi mua đầu DVD, cuối tuần nào tôi cũng tới cửa hàng băng đĩa thuê rất nhiều đĩa phim về xem cùng với mẹ. Tuy tôi vẫn mê xem phim, nhưng tôi chẳng có bất kỳ khái niệm gì về phụ đề, thậm chí tôi còn không biết đến sự tồn tại của nó. Tôi hồ đồ cho rằng phụ đề tiếng Trung của mỗi bộ phim đều đi kèm với bộ phim đó sau khi nó được công chiếu.
Một lần, tôi và mẹ thuê phim National treasure (Kho báu quốc gia) ở cửa hàng băng đĩa về xem, phụ đề tiếng Trung dịch hỏng bét, thật không biết dùng lời nào để hình dung nữa. Trong phim có một tình tiết mà đến giờ tôi vẫn nhớ: Nicolas Cage phản ánh với nhân viên bảo vệ của bảo tàng rằng có người định đánh cắp Tuyên ngôn độc lập, mong họ đưa ra biện pháp bảo vệ, nhưng họ không thèm đếm xỉa đến lời cảnh cáo của anh ta. Nicolas Cage quá giận dữ, bỏ ra ngoài đứng ở đại sảnh, nhìn chằm chằm vào Tuyên ngôn độc lập. Cao thủ máy tính ở bên cạnh hỏi anh ta tính làm thế nào. Anh ta nói một câu tiếng Anh được coi là điểm sáng đánh dấu sự chuyển hướng toàn bộ nội dung của phim, đại ý là: Bọn họ đã không chịu đề phòng tên trộm, để Tuyên ngôn độc lập không bị người khác trộm mất, tôi chỉ còn cách lấy trộm nó trước. Xem đến đây, tôi cười ha ha, nhưng mẹ không có phản ứng gì. Tôi hỏi sao mẹ không cười thế? Bà hỏi lại tôi sao phải cười? Tôi tua lại đoạn phim đó, xem phụ đề, trời ơi, thì ra phụ đề tiếng Trung đang kể một câu chuyện hoàn toàn khác…
Từ đó, tôi ngầm hạ quyết tâm, hy vọng sau này sẽ có một ngày mình có cơ hội dịch phim, hy vọng bộ phim mình dịch có thể làm mẹ hiểu nội dung câu chuyện, làm mẹ khóc chỗ đáng khóc và cười chỗ đáng cười, vậy là tôi mãn nguyện rồi. Từ khi có quyết tâm này, mỗi lần xem phim, tôi thường đặc biệt chú ý đến phần phụ đề của bộ phim.
Vào năm thứ ba đại học, đài truyền hình Fox của Mỹ chiếu bộ phim Prison break (Vượt ngục), như một cơn lốc cuốn vào Trung Quốc đại lục. Trước đây, mọi người gặp nhau đều hỏi “Anh ăn cơm chưa?”, bây giờ câu cửa miệng biến thành “Tuần này anh xem Prison break (Vượt ngục) chưa?”. Đương nhiên, tôi cũng nằm trong nhóm mê Prison break, tuần nào đến giờ chiếu phim tôi cũng chăm chú ngồi xem, tâm trạng cũng thay đổi lúc vui lúc buồn, lúc lên lúc xuống theo diễn biến của bộ phim. Tôi là đứa chậm hiểu, mãi đến khi xem đến tập mười mấy rồi, tôi mới chợt nhận ra cuối phim có một dòng phụ đề, ghi thông tin tuyển dụng của tổ phụ đề Vườn địa đàng. Tôi cực kỳ hưng phấn, trong tích tắc tôi quyết định vào topic của tổ phụ đề ghi tên ứng tuyển mà không hề do dự, sau đó bắt đầu thành khẩn chờ đợi.
Không lâu sau, có một người lạ hoắc nhắn tin vào QQ của tôi, tự giới thiệu là “người điều hành tổ phụ đề Vườn địa đàng”, tôi bỗng cảm thấy căng thẳng. Tôi vốn tưởng rằng, nhân vật thuộc cấp bậc điều hành phải là người cực kỳ nghiêm khắc, nhưng sau khi trao đổi với người này, tôi mới nhận ra bạn ấy là một người nhiệt tình, thân thiện, và cũng là một nữ sinh dễ mến, rất say sưa tìm hiểu tiếng Anh và phim ảnh. Bạn ấy cho tôi dịch thử một bộ phim tài liệu, nói về một nhóm người chơi trò chơi ô chữ. Để hoàn thành bài phụ đề này với chất lượng cao, không biết trước sau, tôi đã xem đi xem lại bộ phim và phụ đề bao nhiêu lần, nghiền ngẫm từng câu từng chữ một, cố gắng dịch ra những câu thoại Trung văn phù hợp nhất với tình tiết của bộ phim và giọng điệu của nhân vật. Tuy chỉ có ba trăm câu phụ đề ngắn ngủi, nhưng tôi phải làm việc liên tục sáu tiếng đồng hồ trong tiệm internet mới hoàn thành xong. Lần sau cùng, tôi bật phụ đề xem phim, thấy câu mình dịch xuất hiện ở phía dưới màn hình và không ngừng thay đổi theo tiết tấu lời thoại của nhân vật, tôi cảm thấy thật kỳ diệu. Nộp xong “bài tập”, tôi cứ thấp tha thấp thỏm. Không ngờ, sau mấy ngày nóng lòng chờ đợi, bạn điều hành dễ mến lại gửi cho tôi bài dịch thử lần hai, bạn ấy mong tôi dịch thử một lần nữa để kiểm tra xem trình độ của tôi có ổn định hay không. Bây giờ tôi không nhớ rõ bộ phim thứ hai tôi dịch thử là bộ phim nào, nhưng có một điều chắc chắn là tôi vẫn làm việc bằng thái độ cẩn trọng, hoàn thành nhiệm vụ với thời gian nhiều gấp đôi thời gian dịch thử lần một và độ tỉ mỉ cao gấp mười lần trước. Và cuối cùng, tôi cũng vượt qua hai vòng kiểm tra sát hạch, đường đường chính chính gia nhập tổ phụ đề Vườn địa đàng!
Sau khi tham gia vào tổ phụ đề, tôi mới nhận ra đây là một đại gia đình ấm cúng nhường nào. Dù mọi người không quen biết nhau trong cuộc sống, dù mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau, và đến từ những ngành nghề khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một tình yêu đối với phim truyện, phim truyền hình Mỹ, tiếng Anh, và có mối liên hệ mật thiết với nhau bởi tổ phụ đề thần bí này. Quá trình làm việc cùng tổ phụ đề lấp đầy khoảng trống trong cuộc sống và tâm hồn của tôi từ sau khi tôi bước vào thời kỳ nản chí vì được chuyển tiếp cao học. Tôi tựa như ngọn cỏ nhỏ bé đã lâu rồi chưa được tưới nước, nên thỏa thuê hút nhựa sống từ việc nhận nhiệm vụ làm phụ đề cho từng bộ phim. Thời gian đầu mới nhận dịch phụ đề, tôi làm việc rất hăng say, tôi không phân biệt thể loại phim, không phân biệt phim cũ phim mới, cũng không phân biệt phim có sự tham gia diễn xuất của ngôi sao lớn hay không, chỉ cần có phim mới ra là tôi nhất định sẽ nhận ba trăm câu phụ đề. Dần dần, tôi đã yêu công việc làm phụ đề này, mỗi lần nhận nhiệm vụ mới, tôi đều dụng tâm làm việc giống như lần đầu tiên. Sau khi dịch xong, tôi sẽ gắn phụ đề vào thước phim, xem đi xem lại nhiều lần cho đến khi nào đảm bảo không có bất kỳ một sai sót gì mới nộp sản phẩm, cho dù là một dấu câu hay một ký hiệu tôi cũng đều không chịu bỏ qua. Sau khi người hiệu đính sửa lại phụ đề tôi dịch, tôi sẽ tiến hành so sánh đối chiếu tỉ mỉ giữa bản phụ đề gắn trên phim trước khi hiệu đính và sau khi hiệu đính xem rốt cuộc mình sai ở đâu, có chỗ nào không hiểu sẽ lại hỏi mọi người. Công việc làm phụ đề rất vất vả, vì hai mắt phải dán vào màn hình máy tính hàng giờ đồng hồ, liên tục cắt chỉnh giữa hai khung đối thoại của phim và phụ đề, đồng thời đầu óc cũng phải suy nghĩ nhạy bén về việc dịch câu tiếng Anh kia như thế nào sao cho “đúng vị”. Nhiều khi tôi mải làm đến quên ăn, ngồi trong tiệm internet liền tù tì bảy tám tiếng đồng hồ. Tuy vất vả cực nhọc là thế, nhưng giây phút nhìn thấy hai chữ “Koala Xiaowu” xuất hiện trên màn hình tivi, tôi cảm thấy bao nhiêu vất vả cũng đều xứng đáng.
Trong quá trình làm phụ đề, tôi dần dần nhận thấy, xem phim học phụ đề cũng là một phương pháp học tập rất có hiệu quả nâng cao năng lực tiếng Anh. Trước đây xem phim, tôi chỉ xem qua loa, cốt là nắm được nội dung bộ phim, chứ chưa bao giờ tôi thật sự để ý tìm hiểu ý nghĩa cụ thể của từng câu thoại. Nhưng, từ khi bắt đầu làm phụ đề, do đặc thù “công việc” của tôi yêu cầu tôi bắt buộc phải hiểu ý nghĩa chính xác của từng câu thoại, phải tra cứu rõ ràng những từ ghép, từ địa phương không hiểu, chỗ nào không biết thì tuyệt đối không được dịch bừa, nếu không rất có thể sẽ mắc phải lỗi sai tương tự như trong bộ phim National treasure (Kho báu quốc gia) mà tôi từng xem. Ngoài ra, tôi không những phải hiểu chính xác ý nghĩa Anh văn, mà còn phải dịch phụ đề sang tiếng Trung theo thói quen nói chuyện của người Trung Quốc. Tuy chúng ta có thể tóm gọn cả quá trình này lại bằng hai chữ “hiểu” và “dịch”, nhưng qua quá trình làm phụ đề, tôi học được rất nhiều kiến thức, không chỉ về tiếng Anh, mà còn bao gồm cả văn hóa và lịch sử phương Tây. Tôi có cảm nhận làm phụ đề cũng giống như hồi đầu tôi luyện dịch tin tức, chẳng qua là chuyển sang một đối tượng dịch khác, thú vị hơn.
Sự tiếp xúc thân mật giữa tôi và tổ phụ đề tựa như sự tán tỉnh, yêu đương giữa hai người đang yêu nhau, ba tháng đầu gần như là yêu điên cuồng. Kỳ nghỉ đông tham gia vào tổ phụ đề năm đó, gần như tôi đã hy sinh cả kỳ nghỉ của mình cho sự nghiệp làm phụ đề. Tôi cũng quên béng mất kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8 sắp diễn ra và coi nhẹ việc làm khóa luận tốt nghiệp tuần tự từng bước, tôi ung dung hưởng thụ cuộc sống sau khi được chuyển tiếp lên cao học, ngày ngày cắm chốt ở tiệm internet, đánh vật với mỗi câu phụ đề. Có cho đi thì sẽ có nhận lại, không lâu sau tôi được thăng chức làm hiệu đính phụ đề, gánh trên vai nhiệm vụ nặng nề hơn, tôi không những phải sửa chỗ sai trong bài dịch của người khác, mà còn phải trau chuốt, tô điểm cho ngôn ngữ dịch của người ta. Dưới sự giới thiệu của người điều hành tổ phụ đề, tôi lại bắt đầu bước chân vào việc dịch nghe trailer phim và dịch nghe các bộ phim lớn, phim hot, về sau lại làm hiệu đính bộ phận dịch nghe. Càng ngày công việc càng có nhiều thử thách hơn, nhưng cũng thú vị hơn, và quan trọng là tôi cũng học hỏi được nhiều thứ hơn.
Tôi nhớ, lúc đó phim The pursuit of happyness (Mưu cầu hạnh phúc) do diễn viên Will Smith thủ vai chính là một bộ phim lớn đầu tiên tôi nhận dịch, tôi mới xem hơn một nửa bộ phim đã cảm thấy vô cùng xúc động rồi, nên lập tức đăng ký tham gia dịch nghe. Tôi bận suốt hai ngày ở tiệm internet, cuối cùng cũng hoàn thành nhiệm vụ, trong lòng tràn đầy cảm giác thành tựu. Tôi từng nhận một nhiệm vụ dịch nghe thú vị nhất, đó là dịch bộ phim Mr. Bean’s holiday (Kỳ nghỉ của Mr. Bean), anh chàng Bean trong phim trước sau như một, luôn tỏ ra là một người hóm hỉnh, hài hước và ngờ nghệch, tôi vừa xem phim, vừa làm phụ đề, cười lăn lộn từ đầu đến cuối, cho nên làm xong phụ đề tôi không hề cảm thấy mệt chút nào. Nhiệm vụ dịch nghe khó khăn nhất của tôi là dịch bộ phim Pirates of the Caribbean 3: At World’s End (Cướp biển vùng Caribbean 3: Nơi tận cùng của thế giới), nữ diễn viên Naomie Harris trong phim mang đậm chất giọng Jamaica, điều này đã làm khó tôi. Sau này tôi mới biết, thật ra Naomie Harris sinh ra ở Anh, cô vốn có một giọng nói London chuẩn, còn giọng nói trong phim là do bà mẹ người Jamaica của cô huấn luyện cho cô mà ra. Cái thứ tiếng Anh Jamaica mà cuối cùng cô luyện ra đó khiến tôi tiêu tốn không biết bao nhiêu ngày đêm. Nhiệm vụ dịch làm tôi cảm động nhất là bộ phim The buket list(Niềm sống) do Morgan Freeman và Jack Nicholson thủ vai chính, kể về câu chuyện của hai người bạn già tưởng chừng như chẳng có điểm tương đồng nào về tính cách, nhưng số phận run rủi, căn bệnh ung thư giai đoạn cuối lại ghép cả hai vào chung một phòng bệnh, họ cùng nhau lên kế hoạch thử sống vui vẻ trong những năm tháng còn lại của cuộc đời, vì quá yêu thích bộ phim này nên tôi nhận hiệu đính toàn bộ 1052 câu phụ đề. Khi hiệu đính phụ đề, tôi cố gắng lục lọi trong đầu những từ tiếng Trung cảm động nhất, cố gắng truyền tải ý nghĩ diễn viên muốn diễn đạt bằng những câu thoại tiếng Trung hay nhất. Cho đến tận bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn tìm lại bộ phim đó, xem qua một chút, nhìn vào những dòng phụ đề tiếng Trung chạy phía dưới màn hình, tôi lại bồi hồi nhớ lại cảnh tượng và cảm nhận của mình khi làm nhiệm vụ lúc đó. Bên cạnh đó, còn có nhiệm vụ dịch nghe đáng sợ nhất là trailer phim Saw 4 (Lưỡi cưa 4), tôi nhớ trong đó có một câu thoại là nhân vật trong phim hét lên khi đang hoảng sợ, để nghe rõ câu này, tôi phải liên tục cho chạy lại đoạn phim đó, mỗi lần xem lại là một lần sợ hãi, vì sợ hãi nên nghe lại một lần không rõ, tôi lại phải nghe lại lần nữa, và một lần nữa lại sợ hãi…
Bắt đầu từ năm thứ tư đại học cho tới trước khi đi Mỹ, tôi làm việc ở tổ phụ đề ước chừng hơn hai năm, từ một thành viên bình thường đến một người điều hành dày dạn kinh nghiệm, trước sau tôi đã làm phụ đề cho hơn hai trăm bộ phim truyện, phim truyền hình Mỹ và trailer phim, trong thời gian này tôi còn có vinh dự đặc biệt khi được chuyển từ tổ phim truyện sang tổ phim truyền hình làm phụ đề cho mấy tập phim Prison break, xem như tôi đã hoàn thành được một tâm nguyện nhỏ của mình là dịch bộ phim Prison break mà tôi cực kỳ yêu thích, một đỉnh cao của nghệ thuật thứ bảy. Trong hai năm đó, tôi học hỏi được rất nhiều điều ở tổ phụ đề, không chỉ là về phương diện tiếng Anh, mà hơn thế, tôi đã có một trải nghiệm ý nghĩa và khó quên. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được cảm xúc mãnh liệt của những người yêu thích phim ảnh và tiếng Anh cùng tụ tập cố gắng vì công việc chung; lần đầu tiên tôi hiểu được thế nào là ngoài người có người, ngoài trời có trời, rồng núp hổ nằm, cao thủ nhiều như mây; và cũng lần đầu tiên tôi cảm động bởi tình yêu của tất cả mọi người trong tổ dành cho tiếng Anh và sự cống hiến vô tư của họ. Vì tôi đã từng trải qua công việc làm phụ đề nên tôi hiểu toàn bộ quá trình này vất vả như thế nào. Ở đây, tôi xin gửi lời tri ân đến tất cả những người làm phụ đề cho phim truyện và phim truyền hình Mỹ.
Trời chỉ giúp người nào biết tự cứu lấy mình
Thế giới kỳ diệu trong phim vẫn luôn khép lại. Mỗi khi xem xong một bộ phim, làm xong một phần phụ đề, ra khỏi tiệm internet, trở về ký túc xá, tôi không muốn mình bị kéo về cuộc sống hiện thực, nhìn vào gương, tôi tự nói với mình: “Mi không phải là cô bạn học trong Spider-Man (Người nhện), cũng không phải là người đẹp trong Pirates of the Caribbean (Cướp biển vùng Caribbean), mi chỉ là một sinh viên năm cuối của một trường đại học bình thường, sắp tốt nghiệp, tương lai còn phải dựa vào sự phấn đấu của chính bản thân mi, nếu như mi không chịu phấn đấu thì tương lai của mi sẽ chỉ là con số không.”Trước đây, tôi vẫn luôn nhắc nhở bản thân mình: Ngày trước mình học bạt mạng như thế, giờ tự thưởng cho mình một chút cũng là lẽ đương nhiên. Nhưng, thời gian như bóng câu lướt qua cửa sổ, chớp mắt đã qua hơn hai tháng rồi mà tôi vẫn cho mình nghỉ ngơi vô thời hạn. Cảm giác áy náy ngày một tăng lên, cảm giác lo lắng cũng ngày một nặng thêm. Tôi biết còn có rất nhiều việc đang đợi tôi làm, tôi biết tôi đang lãng phí thời gian, lãng phí cuộc đời, tôi biết tôi cần phải thay đổi, nhưng tôi hoàn toàn không có động lực. Tôi tự hỏi: Rốt cuộc mình phải làm thế nào?
Mẹ tôi quả là một người phụ nữ tinh tế và nhạy cảm, bà lờ mờ nhận ra sự thay đổi của tôi. Đầu tháng Giêng, bà thấy bốn năm hôm tôi đều ở lì trong nhà, thức suốt đêm lên mạng, bèn hỏi tôi: “Khi nào con thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8? Con ôn tập đến đâu rồi?” Nghe mẹ hỏi vậy, tôi bỗng cảm thấy căng thẳng, mặt dày trả lời: “Tháng Ba con mới thi cơ ạ, không việc gì phải vội.” Nói xong tôi cũng không dám tin vào tai mình là tôi vừa nói “không việc gì phải vội”, vì thật ra trong lòng tôi nóng như lửa đốt rồi! Mẹ lại hỏi tiếp: “Mấy hôm nay con không kiên trì nghe chương trình phát thanh tiếng Anh nữa à?”Tôi lại mặt dày thêm lần nữa, nói dối: “Con vẫn nghe đấy chứ mẹ.”Đó là một lời nói dối trắng trợn, thực tế thì quả pin trong chiếc đài đã chảy nước ra rồi. Sau khi mẹ “gạn hỏi” xong, mặt tôi đỏ bừng, tôi không còn mặt mũi nào để đối diện với sự quan tâm, lo lắng của mẹ, vì thế tôi trốn về ký túc xá. Tôi nghĩ, chắc là tôi bị bệnh mất rồi, bệnh tâm lý!
Trở về trường, tôi ngẩn người khi trông thấy cô bạn cùng phòng ở trong ký túc xá, bạn ấy nói bạn ấy chỉ đảo về nhà lấy ít đồ, rồi lại lập tức quay lại trường tiếp tục tự học. Bạn ấy vừa dọn dẹp đồ đạc, vừa nói với tôi: “Gần đây mọi người đều sống rất khổ sở, người thì khổ vì ôn thi cao học, người thì khổ vì đi tìm việc, ai cũng có nỗi khổ riêng của mình.” Bạn ấy vừa nói dứt lời, tôi liền hỏi: “Vậy cậu thấy dạo này tớ sống thế nào?” Bạn ấy chậm lời, nói: “Tớ cảm thấy cậu có một số phiền muộn, thành ra không tự tin.”Nghe vậy tôi dựng đứng người, bạn ấy nhìn ra tâm sự của mình rồi! Tôi sợ làm mất thời gian của bạn ấy, nên cũng không nói chuyện nhiều, cố làm ra vẻ bình tĩnh, leo lên giường đi ngủ trưa.
Tỉnh dậy, tôi nhìn thấy trên bàn có một mẩu giấy, là bạn cùng phòng để lại cho tôi. Bạn ấy viết: “Bạn yêu dấu, tỉnh dậy hãy vui lên nhé! Qua một năm chuyện trò qua lại và sống cùng cậu, thật lòng tớ cảm thấy rất vui và tự hào vì có một người bạn tốt, tính tình rộng rãi, tự tôn, nhạy cảm, kiên cường và hòa đồng như cậu, thật ra tớ đã xem cậu như chị em gái của mình từ rất lâu rồi! Cậu đã từng leo lên ngọn núi rất cao của cuộc đời. Người xưa nói, trời chỉ giúp người nào biết tự cứu lấy mình. ‘Dục cùng thiên lý mục, cánh thướng nhất tằng lâu!’ Bọn mình cùng cố gắng nhé!” Xem xong mẩu giấy, những phiền muộn dồn nén bấy lâu trong lòng tôi đều được trút sạch. Bạn ấy nói đúng, trước đây tôi từng leo lên ngọn núi rất cao của cuộc đời. “Dục cùng thiên lý mục, cánh thướng nhất tằng lâu.” Cuộc đời sẽ không ngừng lại chỉ vì tôi đã leo lên được một ngọn núi nào đó. Trong bức tranh tươi đẹp của cuộc đời mình, vẫn luôn có những ngọn núi hùng vĩ hơn, cao hơn và xa hơn, đợi tôi chinh phục. Nếu vì đạt được một thành tích nhỏ, mà dừng bước chân tiến về phía trước, thì cuộc đời của tôi sẽ chỉ có những hồi ức đáng tiếc. Thành công trong quá khứ không thay thế được cho hiện tại, và càng không chiếu rọi được cho tương lai. Khi hoàn thành mục tiêu của một giai đoạn, tôi cần phải xóa sạch tất cả những gì mình đã đạt được, cần phải phấn đấu lại từ đầu. Mẹ tôi nói, sự đốn ngộ của con người xảy ra trong tích tắc. Lúc đó, tôi lại đốn ngộ một lần nữa. Cái cảm giác thanh thản, thoải mái đó giống hệt như cảm giác đốn ngộ hồi tôi đứng ở cổng trường nhìn hàng biểu ngữ chào mừng tân sinh viên vào ngày đầu tiên nhập học. Trời chỉ cứu người nào biết tự cứu lấy mình, nếu tôi không tự cứu lấy mình thì còn ai có thể cứu được tôi?
Sáng sớm ngày hôm sau, đúng sáu giờ ba mươi phút chuông đồng hồ báo thức kêu inh ỏi, tôi choàng mở mắt, từ trên giường bật xuống đất, vội vàng đánh răng rửa mặt rồi cầm chiếc đài bám đầy bụi xuống dưới tầng. Tôi lắp cho nó quả pin mới mua, sau đó dò kênh VOA, và thế là tôi lại được nghe những âm thanh quen thuộc. Trên con đường đi tới trường, bầu trời toàn là một màu tối đen như mực, nhưng trong lòng tôi rực sáng, dường như tôi nhìn thấy ánh sáng dẫn lối tới tương lai. Cuối cùng tôi cũng tìm lại được quyết tâm, nghị lực, can đảm và kiên định của mình. Cảm giác vững tâm đã lâu rồi mới thấy lại ấy làm tôi cảm thấy thật dễ chịu. Cuối cùng tôi cũng chiến thắng chính mình, tự cứu lấy chính mình.
Giờ nhìn lại, tôi thấy chuyện này hơi có mùi khóc gió than mưa – một người được chuyển tiếp cao học, có tư cách gì mà oán trách những điều không vừa ý trong cuộc sống? Nhưng, có nhiều khi, tôi cảm thấy cuộc sống nhàn rỗi của mình giống như nữ yêu dưới lòng biển – bọn họ dịu dàng xinh đẹp, nhưng lại mang độc tố chết người, có thể làm tê liệt não bộ của tôi, làm nhụt ý chí của tôi. Tuy việc được chuyển tiếp cao học giúp tôi loại trừ được mối lo trong một khoảng thời gian ngắn sau khi tốt nghiệp, nhưng nó không thể đem lại cho tôi cảm giác an toàn về lâu dài. Từ những việc đã trải qua lần này, tôi học được một đạo lý lớn nhất là không tính toán thiệt hơn, tức là con người không nên vì thất bại mà nản chí buông xuôi, càng không nên vì thành công mà đắc ý quên hình. Thuở nhỏ, tôi đã từng vấp phải những đạo lý như thế này vô số lần, giờ tôi cũng lĩnh ngộ được ý nghĩa sâu xa của chúng qua những trải nghiệm thực tế của mình.
“Tiêu diệt” kỳ thi Tiếng Anh chuyên ngành cấp 8 và cảm nghĩ tốt nghiệp
Khi thật sự tìm lại được cảm giác phấn đấu, tôi chỉ còn cách thời gian diễn ra kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8 hơn một tháng. Tôi mang tất cả số tài liệu ôn tập tiếng Anh chuyên ngành cấp 8 mà mình đã mua từ trước ra xem, vạch một kế hoạch ôn tập tường tận. Nhìn vào bản kế hoạch, bao nhiêu sức mạnh trong con người tôi lại trỗi dậy mạnh mẽ. Phương pháp ôn tập cho kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8 cũng tương tự như phương pháp ôn tập các kỳ thi khác tôi từng tham gia trước đó. Bước đầu tiên, tôi phân tích đề thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8, làm rõ cấu trúc đề thi và phạm vi kiểm tra. Bước thứ hai, tôi làm thử một đề thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8 cũ để đánh giá xem khả năng hiện giờ của mình như thế nào, xem mình bị mất nhiều điểm ở phần nào, và cần ôn tập bổ sung phần nào. Trọng tâm của phần cần ôn tập bổ sung là phải tập trung ôn tập nội dung cốt lõi. Còn những phần khác thì có thể duy trì trình độ qua việc giải đề thi.
Lúc đó kế hoạch ôn tập của tôi là: Phần nghe – vẫn kiên trì nghe đài VOA và BBC để luyện Extensive Listening và Extensive Reading, và tiếp tục luyện Intensive Listening theo giáo trình Nhập môn nghe tiếng Anh. Phần đọc, tôi tiếp tục kiên trì đọc tạp chí The Economist (Nhà kinh tế học). Ngoài ra, tôi còn làm các bài đọc hiểu trong tài liệu ôn tập tiếng Anh chuyên ngành cấp 8 của Nhà xuất bản Giảng dạy Ngoại ngữ Thượng Hải. Phần kiến thức nhân văn – chỉ có một chữ là học thuộc. Phần sửa sai – luyện tập theo những cuốn sách viết riêng về phần sửa sai trong tủ sách Loạt sóng xung kích. Phần dịch – vẫn ôn tập theo phương pháp ôn tập dịch thuật trước đây, luyện dịch song ngữ Anh Hán dựa vào cuốn English Digest (Trích dịch Anh văn). Bên cạnh đó, tôi vẫn dành thời gian làm phụ đề phim. Về phần viết – lúc đó tôi không chăm chỉ luyện tập, mãi đến khi sát nút kỳ thi, tôi mới hoàn thành mấy bài viết. Còn tất cả số thời gian ít ỏi còn lại, tôi đều dùng vào việc học từ vựng tiếng Anh chuyên ngành cấp 8.
Vì tôi bắt đầu ôn tập lúc chỉ cách kỳ thi một tháng, nên thời gian rất eo hẹp, nhiệm vụ ôn tập mỗi ngày rất nặng nề, thời gian biểu kín mít, từ sáu giờ sáng đến một giờ đêm, lúc nào tôi cũng ở trong trạng thái chiến đấu căng thẳng, không có nghỉ ngơi giải lao. Hàng ngày, tôi vừa học tập vừa lo lắng, sốt ruột, nhìn thời gian ngày một ít đi mà tôi vẫn còn bao nhiêu nhiệm vụ chưa hoàn thành. Mẹ bảo tôi: “Con tuyệt đối không được gật gù đắc ý vì còn nhiều thời gian ôn tập, càng không được tự khinh khi vì còn ít thời gian, con phải học dần dần từng chút một, nhất thiết không được nản chí ngã lòng.” Lúc đó, trường tôi vắng vẻ, rộng rãi vì các bạn thi xong cao học đều về nhà ăn tết hết rồi. Trường bước vào kỳ nghỉ, chỉ có sinh viên chuyên ngành tiếng Anh phân tán rải rác ở các phòng tự học khác nhau, chịu khó học tập. Tôi và Cá Béo Ướp Muối nghe lại bài hát Cá ướp muối, dùng câu “Bạn thật sự không biết bạn có sức mạnh lớn như thế nào đâu” cổ vũ nhau. Sau ba mươi ngày ôn tập vất vả, cuối cùng cũng đến ngày “khổ tận cam lai”. Tuy sau này điểm thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8 của tôi ở dưới mức hạng “Ưu” một điểm, cho dù có một chút nuối tiếc, nhưng tự đáy lòng, tôi vẫn cảm thấy hài lòng vì học kỳ II năm thứ tư đại học tôi đã chiến thắng được chính mình.
Sau kỳ thi tiếng Anh chuyên ngành cấp 8, tôi chuyển sang hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp và chuẩn bị trả lời phản biện, không kịp nghỉ ngơi. Nhưng vì sắp sửa tốt nghiệp, tôi luôn ở trong tâm trạng buồn bã và không nỡ rời xa mái trường, cũng vì thế không thật chú tâm vào khóa luận. Ngày ra trường, nhìn cảnh tượng nhân viên làm việc ở tòa nhà chính đang chế tác biểu ngữ chào đón tân sinh viên khóa 2007, tôi bỗng bị kéo về bốn năm trước khi tôi vừa mới chân ướt chân ráo bước vào trường. Lúc đó, tôi cảm thấy hoang mang đơn độc và bất lực, tôi không biết mình phải làm sao mới có thể vượt qua bốn năm cực khổ dài đằng đẵng này. Về sau, sự xuất hiện của cô giáo Trịnh đã làm tôi thay đổi hoàn toàn, cô dạy tôi hiểu được giá trị của phấn đấu và ý nghĩa của việc học. Còn sự xuất hiện của Cá Béo Ướp Muối lại khiến tôi không còn cô đơn, không còn lưỡng lự trên con được phấn đấu nữa. Mỗi một thành công cũng như mỗi một thất bại – dù lớn, dù nhỏ mà tôi từng trải qua, vô hình giúp tôi khôn lớn và trưởng thành. Mỗi một ngày trong bốn năm qua dường như đang hiển hiện ở ngay trước mắt tôi. Khi quay đầu nhìn lại sân trường này, tôi cảm thấy nó là nơi đẹp nhất, có tòa nhà đẹp nhất, hồ nước đẹp nhất và những khuôn mặt cười đẹp nhất thế gian. Lúc đầu, tôi chỉ mong sớm đi khỏi nơi này, đi càng xa càng tốt, nhưng đến khi thực sự phải rời xa nó, trong lòng tôi lại có nghìn vạn lần không nỡ.
Cuối cùng tôi cũng hiểu, thì ra hoàn cảnh không quyết định số phận con người, mà nó chỉ có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới ta mà thôi. Nếu trái tim của bạn đủ kiên định, và mạnh mẽ, thì bạn hoàn toàn có thể tác động ngược trở lại hoàn cảnh, chứ không phải bị hoàn cảnh nuốt chửng. Thời điểm mới tới đây, ở sâu tận đáy lòng mình, tôi luôn cảm thấy tự ti, vì những người bạn thân từ thuở ấu thơ của tôi đều bước ra thế giới rộng lớn bên ngoài, còn mình tôi vẫn ở lại mảnh đất này. Nhưng, sau bốn năm, tôi không còn cảm thấy tự ti nữa, cũng không còn cúi gằm mặt vì những gì mình từng trải qua trước đây nữa, ngược lại, tôi cảm thấy hãnh diện về ngôi trường của mình, cảm thấy tự hào vì mình là một thành viên trong đó. Tôi không sợ thất bại, cũng không sợ bị té ngã nữa, vì tôi hiểu, sẽ luôn có cơ hội nằm trong khó khăn, trở ngại, dù bị té ngã, tôi cũng sẽ đứng dậy một lần nữa, tiếp tục tiến về phía trước. Tuổi trẻ không sợ thất bại. Chỉ cần con tim vẫn đập, thì tất cả vẫn còn có hy vọng.
Bốn năm đại học đã làm tôi thay đổi hoàn toàn – tôi không hề nói quá. Lần đầu tiên tôi hiểu được ý nghĩa của việc học, ý nghĩa của phấn đấu; hiểu được làm thế nào mình mới có thể làm cho cuộc đời trở nên vui vẻ, hưng phấn; hiểu được làm thế nào mình mới có thể không oán trách không hối hận; hiểu được thời gian đầu vào đại học sở dĩ mình cảm thấy hoang mang là vì không có mục tiêu, không có kế hoạch; hiểu được chỉ có năng tìm tòi, năng thực hành mới có thể tìm được hướng đi phù hợp với mình. Bốn năm trở lại đây, mỗi khi gặp việc đột xuất, tôi không còn nổi giận đùng đùng như trước nữa, cũng không nước mắt ngắn dài hỏi mẹ tìm cách giải quyết, mà trước hết, tôi sẽ trấn tĩnh, tự nói với bản thân mình rằng: Đừng rối, cố gắng nhìn rõ xem nút thắt của vấn đề nằm ở đâu, sau đó phân tách vấn đề lớn thành những vấn đề nhỏ, giải quyết từng cái một. Trong bốn năm đại học, tôi biết lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, biết làm việc có đầu có đuôi, biết chịu trách nhiệm với cuộc đời của mình, và biết giữ lời hứa với bản thân mình cũng như giữ lời hứa với người khác.
Nhìn lại bốn năm đại học, tôi có bao cảm xúc đan xen lẫn lộn. Những năm tháng sinh viên để lại trong tôi một hồi ức khó quên, trong những bước chân in dấu trên chặng đường phấn đấu đó có cả mồ hôi, nước mắt và những nụ cười xuất phát từ đáy lòng. Nếu như có bạn hỏi tôi: Em phải làm thế nào mới có thể khiến bốn năm đại học trôi qua một cách ý nghĩa? Tôi nghĩ, chắc chắn mình sẽ trả lời bạn đó rằng: Bốn năm nghe có vẻ khá dài, nhưng thời gian không chờ đợi ai cả, dù bạn có muốn hay không, thì con tàu thời gian cũng vẫn lặng lẽ chạy về phía trước mà chẳng đợi bước chân của bạn, càng chẳng bận tâm đến tâm trạng của bạn. Dù bạn đã chuẩn bị tốt hay chưa, thì thời gian bốn năm cũng sẽ nói tạm biệt với bạn chỉ trong chớp mắt. Cho nên, những người hiểu rõ ước mơ của mình, hãy mau mau đi tìm con đường thực hiện ước mơ; còn những người không hiểu rõ ước mơ của mình, hãy đọc nhiều sách vở hơn, suy ngẫm nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, để sớm tìm ra ước mơ thuộc về mình. Bạn muốn làm việc gì thì hãy can đảm làm việc đó, nếu có ước mơ, bạn hãy can đảm giữ lấy nó, dù lúc đầu tẻ nhạt cũng không sao, hãy giữ ước mơ cho thật chặt.
Trong bốn năm đại học, có lúc tôi từng nghiêm túc, có lúc tôi từng hồ đồ làm nhiều việc “điên rồ”. Giờ nhìn lại, tôi thấy mình học được rất nhiều từ những kinh nghiệm thành công, và còn có nhiều thu hoạch hơn từ chính những bài học thất bại. Cho nên, đối với bốn năm đó mà nói, tôi thật sự không oán trách, cũng không nuối tiếc điều gì. Nhưng, giống như câu nói người bạn cùng phòng trong ký túc xá nhắc nhở tôi: “Dục cùng thiên lý mục, cánh thướng nhất tằng lâu.” Muốn đạt được tiến bộ lớn hơn trong cuộc sống sau này, tôi phải xóa sạch tất cả những gì mình đạt được trước đây – bất luận tôi đạt được thành tích như thế nào trong thời đại học, thì kể từ ngày đầu tiên tốt nghiệp, sẽ phải cố gắng lại từ đầu. Tương lai còn chưa biết thế nào, về cuộc sống cao học, chứng chỉ ngoại ngữ du học, về xin học bổng, về lựa chọn, về kiên trì… còn có bao nhiêu việc tôi cần làm.
Một vòng phấn đấu mới sắp bắt đầu.
GHI CHÚ NHỎ
Về “xem phim truyện, học tiếng Anh”
Có người cho rằng, chúng ta thật sự có thể nâng cao kỹ năng nghe, nói tiếng Anh của mình bằng cách xem nhiều phim truyện Âu Mỹ và phim truyền hình Mỹ, nhưng cũng có người cho rằng, đến cuối cùng phương pháp đó cũng chỉ là cái cớ nhằm thỏa mãn ước muốn xem phim cho sướng mắt mà thôi. Như đoạn trên tôi từng nói, có thể coi việc xem phim truyện và phim truyền hình Mỹ là một phương pháp học tiếng Anh, có điều tính hiệu quả của phương pháp này còn tùy thuộc vào từng người. Nếu bạn tìm phương pháp đúng, đi con đường đúng và kiên trì trong một thời gian dài, thì đương nhiên có thể coi đây là một phương pháp học tập hiệu quả: Trong phim vừa có tình tiết sinh động, vừa có ngôn ngữ bản địa, nghiễm nhiên những cuộc đối thoại giữa các nhân vật cũng có thể coi như bài luyện nghe TOEFL. Nếu nghiêm túc, bạn còn có thể nắm được một số bối cảnh tri thức văn hóa phương Tây và từ ngữ địa phương, hà cớ gì không vừa xem phim vừa học tiếng Anh? Song mấu chốt của câu hỏi rốt cuộc phương pháp này có hiệu quả hay không nằm ở ba chữ “học tiếng Anh”, chứ không phải là “xem phim truyện”. Không ít người xem phim rồi bị cuốn vào những tình tiết trong phim, “xao động” theo diễn biến nội dung câu chuyện, cuối cùng là thưởng thức phim chứ chẳng học được câu tiếng Anh nào ra hồn.
Vậy làm sao mới có thể vận dụng phương pháp này vào học tiếng Anh một cách hiệu quả? Nếu bạn muốn dùng phương pháp này để luyện nghe, thì mấu chốt nằm ở “nghe”. Đầu tiên, bạn tìm một bộ phim mà mình thích, sau đó lên mạng download bản phụ đề tiếng Anh và phụ đề tiếng Trung của bộ phim đó. Việc download phụ đề chính xác rất quan trọng, vì nó giống như bạn cầm nguyên văn bài nghe trong tay khi luyện nghe vậy. Sau khi hoàn tất công tác chuẩn bị, bạn có thể bật phần phụ đề, xem hết bộ phim một lượt. Đến khi hiểu được nội dung bộ phim rồi, bạn hãy xem lại bộ phim từ đầu đến cuối, nhưng lần này, bạn phải tắt phần phụ đề tiếng Anh và tiếng Trung đi, chăm chú nghe từng câu. Nghe một lần không hiểu thì nghe lại lần nữa, nếu thật sự vẫn không hiểu, lúc này bạn mới mở phần phụ đề tiếng Anh ra xem rốt cuộc người ta nói câu đó có ý nghĩa gì. Quá trình luyện tập này cũng như phương pháp luyện Intensive Listening trong giáo trình Nhập môn nghe tiếng Anh mà tôi đã nói đến ở trên.
Nếu bạn muốn dùng phương pháp xem phim để luyện nói, thì vừa phải xem phim vừa phải đối chiếu phụ đề tiếng Anh, mỗi khi gặp một câu mà mình không hiểu cách diễn đạt của người ta, bạn cần khẩn trương tra cứu ý nghĩa cụ thể của nó, sau đó ghi vào sổ tay. Năng tích lũy, ghi nhớ và thử vận dụng trong quá trình mình nói khẩu ngữ. Ngoài ra, còn có một phương pháp luyện nói khác là trực tiếp mở phần phụ đề tiếng Trung ra xem mình có thể dùng tiếng Anh diễn đạt ý nghĩa chính xác, hợp lý của mỗi câu phụ đề tiếng Trung hay không. Ví dụ, xem một câu phụ đề tiếng Trung nói “Rachel, anh yêu em, suốt đời này anh sẽ không lấy ai ngoài em”, bạn phải thử suy nghĩ, nếu bảo bạn diễn đạt ý nghĩa của câu “không lấy ai ngoài em” bằng tiếng Anh, thì bạn sẽ nói như thế nào? Bạn hãy thử nói câu này bằng tiếng Anh một lần, sau đó xem lại nhân vật trong phim nói như thế nào. Lâu dần, bạn có thể tích lũy được rất nhiều cách diễn đạt của người bản địa.
Vậy phải xem phim nào mới phù hợp với việc học tiếng Anh? Trước tiên, bạn cần phải xác định xem kỹ năng tiếng Anh hiện giờ của mình đang ở mức nào. Nếu bạn cho rằng kỹ năng tiếng Anh của mình thuộc trình độ sơ cấp, bước đầu học nghe và số lượng từ vựng vẫn còn ít ỏi, thì bạn có thể bắt đầu xem những bộ phim cơ bản như một số phim hoạt hình rất phổ biến của Mỹ. Nếu bạn cho rằng kỹ năng tiếng Anh của mình thuộc trình độ trung cấp, nghe khá ổn và có một lượng từ vựng nhất định, thì bạn có thể tính đến việc xem một số bộ phim nói về cuộc sống hàng ngày pha lẫn yếu tố hài hước nhẹ nhàng, đặc biệt bạn có thể lựa chọn một số bộ phim mà các nhân vật trong đó nhấn mạnh phát âm theo đúng quy chuẩn, chứ không theo sự sắp đặt của vai diễn. Nếu bạn cho rằng kỹ năng tiếng Anh của mình thuộc trình độ cao cấp, bạn muốn tích lũy thêm một số từ ngữ địa phương hoặc học thêm một số tri thức có liên quan đến văn hóa phương Tây, thì bạn có thể mạnh dạn lựa chọn một số bộ phim truyện và phim truyền hình Mỹ mang tính chất chuyên ngành. Điểm quan trọng là nếu bạn thật sự muốn học tiếng Anh bằng cách xem phim truyện, mà chỉ xem mỗi phim một lần thì chắc chắn không đủ, vì điều đó chẳng khác nào bạn chỉ nghe mỗi tài liệu một lần, sẽ chẳng có tác dụng. Bạn nhất định phải nhẫn nại, nghiên cứu nghiền ngẫm bộ phim thì mới có thể đạt được mục đích học tập. Nói cách khác, bất cứ phương pháp nào, tài liệu nào cũng đều có thể mang lại hiệu quả trong việc học tập tiếng Anh, nâng cao kỹ năng tiếng Anh, quan trọng là bạn vận dụng nó như thế nào và bạn có thể kiên trì đi theo nó suốt một thời gian dài hay không.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.